|   | 
			
			
				
					| 
					 
					TẬP BA  
					 
					DUY 
					THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI 
					 
					 
					Ngài THIÊN THÂN 
					Bồ Tát tạo luận   
					Ngài HUYỀN TRANG Pháp sư dịch chữ Phạn ra chữ Hán 
					 
					Ông ĐƯỜNG ĐẠI VIÊN giải dễ gọn   
					Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lượt giải. 
					TÂP 
					DUY THỨC TAM THẬP TỤNG NÀY CHIA LÀM 3 PHẦN:  
					1. DUY THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI   
					2. DUY THỨC TAM THẬP TỤNG CHÁNH VĂN 
					3. 
					PHỤ HAI CÁI BIỂU 
					   
					  
					 
					
					
					LỜI CỦA DỊCH GIẢ 
					Phật 
					ra đời độ sanh gần nửa thế kỷ, thuyết pháp trên 300 hội, nói 
					ra 84.000 pháp môn, nào quyền, thiệt, đốn, tiệm, các phương 
					tiện đều dạy bày; chung qui lại chỉ có hai phần: pháp tướng 
					và pháp tánh. Duy thức tôn là một trong Pháp tướng. 
					 
					Lý 
					Duy thức, trong các kinh điển, Phật đã nói nhiều. Về sau các 
					vị Bồ Tát trích lục lại, sắp xếp theo hệ thống, có thứ lớp, 
					biên thành sách, lập thành tôn, gọi là pháp tướng tôn hay 
					Duy thức tôn.   
					Như 
					vào khoảng 900 năm, sau khi Phật diệt độ, có Ngài Bồ Tát 
					Thiên Thân, y theo các kinh, viết qua quyển "Duy thức tam 
					thập tụng" v.v...Đến sau có 10 vị Đại luận sư (1) ra đời, 
					tuần tự giải thích quyển "Duy thức tam thập tụng" lập thành 
					mười bộ đại luận. Trong số ấy, bộ sớ giải của Ngài Hộ pháp 
					là có phần hoàn bị hơn hết. 
					 
					Đến 
					đời Đường, ở Trung Hoa có Ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang, 
					trí tuệ vô song, thông minh xuất chúng, phát tâm qua Ấn độ, 
					nghiên cứu Phật pháp 18 năm trường (xem bộ Huyền Trang của 
					Võ Đình Cường), Ngài rất thông về Duy thức tôn. Sau khi trở 
					về nước, Ngài phiên dịch rất nhiều kinh sách, mà quyển "Duy 
					thứ tam thập tụng" của Bô tát Thiên Thân là một. Ngài lại 
					còn lượm lặt những tinh hoa sớ giải trong 10 bộ luận của 10 
					vị Đại luận sư, rồi phiên dịch ra chữ Trung Hoa, làm thành 
					một bộ mười quyển, mệnh danh là "Thành Duy thức luận". 
					 
					Đệ tử 
					lớn của Ngài Huyền Trang là Khuy Cơ, trải qua thời gian mấy 
					mươi năm hầu Thầy, được đắc truyền về môn Duy thức học này, 
					nên sớ giải lại bộ "Thành Duy thức luận" đến 60 quyển, đặt 
					tên là "Thành Duy thức luận thuật ký". 
					 
					Đến 
					sau, Ngài Huyền Trang muốn cho người học dễ nhớ, nên làm 12 
					bài tụng (mỗi bài bốn câu) tóm tắt nghĩa lý rộng rãi u huyền 
					của Duy thức, đặt tên là "bát thức qui củ tụng". 
					 
					Đành 
					rằng sách vở Duy thức rất nhiều, vì các vị Bồ Tát nhắm nhiều 
					khía cạnh của Duy thức mà phân tích giảng giải, song có ba 
					bổn, từ xưa đến nay được xem là chánh tông, là căn bản của 
					Duy thức học:   
					1. 
					Đại thừa bá pháp minh môn luận: Nói về pháp số (danh từ 
					chuyên môn) của Duy thức. 
					 
					2. 
					Duy thức tam thập tụng: Nói về nghĩa chánh của Duy 
					thức.   
					3. 
					Bát thức qui củ tụng: Tóm tắt nghĩa lý bao la của Duy 
					thức.   
					Về 
					sau các học giả hoặc sang tác hoặc giải thích sách vở Duy 
					thức, đều căn cứ vào ba bổn luận ấy, khai thác nhiều khía 
					cạnh, rồi tán rộng ra hoặc làm cho nổi bật những điểm quan 
					trọng.   
					Bổn 
					"Đại thừa bá pháp minh môn luận" và bổn "Bát thức qui củ 
					tụng" Tôi đã dịch và giải rồi, hiệp chung lại dưới nhan đề 
					là "Duy thức nhập môn".  
					 
					Còn 
					bổn "Duy thức tam thập tụng" này, nay mới dịch xong. Nội 
					dung của luận này, do Ngài Bồ Tát Thiên Thân dùng 24 bài 
					tụng đầu, nói về Duy thức tướng, bài tụng thứ 25 nói về Duy 
					thức tánh, 5 bài tụng sau là nói về Duy thức vị; hay nói một 
					cách khác là: Duy thức cảnh, Duy thức hành và Duy thức quả 
					(xem 2 cái biểu ở cuối quyển này). 
					 
					Quí 
					vị muốn nghiên cứu về Duy thức học, trước nhứt nên đọc kỹ 3 
					bổn luận này. Cũng như người học nghề võ, trước phải học 
					đường thảo, rồi sau mới phân miếng. 
					 
					Huyền 
					diệu thay ! Cũng ba bổn luận này, mà từ xưa đến nay, không 
					biết bao nhiêu vị Đại luận sư và các nhà học giả, sớ giải 
					mãi cũng không cùng.  
					 
					Chúng 
					ta chớ nên có ý nghĩ nông cạn: học sơ lược chánh văn hay đọc 
					lời sớ giải thô sơ của ba bổn luận này, rồi cho là đầy đủ. 
					Phải học mãi, coi nhiều, chúng ta sẽ thấy rừng hoa Duy thức, 
					thật không biết bao nhiêu màu sắc tốt tươi xinh đẹp. 
					 
					Kính 
					đề   
					Sa môn THÍCH 
					THIỆN HOA   
					  
					 
					
					LỜI TỰA 
					Trong 
					Duy thức nói "Thức A lại da", tức là nói về pháp chúng sanh, 
					đáng lẽ phải dễ hiểu, tại sao lại rất khó hiểu ?  
					 
					Tuy 
					nói về pháp chúng sanh, song chúng sanh có vô lượng vô biên, 
					nên lời nói cũng phải vô lượng vô biên; đây là điều khó thứ 
					nhứt.   
					Lại 
					nữa, bên Thiền tôn thì chỉ thẳng về "Tâm pháp" nên không cần 
					văn tự ngữ ngôn; còn Duy thức tôn lại khai phương tiện, dùng 
					văn tự, ngữ ngôn. Đã dùng văn tự biên chép và lời nói luận 
					bàn, những sự lý vô lượng vô biên, cho nên lời nói phải 
					nhiều, văn tự phải thâm; đây là điều khó thứ hai. 
					 
					Bởi 
					hai điều khó trên, nên môn học Duy thức này ngày xưa bị bặt 
					tăm, cho đến ngày nay người học Phật, phần nhiều cũng tránh 
					chỗ khó mà tìm nơi dễ: nghe nói đến Duy thức thì thối lui. 
					Đôi khi cũng có người cố gắng tìm học, song lại không gặp 
					cửa để vào !   
					Đại 
					Viên này đã ôm ấp chí lợi tha từ lâu, nên đối với việc khó 
					khăn này đã nhiều lần lưu ý. 
					 
					Nền 
					tảng đầu tiên của Duy thức học là quyển: 
					 
					"Đại 
					thừa bá pháp minh môn luận" và quyển "Duy thức tam thập 
					tụng".   
					Song, 
					nếu theo những bản chú giải về đời Đường thì rất khó khăn; 
					người sơ học không dễ gì nhập được. Còn những bản Duy thức 
					thuộc về đời Minh chú giải, lại sợ ngụy truyền. Bởi thế nên 
					tôi căn cừ theo bản chú giải xưa (đời Đường), rồi cải tạo 
					văn thể những chỗ nghĩa lý thâm thuý khó hiểu, thì tôi làm 
					cho rõ ràng dễ hiểu; còn những chỗ phiền phức, thì tôi thanh 
					giản cho gọn gàng. Vì thế nên tôi đặt tên quyển sách này là 
					"Duy thức dị giản" (Duy thức dễ gọn). 
					 
					Bởi 
					"dễ", nên người đọc dễ hiểu và có thể đọc lâu, vì "gọn" nên 
					người học dễ theo và có thể đọc nhiều. 
					 
					Nay 
					tôi giảng 30 bài tụng Duy thức này, là muốn cho người học dễ 
					hiểu và dễ theo, dễ tiến đến việc đọc nhiều, đọc lâu về môn 
					Duy thức học vậy.   
					ĐƯỜNG 
					ĐẠI VIÊN  
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ NHỨT 
					 
					DUY 
					THỨC TAM THẬP TỤNG DỊ GIẢI 
					  
					
					GIẢI ĐỀ MỤC   
					
					"Duy thức" _ Thức là phân biệt; có hai phần: 1. Sở phân 
					biệt (bị biết) gọi là cảnh, hoặc gọi là sự vật, tức là núi, 
					sông, ruộng, vườn ...2. Năng phân biệt (cái biết) gọi là 
					thức, tức là cái tác dụng phân biệt hay nhận biết các cảnh 
					vật.   
					Cảnh 
					vật có hình tướng, thức không hình tướng. Người đời đều nói 
					hai vật này (vật chất, tinh thần) riêng khác; thật ra năng 
					phân biệt (biết) và sở phân biệt (bị biết) cũng đều là thức; 
					ngoài thức ra không có vật gì khác. Bởi thế nên gọi là Duy 
					thức.   
					Người 
					đời vì chấp tất cả sự vật là thật có, nên không tin lý duy 
					thức. Nay môn học này, giải thích cho người biết: tất cả sự 
					vật, chỉ có thức biến hiện, không phải thật có, nên gọi là 
					"Duy thức học".   
					
					"Tam thập tụng" _ Theo lệ thường, trong kinh Phật, mỗi 
					một bài là bốn câu; nay dùng 30 bài tụng, để giải thích 
					nghĩa mầu nhiệm của Duy thức, cho nên quyển luận này gọi là 
					"Duy thức tam thập tụng". 
					 
					
					"Dị giải" _ Nguyên văn bổn luận này có 30 bài tụng, do 
					ngài Bồ Tát Thiên Thân tạo ra. Văn tự đã khó mà nghĩa lý lại 
					thâm, người học rất khó hiểu. Nay tôi giải thích bổn luận 
					này, dùng những lời lẽ gọn gàng dễ hiểu, nên gọi là "Dị 
					giải".   
					
					CHÁNH VĂN  
					
					Hỏi: _ Nếu chỉ có thức, tại sao người thế gian và trong 
					Phật giáo, đều nói có Ngã và Pháp ? 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Người 
					đời chấp tất cả sự vật, như núi, sông, cỏ, cây ...đều thật 
					có. Nay lại nghe nói: "Các cảnh vật ấy đều do thức biến 
					hiện, chỉ là giả tướng, chớ không phải thật có", thì họ 
					quyết định không tin. Bởi thế nên Luận chủ đề xướng Duy thức 
					học, đặt ra những lời vấn đáp, để giải thích các điều nghi 
					ngờ đó.   
					Có 
					người hỏi: _ Nếu chỉ có thức mà thôi, thì tại làm sao, 
					người thế gian và trong Phật giáo đều nói có Ngã, Pháp? Nếu 
					lý Duy thức đúng, thì lời người thế gian và Phật giáo nói 
					sai, còn nếu thế gian và Phật giáo nói đúng, thì lý Duy thức 
					phải sai. Hai thuyết rất mâu thuẫn nhau, vậy bên nào nói 
					đúng lý?   
					Câu 
					hỏi này rất khó, nếu không phải bực Bồ Tát trí huệ vô biên, 
					thì không dễ gì trả lời được. 
					 
					
					"Ngã pháp" nghĩa là gì?_ "Ngã" là chủ tế (tự chủ, có 
					quyền sắp đặt). Như người đời chấp thân này là "ta"; có 
					quyền tự chủ, tự tại và sai khiến sắp đặt các việc, như thế 
					gọi là "Ngã".   
					
					"Pháp" là khuôn phép và giữ gìn; nghĩa là tự nó giữ gìn 
					bản chất của nó, làm cho người xem đến, thì biết là vật gì. 
					(Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải). 
					 
					Như 
					cái bàn ở trước mặt đây, tự nó giữ gìn bản chất cứng nhắc, 
					hình dáng dài rộng hoặc cao thấp và có công năng chứa vật. 
					Một khi người xem đến thì biết là cái bàn. Như thế gọi là 
					"pháp".   
					Người 
					thế gian chấp ngã, như chấp thân mạng loài hữu tình, đều có 
					quyền tự chủ, tự tại và sai khiến sắp xếp mọi việc. 
					 
					Người 
					thế gian chấp pháp, không ngoài ba điểm: Thật (bản chất), 
					Đức (hình dáng), Năng (công dụng). Như họ chấp nhà cửa cỏ 
					cây, v.v ...là thật có (thật) hình dáng tốt hay xấu (đức) và 
					công dụng của nó (nghiệp); mỗi món đều gọi là một pháp. 
					 
					Trong 
					Phật giáo nói ngã, như nói "Tu Đà hoàn, Tu Đà hàm, A Na Hàm, 
					A la Hán, v.v ...". mỗi tên đều hàm ẩn ý nghĩa: ta đã chứng, 
					ta được tự chủ và tự tại. 
					 
					Trong 
					Phật giáo nói Pháp, như nói "5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, v.v...". 
					mỗi pháp đều tự giữ gìn bản chất (tự tánh) và hình dáng của 
					nó; khi người xem đến, có thể biết đó là vật gì. 
					 
					Nhưng 
					chúng ta phải chú ý ở điểm này: Trong Phật giáo nói "ngã" , 
					không đồng với người thế gian "chấp ngã". Như kinh Kim Cang 
					nói: "Gọi là Tu Đà Hoàn (Nhập lưu) mà không có Tu Đà Hoàn 
					(vô sở nhập) thế mới gọi là Tu Đà Hoàn, v.v ..." 
					 
					Đem 
					đoạn kinh này để chứng minh, thì chúng ta thầy trong kinh 
					tuy nói "Ngã", song chỉ có giả danh mà thôi, không phải như 
					thế gian chấp có thật Ngã. 
					 
					
					Đáp:_Nguyên văn chữ Hán 
					 
					
					Tụng viết:   
					Do 
					giả thuyết Ngã Pháp   
					Hữu chủng chủng 
					tướng chuyển   
					Bỉ y thức sở 
					biến.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói ba câu tụng để trả lời rằng: Thế gian và Thánh giáo 
					đều giả nói có Ngã, Pháp; bởi vì các tướng Ngã, Pháp kia đều 
					do thức sanh ra vậy.  
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đại ý 
					ba câu tụng này nói: Do thế gian và Thánh giáo đều giả nói 
					có Ngã, Pháp, rồi từ trên thức của người nghe tự biến ra 
					hình tướng của Ngã, Pháp. 
					 
					
					NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP CỦA THẾ GIAN 
					 
					Như 
					có người đang ngồi yên trong nhà tối, bổng nghe người nói: 
					"Ở góc nhà kia có con quỉ". Lúc bấy giờ trên thức của họ 
					liền biến ra con quỉ, tóc tai xù xụ, hình tướng rất ghê sợ, 
					muốn chụp bắt người. Thật ra không có quỉ, nhưng trên thức 
					người nghe lại biến ra quỉ. Đây là tướng Ngã của thế gian, 
					do thức biến vậy.   
					Có 
					người ngồi trong nhà, nghe nói: "Tuyết rơi ngoài sân". Lúc 
					bấy giờ trên thức họ tự biến ra hình tướng tuyết bay trắng 
					xoá. Thật ra không có tuyết, nhưng trên thức của người nghe 
					lại biến ra có hình tướng của tuyết. Đây là tướng Pháp của 
					thế gian, di thức biến ra vậy. 
					 
					
					NÓI VỀ TƯỚNG NGÃ, PHÁP TRONG THÁNH GIÁO 
					 
					Như 
					có người nghe trong kinh nói: "Phật có 32 tướng". Rồi từ 
					trên thức của họ tự biến ra tướng Phật tốt đẹp lạ thường. 
					Đây là tướng "Ngã" trong Thánh giáo, do thức biến ra. 
					 
					Hoặc 
					nghe nói: "Cõi Phật có 7 món báu trang nghiêm"; rồi từ trên 
					thức của họ biến ra cảnh Tịnh độ. Đây là tướng "Pháp" trong 
					Thánh giáo, do thức biến hiện. 
					 
					***
					 
					Ngoại 
					nhơn đã nghe Luận Chủ nói: "Các tướng Ngã, Pháp đều do thức 
					biến hiện", thế tất nhiên họ phải nghi rằng: 
					 
					Hình 
					tướng của thức thế nào?  
					 
					Và có 
					bao nhiêu chủng loại?  
					 
					Vì 
					đoán tâm lý của ngoại nhân, nên Luận chủ nói tiếp ba câu 
					tụng, để trả lời rằng:  
					 
					
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Thử 
					năng biến duy tam   
					Vị: 
					Dị thục, Tư lương   
					Cập 
					Liễu biệt cảnh thức   
					
					Dịch nghĩa   
					Thức 
					Năng biến này có 3 loại:  
					 
					1. Dị 
					thục thức (thức thứ Tám)  
					 
					2. Tư 
					lương thức (thức thứ Bảy) 
					 
					3. 
					Liễu Biệt cảnh thức (6 thức trước). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Đoạn 
					trên nói: "Do thức biến ra các tướng Ngã, Pháp". Đã có cảnh 
					sở biến (bị biến) tất nhiên phải có thức năng biến. 
					 
					Đoạn 
					này nói về thức năng biến. Thức năng biến có ba loại: 
					 
					1. Dị 
					thục thức, tức là thức thứ Tám 
					 
					2. Tư 
					lương thức, tức là thức thứ Bảy 
					 
					3. 
					Liễu biệt cảnh thức, tức là 6 thức trước (từ nhãn thức cho 
					đến ý thức).   
					Ba 
					loại thức Năng biến này, nếu phân tích ra thì có tám thức 
					(Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỹ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý 
					thức, Mạt na thức và A lại da thức) 
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ 
					HAI   
					CHÁNH 
					VĂN 
					  
					
					Hỏi:_ Trên đã 
					lược nói cái "tên", nhưng chua nói rõ cái "tướng" của thức 
					Năng biến; vậy cai "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế 
					nào?   
					Đáp:_ Nguyên 
					văn chữ Hán   
					Tụng viết: 
					 
					Sơ A lại da thức 
					 
					Dị thục, Nhứt thế 
					chủng.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói tụng 
					(10 câu) đễ trả lời rằng: Thức Năng biến thứ nhứt tên là A 
					lại da, cũng gọi là Dị thục thức hay Nhứt thế chủng thức. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Thức Năng biến thứ 
					nhá?t có ba tướng:   
					I. Tự tướng 
					(thể); tiếng Phạn gọi là "A lại da", Tàu dịch là 
					"Tàng". Chữ Tàng có ba nghĩa: 
					 
					1. Năng tàng: 
					Thức này có công năng chứa tất cả chủng tử (hạt giống) của 
					các Pháp thiện ác; cũng như cái kho có công năng chứa lúa. 
					 
					2. Sở tàng: 
					Thức này có chổ để chứa chủng tử của các Pháp; cũng như cái 
					kho là chổ để chứa lúa.  
					 
					3. Ngã ái chấp 
					tàng: Thức này thường bị thức thứ Bảy ái luyến chấp làm 
					ngã. Nó như người giữ kho, giữ gìn chẳng cho lúa mất (chấp 
					tàng).   
					II. Quả tướng 
					(quả); gọi là "Dị thục thức". Chữ Dị thục có ba 
					nghĩa:   
					1. Dị thời nhi 
					thục: Khác thời mà chín. Dụ như trái xoài, từ khi sanh 
					cho đến khi chín, thời gian khác nhau. 
					 
					2. Dị loại nhi 
					thục: Khác loài mà chín. Dụ như trái xoài, khi nhỏ tánh 
					chua, đến chín lại ngọt.  
					 
					3. Biến dị nhi 
					thục: Biến đổ khác chất mà chín. Dụ như trái xoài, khi 
					nhỏ thì xanh, đến khi già chín biến đổi lại vàng. 
					 
					Vì thức Dị thục này 
					lãnh thọ thân quả báo, nên gọi là Dị thục quả. Tánh chất của 
					Dị thục quả là vô ký (không nhứt định thiện hay ác); song về 
					nghiệp nhơn đời trước của nó, lại có thiện và ác. 
					 
					Bởi lấy nghiệp nhơn 
					(thiện ác) đối với quả (vô ký) mà nói, nên có ba nghĩa: Khác 
					thời gian chín (Dị thời nhi thục), khác loại mà chín (Dị 
					loại nhi thục) và biến đổi chín (Biến dị nhi thục). 
					 
					1. Dị thời ... Dị 
					thục  
					2. Dị loại ... nhị 
					thục   
					3. Biến dị ... Quả 
					(vô ký)   
					Nhơn (thiện, ác) 
					 
					III. Nhơn 
					tướng (nhơn); gọi là Nhứt thế chủng tức. Tất cà các 
					pháp hiện tượng (hiện hành) trong thế gian và xuất thế gian, 
					đều có chủng tử (công năng tiềm tàng) của nó. Các chủng tử 
					này đều chứa trong thức thứ Tám (tàng thức). Các chủng tử là 
					"nhơn" khởi hiện ra các Pháp là "quả". Vì theo "nhơn tướng" 
					(chủng tử), nên gọi thức này là "Nhứt thế chủng". 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Bất khả tri chấp 
					thọ   
					Xứ liễu thường dữ 
					xúc   
					Tác ý thọ tưởng tư 
					 
					Tương ưng duy xả 
					thọ   
					Dịch nghĩa 
					 
					Không thể biết hành 
					tướng năng duyên và công năng giữ gìn chủng tử, lãnh thọ 
					thân thể và thế giới của thức này được. Thức này thường 
					tương ưng với năm món biến hành là: xúc, tác ý, thọ, tưởng 
					và tư. Song trong các thọ, nó chỉ tương ưng với xả thọ. 
					 
					LƯỢC GIẢI  
					Hành tướng thức Năng 
					biến thứ nhứt rất là tế nhị ! Bởi người đời tâm thô không 
					thể biết được, nên nói "Bất khả tri". 
					 
					Những việc của thức 
					này mà người đời không thể biết được, có hai phần: 
					 
					1. Thức này giữ gìn 
					chủng tử, thế giới, thân thể và làm cho thân thể sanh ra cảm 
					giác, lãnh thọ; nghĩa là thức thứ Tám này biến hiện ra thế 
					giới và chúng sanh rồi giữ gìn không cho mất; đây là điều 
					khó biết thứ nhứt.   
					2. Hành tướng năng 
					duyên (liễu) của thức này, rất sâu xa và tế nhị, đây là điều 
					khó biết thứ hai.   
					Không 1. Kiến phần 
					năng duyên của thức này (liễu) 
					 
					Thể biết 2. Tướng 
					phần bị 1. Chủng tử   
					 
					Duyên của thức 2.
					 
					Thân thể (chấp thọ) 
					 
					Này 3. Thế giới 
					(xứ)   
					Tám thức, phân làm 
					ba món năng biến, đều có quyền tự chủ, tự tại; cũng như vị 
					Quốc Vương, nên gọi là Tâm vương. Song như vị Quốc vương 
					phải có quần thần phụ tá, thì mới có thể giữ nước trị dân. 
					Tâm vương cũng phải có bộ hạ tuỳ tùng để giúp đỡ mới hay tạo 
					ra các nghiệp. Những bộ hạ tuỳ tùng ấy lệ thuộc Tâm vương, 
					không được tự tại, nên gọi "Tâm sở", hoặc gọi là "Tâm sở 
					hữu"; nghĩa là cái sở hữu của Tâm vương. 
					 
					Lại nữa, Tâm sở đã 
					giúp Tâm vương tạo nghiệp, thì Tâm vương với Tâm sở phải ưng 
					thuận với nhau nên gọi là tương ưng. 
					 
					Hỏi:_ 
					Có mấy Tâm sở tương ưng với thức này? 
					 
					Đáp:_ Chỉ có 
					năm món biến hành thường tương ưng với thức này là: Xúc, Tác 
					ý, Thọ, Tưởng và Tư.  
					 
					Xúc: Tiếp 
					xúc. Như con mắt xen hoa, khi mới vừa tiếp xúc với hoa; đó 
					là tác dụng của Xúc Tâm sở. Thí như hai người đồng đi một 
					con đường; một người đi từ phương Đông đến phương Tây, một 
					người đi từ phương Tây đến phương Đông; hai người gặp nhau 
					một chỗ, gọi đó là xúc.  
					 
					Một thí dụ nữa, như 
					môn Kỷ hà học: trên cái hình tròn gạch qua một đường, chỗ 
					đụng nhau một chỗ trên đường gạch, đó là xúc. 
					 
					Tác ý: Móng 
					khởi cái ý. Như khi muốn xem hoa, trước nhứt móng khởi cái 
					ý; đó là "Tác ý Tâm sở". Rồi nó dẫn dắt nhãn thức xem hoa. 
					Nếu không có tác dụng của Tâm sở này, thì dù có gặp hoa cũng 
					không thấy.   
					Người đời có khi đi 
					ngang qua vườn đầy hoa, mà không thấy hoa. Như thế là vì 
					trong lúc đó, Tâm sở tác ý không có tương ưng với nhãn 
					thức.   
					Thọ: Lãnh 
					thọ. Như khi thấy hoa, có sự cảm thọ vui buồn ... 
					 
					Tưởng: Tưởng 
					tượng. Như sau khi thấy hoa, rồi tưởng tượng hình tướng của 
					hoa đỏ hay vàng, tốt hay xấu ... 
					 
					Tư: Lo nghĩ, 
					tạo tác. Như nhơn thấy hoa, rồi lo nghĩ trồng hoa hay bẻ hoa 
					...   
					Lại nữa, "Thọ Tâm 
					sở" có 3 loại:   
					1. Lạc thọ: 
					Thọ vui. Khi gặp cảnh thuận, như được người khen ngợi, thì 
					cảm thọ vui mừng.   
					2. Khổ thọ: 
					Thọ khổ. Khi gặp cảnh nghịch, như bị người hủy báng hạ nhục, 
					thì cảm thọ buồn khổ.  
					 
					3. Xả thọ: 
					Thọ cảnh không vui buồn. Khi gặp cảnh bình thường không 
					thuận nghịch, như trong lúc không được khen hay bị chê, thì 
					cảm thọ không vui buồn.  
					 
					Tóm lại, thức thứ 
					Tám này, tương ưng với 5 món Tâm sở Biến hành và hành tướng 
					của nó rất là tế nhị, không có hiện ra khổ và vui, nên chỉ 
					tương ưng với xả thọ.  
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Thị vô phú vô ký 
					 
					Xúc đẳng diệc như 
					thị   
					Dịch nghĩa 
					 
					Tánh của thức này là 
					vô phú vô ký, nên những Tâm sở tương ưng với nó, như Xúc, 
					Tác ý ...cũng vô phú vô ký. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Tánh của các pháp, 
					tóm lại có 3 loại: 1. Tánh thiện, 2. Tánh ác, 3. Tánh vô ký 
					(không thiện không ác).  
					 
					Tánh vô ký lại chia 
					làm 2 loại:1. Vô phú vô ký, 2. Hữu phú vô ký _ Thí như mặt 
					gương, không phải thiện ác, dụ cho "tánh vô ký"; khi bị bụi 
					che lấp ánh sáng, dụ cho "tánh hữu phú vô ký". Đến lúc lau 
					chùi sạch bụi; dụ cho "tánh vô phú vô ký". 
					 
					Tóm lại, thức thứ 
					Tám này không bị các phiền não ngăn che, nên thuộc về tánh 
					vô phú vô ký. Và những Tâm sở tương ưng với thức này, như 
					Xúc, Tác ý ...cũng thuộc về tánh vô phú vô ký. 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Hằng chuyển như bộc 
					lưu   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hằng chuyển biến như 
					dòng nước chảy mạnh.  
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Ngoại đạo chấp các 
					pháp thường còn không mất, như thế gọi là chấp "thường"; 
					hoặc chấp chết rồi mất hẳn, như thế gọi là chấp "đoạn". 
					 
					Nhà duy thức nói: từ 
					vô thỉ đến nay, thức này hằng chuyển biến luôn, mỗi niệm 
					sanh diệt tương tục không gián đoạn. Cũng như nước thác, từ 
					trên núi cao đổ xuống, một dãy trắng xoá; ở xa trông như tấm 
					vải trắng. Vì nó hằng chảy luôn, nên chẳng phải "đoạn diệt". 
					Song nó liên kết tiếp tục nhiều giọt, biến chuyển sanh diệt 
					luôn, nên không phải "thường nhứt". 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					A la hán vị xả ? 
					 
					Dịch nghĩa 
					 
					Đến vị A la hán mới 
					xả bỏ thức này (tàng thức). 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Hỏi: Thức 
					này, đã sanh diệt tương tục, là gốc của sanh tử luân hồi, 
					vậy phải tu đến địa vị nào mới xả bỏ nó được ? 
					 
					Đáp: Người tu 
					hành đoạn hết phiền não chướng, đến quả vị A la hán, mới xả 
					bỏ được thức "A lại da". Song chỉ xả bỏ cái "danh", chớ 
					không phải xả bỏ cái "thể" của thức này. 
					 
					Hỏi: Tại sao 
					không xả bỏ cái "thể", của thức này? 
					 
					Đáp: Cái 
					"thể" của thức này có hai phần: nhiễm và tịnh. Phần tịnh tức 
					là "Trí". Trong bài tụng nói "xả bỏ thức này", tức là chuyển 
					thức thành trí, chớ không phải xả bỏ. Nếu xả bỏ cái "thể" 
					của thức này, thì thành ra đoạn diệt, thuộc về ngoại đạo. 
					Trong Đạo Phật không có chủ trương đoạn diệt (mất hẳn). 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ BA 
					 
					CHÁNH 
					VĂN 
					  
					Hỏi: 
					_ Trên đã nói thức năng biến thứ nhứt, còn thức năng biến 
					thứ hai thế nào?   
					
					Đáp: _ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					
					Tụng viết:   
					Thứ 
					đệ nhị năng biến   
					Thị thức danh 
					Mạt na   
					Y bỉ chuyển, 
					duyên bỉ   
					Tư lương vi tánh 
					tướng.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ này tụng (12 câu) để trả lời rằng: Thức năng biến thứ 
					hai tên là Mạt na. Thức này do thức A lại da sanh ra, rồi 
					trở lại duyên thức A lại da chấp làm ngã. Tánh và tướng của 
					nó thường lo nghĩ.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Trước 
					đã nói thức Năng biến thứ nhứt, tiếp theo đây nói thức Năng 
					biến thứ hai, tức là thức thứ Bảy. Tiếng Phạn gọi là Mạt na, 
					Tàu dịch là Ý. Thức này là "Căn" của ý thức, chứ không phải 
					ý thức (thứ 6).   
					Thức 
					này nương thức A lại da sanh khởi, rồi trở lại duyên thức A 
					lại da chấp làm ngã. Cũng như cái tay từ nơi thân sanh ra, 
					rồi trở lại hộ vệ cái thân. Vì thức này tánh hay lo nghĩ, 
					nên hiện ra tướng trạng bên ngoài cũng lo nghĩ. 
					 
					
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tứ 
					phiền não thường câu   
					Vị: ngã si, ngã 
					kiến   
					Tinh ngã mạn, 
					ngã ái   
					Cập dư xúc đẳng 
					câu.   
					
					Dịch nghĩa   
					Bốn 
					món phiền não thường chung cùng với thức này là: Ngã si, Ngã 
					kiến, Ngã mạn, Ngã ái. Ngoài ra thức này còn tương ưng với 
					các Tâm sở, như Xúc, Tác ý ... 
					 
					
					LƯỢC GIẢI 
					 
					Những 
					Tâm sở thường tương ưng với thức này, là bốn món phiền não: 
					1. Ngã si (si mê cái Ngã), 2. Ngã kiến (Chấp cái Ngã), 3. 
					Ngã mạn (đề cao cái Ngã của mình, để khinh mạn người), 4. 
					Ngã ái (tham ái cái Ngã). 
					 
					Bởi 
					thức Mạt ma thường chấp thức A lại da làm Ngã, nên bốn món 
					phiền não tương ưng với thức này, cũng đều do cái Ngã mà 
					sanh. Vì thế nên trên mỗi món phiền não lại thêm chữ Ngã 
					(Ngã si, Ngã kiến, Ngã mạn, Ngã ái). 
					 
					Ngoài 
					bốn món phiền não trên, lại còn có các Tâm sở, như năm món 
					Biến hành và tuỳ phiền não v.v...cũng tương ưng với thức 
					này; nhưng không phải thường có như bốn món phiền não trên. 
					 
					Si, 
					Kiến,   
					Các 
					Tâm sở 1. Thường chung khởi. Tương ưng với Mạn, Ái. 
					 
					Thức 
					này 2. Không thường Năm món Biến hành. Tuỳ phiền não v.v 
					...   
					
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Hữu 
					phú vô ký nhiếp   
					Tuỳ sở sanh sở 
					hệ   
					A la hán, Diệt 
					định   
					Xuất thế đạo vô 
					hữu   
					
					Dịch nghĩa   
					Tánh 
					của thức này là "hữu phú vô ký". Tuỳ thức A lại da sanh về 
					cảnh giới nào, thì thức này theo đó mà chấp Ngã. Khi chứng A 
					la hán, nhập Diệt tận định và được vào Đạo xuất thế, thì 
					không còn thức này.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Vì 
					bốn món phiền não ngăn che, nên tánh của thức Mạt ma thuộc 
					về hữu phú vô ký. Lại nữa, vì thức này do thức A lại da sanh 
					ra, nên tuỳ theo thức A lại da sanh về cõi nào, thì nó theo 
					chấp ngã ở cõi đó.   
					
					Hỏi:_ Người tu hành phải đến địa vị nào mới đoạn được 
					Ngã chấp và không còn thức Mạt ma? 
					 
					
					Đáp:_ Có ba địa vị:  
					 
					1. 
					Đến địa vị A la hán: Vì vị này đã xả tàng thức, nên thức 
					Mạt ma không còn chấp Ngã. 
					 
					2. 
					Nhập diệt tận định: Vì định này diệt hết các Tâm vương 
					và Tâm sở của bảy thức trước. 
					 
					3. 
					Đạo xuất thế: Hành giả khi đặng cái trí hiểu biết chơn 
					vô ngã và đặng trí vô lậu hậu đắc, thì không còn thức Mạt 
					ma.   
					Xả 
					Tàng thức   
					1. A 
					la hán không còn Mạt ma  
					 
					Diệt 
					hết Tâm vương Tâm    
					Ba 
					địa vị sở của 6 thức trước. 
					 
					
					Không có  
					2. 
					Diệt tận định Diệt các Tâm sở về phần 
					Mạt ma tạp nhiễm 
					của thức Mạt ma.   
					Được 
					trí hiểu biết chơn   
					3. 
					Đạo xuất thế vô ngã   
					Đặng 
					trí vô lậu hậu đắc 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN  
					
					Hỏi:_ Như vậy đã nói thức năng biến thứ hai, còn thức 
					năng biến thứ ba thế nào? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Thứ 
					đệ tam năng biến   
					Sai biệt hữu lục 
					chủng   
					Liễu cảnh vi 
					tánh tướng   
					Thiện, bất 
					thiện, câu phi.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói tụng (2 bài) để trả lời rằng: 
					 
					Thức 
					năng biến thứ ba, có sáu món sai khác. Tánh và tướng của 
					thức này đều phân biệt cảnh (liễu cảnh). Thức này đủ cả ba 
					tánh: thiện, ác và vô ký (câu phi). 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Thức 
					năng biến thứ ba có sáu món: 1. Nhãn thức, 2. Nhĩ thức, 3. 
					Tỹ thức, 4. Thiệt thứic, 5. Thân thức, 6. Ý thức. Trong 8 
					thức, thức nào cũng đều phân biệt cảnh; song thức thứ Bảy và 
					thức thứ Tám chỉ phân biệt cảnh tế, còn 6 thức trước lại 
					phân biệt cảnh thô; nên trong bài tụng nói "Tánh tướng nó 
					đều phân biệt cảnh". Cũng như mặt trời mặt trăng sáng suốt 
					chiếu soi khắp thiên hạ. Mặt trời mặt trăng sáng suốt là dụ 
					cho bản tánh của thức này; còn chiếu soi là dụ cho tướng 
					dụng của thức này.   
					Sáu 
					thức này đủ cả 3 tánh: thiện, ác, và vô ký (không thiện 
					ác).   
					
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Thử 
					Tâm sở biến hành   
					Biệt cảnh, 
					thiện, phiền não   
					Tuỳ phiền não 
					bất định   
					Giai tam tho 
					tương ưng   
					
					Dịch nghĩa   
					Những 
					Tâm sở tương ưng với thức này, như: biến hành, biệt cảnh, 
					căn bản phiền não, tuỳ phiền não, bất định và ba thọ. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Tâm 
					sở do tâm vương đặt để, cũng như các quan do Vua sắp đặt, 
					như một vị quan lớn có bao nhiêu nhơn viên. Tâm sở cũng thế, 
					tất cả 51 món, phân làm 6 loại, mỗi loại có bao nhiêu món. 
					 
					Nay 
					xin liệt kê sau đây:  
					 
					1. 
					Biến hành, có 5 món   
					2. 
					Biệt cảnh, có 5 món   
					3. 
					Thiện, có 11 món   
					4. 
					Căn bản phiền não, có 6 món 
					 
					5. 
					Tuỳ phiền não, có 20 món  
					 
					6. 
					Bất định, có 4 món.   
					Ba 
					thọ là: khổ thọ, lạc thọ, và xả thọ. 
					 
					Tóm 
					lại, thức này tương ưng với 51 món tâm sở và 3 thọ
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ TƯ 
					 
					CHÁNH 
					VĂN 
					  
					
					Hỏi:_ Trên đã lược nêu 6 loại Tâm sở tương ưng nay xin 
					nói rõ hành tướng (hành vi và tướng trạng) sai khác của các 
					loại Tâm sở này; vậy 2 loại Tâm sở đầu tiên thế nào? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					Sơ 
					biến hành: Xúc đẳng   
					Thứ Biệt cảnh 
					vị: Dục   
					Thắng giải, 
					Niệm, Định, Huệ   
					Sở duyên sự bất 
					đồng.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Hai loại Tâm sở, đầu tiên 
					là Biến hành, có năm món: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư; loại 
					Tâm sở thứ hai là Biệt cảnh, cũng có năm món: Dục, Thắng 
					giải, Niệm, Địng, Huệ. Công việc duyên cảnh của năm món Biệt 
					cảnh không đồng nhau.  
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Biến 
					hành Tâm sở: Tâm sở này đi khắp tất cả: 
					 
					1. Đi 
					khắp tất cả thời gian (quá khứ, hiện tại, vị lai). 
					 
					2. Đi khắp tất 
					cả không gian (ba cõi, chín địa) 
					 
					3. Đi khắp tất 
					cả tánh (thiện,ác và vô ký). 
					 
					4. Đi khắp tất 
					cả thức (tám thức tâm vương). 
					 
					Năm 
					món Biến hành là: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng và Tư. Trong bài 
					nói về thức Sơ năng biến ở trước, đã có nói về hành tướng 
					của năm món Biến hành Tâm sở rồi, nên bài này chỉ nói về năm 
					món Biệt cảnh.   
					Biệt 
					cảnh Tâm sở: Tâm sở này có năm món, mỗi món duyên mỗi cảnh 
					giới khác nhau, không thể đi khắp tất cả như năm món Biến 
					hành.   
					Năm 
					món Biệt cảnh là: Dục, Thắng giải, Niệm, Định và Huệ. 1. 
					Dục: Muốn; như phát tâm muốn lìa trần tục, hoặc muốn học 
					Phật v.v ..., 2. Thắng giải: Hiểu biết rõ ràng; như học Duy 
					thức, hiểu biết được rõ ràng, 3. Niệm: Nhớ nghĩ; như ngày 
					trước học giáo lý, hôm nay nhớ lại, 4. Định: Chăm chú; như 
					chăm chú nghe hoặc học Duy thức, tâm không loạn động, 5. 
					Huệ: Trí huệ; nhơn định nên sanh trí huệ. 
					 
					Vì 
					năm Tâm sở này, mỗi món duyên mỗi cảnh và hành tướng khác 
					nhau; cũng như năm người, mỗi người ở mỗi chỗ và làm mỗi 
					việc không đồng, nên bài tụng trên nói "Sở duyên sự bất 
					đồng": Công việc duyên cảnh của năm món Tâm sở này không 
					đồng.   
					  
					Biệt cảnh:  
					 
					1. 
					Dục Tâm sở duyên cảnh bị mong muốn 
					 
					2. Thắng giải đã 
					rõ ràng   
					3. Niệm nhớ lại 
					 
					4. Định chăm 
					chú   
					5. Huệ quán sát 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Trên đã nói hai loại Tâm sở biến hành và biệt 
					cảnh; còn hành tướng của Thiện Tâm sở thế nào? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					
					Thiện, vị: Tín, Tàm, Quí   
					Vô tham đẳng tam 
					căn   
					Cần, An, Bất 
					phóng dật   
					Hành xả cập Bất 
					hại.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: Thiện Tâm sở có 11 món: 
					Tín, Tàm, Quí và ba thiện căn là vô tham, vô sân, vô si với 
					cần, an, bất phóng dật, hành xả và bất bai. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					11 
					món Thiện Tâm sở này, cũng như các vị Trung thần trong nước, 
					hay người tớ trung thành trong nhà. 
					 
					
					1.Tín: Tin; như tin Tam bảo, 2. Tàm: Xấu hổ; như mình lỡ làm 
					việc có tội lỗi, sanh ra xấu hổ, 3. Quí: Thẹn thùa; như mình 
					làm việc sái quấy, đối với người sanh lòng thẹn thùa. Nói 
					lại cho dễ hiểu: Tàm là tự hổ lấy mình; Quí là thẹn với 
					người, 4. Vô tham: không tham; gặp cảnh tốt đẹp, không sanh 
					tâm tham lam, 5. Vô sân: Không nóng giận, 6. Vô si: Không si 
					mê; đối với tất cả sự vật, tâm không si mê. Ba món tâm sở 
					này (vô tham, vô sân, vô si) là gốc rễ của các pháp lành, 
					nên được gọi là "Tam thiện căn" (ba căn lành), 7. Cần: Siêng 
					năng; gặp việc lành, tâm tinh tấn không thối lui, 8. Khinh 
					an: Nhẹ nhàng sảng khoái; thâm tâm vui vẻ nhe nhàng, 9. Bất 
					phóng dật: Khônh phóng túng; bỏ dữ làm lành, không buông 
					lung theo dục lạc, 10. Hành xả: Làm mà không cố chấp; làm 
					tất cả việc tốt, mà không tham luyến cố chấp, làm với bản 
					tánh tự nhiên, chớ không có dụng công, tâm thường an trụ nơi 
					bình đẳng. Hành tướng của Hành xả, như người đi đường: Phải 
					bỏ bước sau mới tiến tới bước trước. Nếu không bỏ bước sau 
					thì không bao giờ tiến tới bước trước được. Lại nữa, hành xả 
					với Xả thọ khác nhau: "hành xả" là món Xả trong Hành uẩn, 
					thuộc về pháp lành; còn "Xả thọ" là một trong Thọ uẩn, 
					thuuộc về tánh vô ký, 11. Bất hại: Không làm tổn hại tất cả 
					chúng sanh. 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Trên đã nói 11 món Thiện Tâm sở, còn hành tướng, 
					(hành vi, tướng trạng) của căn bổn phiền não thế nào? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					Phiền 
					não vị: tham, sân, Si, mạn, nghi, ác kiến. 
					 
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói hai câu tụng để trả lời rằng: Căn bản phiền não có 
					sáu món: Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Phiền 
					não nghĩa là buồn phiền não loạn. Vì 6 món phiền não này làm 
					căn bản để sinh ra các phiền não chi mạt, nên gọi là Căn bản 
					phiền não.   
					1. 
					Tham, 2. Sân, 3. Si; ba món Tâm sở này trái ngược với ba món 
					Thiện căn (vô tham, vô sân, vô si) trong 11 món Thiện Tâm 
					sở. Trong Khế kinh gọi ba món phiền não này là "tam độc" (3 
					món độc). 4. Mạn, tức là Ngã mạn; đã giải trong bài thức 
					năng biến thứ hai, 5. Nghi: Nghi ngờ; như người nghi ngờ 
					Phật pháp, không tin thuyết nhơn quả luân hồi v.v ...6. Ác 
					kiến: Hiểu biết có tội ác; nghĩa là hiểu biết không chơn 
					chánh tà vạy.   
					Ác 
					kiến này, chia ra làm năm món: Thân kiến, Biên kiến, Tà 
					kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ, sẽ giải ở sau. 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Trên đã nói 6 món Căn bản phiền não, còn hành 
					tướng (hành vi, tướng trạng) của 20 món Tuỳ phiền não thế 
					nào?   
					
					Đáp:_ Nguyên Văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					Tuỳ 
					phiền não vị: Phẫn   
					Hận, Phú, Não, 
					Tật, Xan   
					Cuống, Siểm, dữ 
					hại, Kiêu   
					Vô tàm cập vô 
					quí   
					Trạo cử dữ Hôn 
					trầm   
					Bất tín tinh 
					Giải đãi   
					Phóng dật cập 
					Thất niệm   
					Tán loạn, Bất 
					chánh tri.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói hai bài tụng để trả lời rằng: Tuỳ phiền não có hai 
					mươi món: Phẫn, Hận, Phú, Não,Tật, Xan, Cuống, Siểm, Hại, 
					Kiêu, Vô tàm, Vô quí, Trạo cử, Hôn trầm, Bất tín, Giải đãi, 
					Phóng dật, Thất niệm, Tán loạn và Bất chánh tri. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Vì 
					hai mươi món phiền não này tuỳ thuộc vào các căn bản phiền 
					não, nên gọi là "Tuỳ phiền não". 
					 
					1. 
					Phẫn: Giận, khi gặp nghịch cảnh sanh tâm giận giỗi. 
					 
					2. 
					Hận: Hờn, sau khi giận rồi lưu lại trong tâm không bỏ. 
					 
					3. 
					Phú: Che giấu, Che giấu tội lỗi của mình không cho ai 
					biết.   
					4. 
					Não: Phiền, sau khi giận rồi buồn phiền nơi lòng. 
					 
					5. 
					Tật: Ganh ghét, thấy người hơn mình sanh tâm đố kî. 
					 
					6. 
					Xan: Bỏn xẻn, có tiền của mà rít rắm không bố thí. 
					 
					7. 
					Cuống: Dối gạt, vì muốn đặng danh lợi nên dối gạt 
					người.   
					8. 
					Siểm: Nịnh, bợ đỡ nịnh hót với người để xin danh vọng 
					quyền lợi.   
					9. 
					Hại: Tổn hại, trái với "bất hại" trong Thiện Tâm sở. 
					 
					10.
					Kiêu: Kiêu cách, giống như mạn tâm sở, song "Mạn tâm 
					sở" là khinh dễ lấn lướt người, còn "Kiêu tâm sở" là ỷ tài 
					năng của mình mà khinh ngạo xem thường người. 
					 
					
					11. Vô tàm và 12 là Vô quí, trái với Tàm và Quí trong 
					Thiện tâm sở.   
					
					13. Trạo cử: Chao động, làm chướng ngại tu Chỉ; trái với 
					Định tâm sở trong vị Biệt cảnh. 
					 
					
					14. Hôn trầm: Tối mờ, làm chướng ngại tu quán; trái với 
					huệ tâm sở.   
					
					15. Bất tín: Không tin, trái với Tín tâm sở trong 11 món 
					thiện.   
					
					16. Giải đãi: Trễ nải, trái với Cần tâm sở trong 11 món 
					thiện.   
					
					17. Phóng dật: Buông lung; trái với "Bất phóng dật" 
					trong Thiện tâm sở.   
					
					18. Thất niệm: không nhớ; trái với "Niệm tâm sở" trong 
					vi Biệt cảnh.   
					
					19. Tán loạn: Rối loạn, tâm lăng xăng rối loạn; trái với 
					"Định tâm sở" trong vị Biệt cảnh. 
					 
					
					20. Bất chánh tri: Biết không chơn chánh, khi đối 
					vớicảnh hiểu biết sai lầm, làm chướng ngại hiểu biết chơn 
					chánh. 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Trên đã nói 20 món Tuỳ phiền não, còn hành tướng 
					của 4 món Bất định thế nào? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					Bất 
					định, vị: Hối Miên   
					Tầm Tư nhị các 
					nhị   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Bất định là Hối 
					Miên và Tầm Tư, mỗi món lại chia làm hai (là bốn). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Bất 
					định là không nhứt định thiện hay ác. 
					 
					1. 
					Hối: Ăn năn, nghĩa là ăn năn những việc nên làm mà không 
					làm, hoặc ăn năn những việc không nên làm mà lại làm. 
					 
					2. 
					Miên: Ngủ nghỉ, làm cho thân tâm không tự tại. 
					 
					3. 
					Tầm: Tìm kiếm, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó làm 
					cho tâm thô động gấp gáp. 
					 
					4. 
					Tư: Rình xét, đối với cảnh danh ngôn của ý thức, nó 
					khiến cho tâm tế nhị mà gấp gáp. 
					 
					Lại 
					nữa, bốn món tâm sở này, mỗi món đều có hai tánh: hoặc thiện 
					hoặc ác không nhứt định, nên gọi là "Bất định". 
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ NĂM 
					 
					CHÁNH 
					VĂN 
					  
					
					Hỏi:_ Trên đã nói sáu loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ 
					làm sao biết được phần vị hiện khởi của các thức? 
					 
					
					Đáp:_ Nguyên văn chũ Hán 
					 
					Tụng 
					viết:   
					Y chỉ 
					căn bản thức   
					Ngũ thức tuỳ 
					duyên hiện   
					Hoặc câu hoặc 
					bất câu   
					Như đào ba y 
					thủy   
					Ý thức thường 
					hiện khởi   
					Trừ sanh Vô 
					tưởng thiên   
					Cập vô tâm nhị 
					định   
					Thuỷ miên dữ 
					muộn tuyệt.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói hai câu tụng trên để trả lời rằng: Sáu thức trước 
					đều nương nơi thức căn bản (A lại da) mà hiện khởi; cũng như 
					sóng nương nơi nước mà sanh. 
					 
					Năm 
					thức trước tuỳ duyên mà khởi; hoặc chung sanh hoặc chẳng 
					chung sanh. Duy có ý thức thường hiện khởi, trừ ra năm chỗ 
					nó không sanh khởi: 1. Sanh ở cõi trời Vô tưởng, 2. Nhập 
					định Vô tưởng, 3. Nhập định Diệt tận, 4. Ngủ mê, 5. Chết 
					giả.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Sáu 
					thức trước, bên trong đều nương nơi thức Căn bản (A lại da) 
					bên ngoài nhờ các duyên (căn, cảnh, tác ý, v.v...) và tuỳ 
					theo phận vị của nó mà sanh khởi không đồng. Nếu đủ duyên 
					thì sanh khởi, còn thiếu duyên thì nó không sanh. Cũng như 
					sóng nương nơi nước và nhờ gió, nên có khi sanh, khi diệt. 
					Duy có ý thức vì ít duyên nên dễ đủ; vì thế mà được thường 
					sanh khởi, chỉ trừ năm chỗ không sanh: 
					 
					1. 
					Trời Vô tưởng; do hành giả khi tu định, nhàm ghét diệt 
					trừ cái "tưởng", mà được sanh về cõi trời này, nên cõi trời 
					này không có ý thức.  
					 
					2. 
					Nhập định Vô tưởng; do hành giả diệt trừ 6 thức trước, 
					mới được định này.   
					3. 
					Nhập định Diệt tận; do hành giả diệt trừ phần hiện hành 
					của bảy thức trước, mới được định này. Hai định trên đây đều 
					không có "ý thức".   
					4. 
					Khi ngủ mê không chiêm bao, cũng không có ý thức. 
					 
					5. 
					Khi bịnh nặng gần chết, hoặc khi bất tỉnh nhơn sự (chết 
					giả) cũng không có ý thức. 
					 
					Xem 
					biểu đồ  
					Nước: 
					Dụ thức A lại da   
					Sóng: Không gián 
					đoạn: Dụ ý thức thường hiện khởi (trừ 5 chỗ) 
					 
					Năm chỗ ý thức 
					Không sanh   
					1. 
					Trời Vô tưởng   
					2. Định Vô 
					tưởng   
					3. Định Diệt 
					tận   
					4. Ngủ mê (không 
					chiêm bao)   
					5. Chết giả 
					 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Trên đã phân biệt rành rõ hành tướng của ba thức 
					năng biến, đều nương nơi hai phần, rồi tự nó biến ra; bây 
					giờ lám sao biết được các pháp chỉ do thức biến hiện, rồi 
					giả gọi Ngã, Pháp chớ không phải thật có, nên nói "tất cả 
					Pháp Duy thức"?   
					
					Đáp:_ Nguyên văn chữ Hán 
					 
					Tụng 
					viết   
					Thị 
					chư thức chuyển biến   
					Phân biệt, sở 
					phân biệt   
					Do thử, bỉ giai 
					vô   
					Cố nhứt thế Duy 
					thức.   
					
					Dịch nghĩa   
					Luận 
					chủ nói một bài tụng để trả lời rằng: Chỉ do các thức biến 
					ra Năng phân biệt thức (kiến phần) và Sở phân biệt (tướng 
					phần). Song Năng phân biệt (thử) và Sở phân biệt (bỉ) đều 
					không thật có, nên nói: "tất cả pháp Duy thức". 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Mỗi 
					thức và mỗi Tâm sở đều có 4 phần: 1. Kiến phần (phần Năng 
					phân biệt), 2. Tướng phần (phần bị phân biệt, tức là cảnh 
					vật), 3. Tự chứng phần: phần này tự chứng minh cho Kiến 
					phần, 4. Chứng tự chứng phần: Phần này chứng minh cho phần 
					tự chứng.   
					Trong 
					bốn phần này, về phần thứ ba là Tự chứng, không những có 
					công năng chứng minh cho phần thứ hai là Kiến phần, mà cũng 
					có công năng đặc biệt là trở lại chứing minh phần thứ tư là 
					Chứng tự chứng phần. Bởi thế nên không cần phải có phần thứ 
					năm.   
					
					(hình)   
					Xin 
					nói một thí dụ để giải rõ bốn phần: Thí như anh A và anh B 
					hùn nhau buôn bán. Anh A ra tiền (vật có hình tướng) là dụ 
					cho "Tướng phần". Anh B ra công (không hình tướng) là dụ cho 
					"Kiến phần". Hai người lập một tờ hợp đồng (giao kèo) để 
					chứng minh một bên ra công và một bên xuất của. Tờ hợp đồng 
					là dụ cho "Tự chứng phần". Vì hai anh tranh giành nhau, nên 
					đem đến quan kiện. Ông quan chiếu theo tờ hợp đồng mà phân 
					xử. Ông quan là dụ cho "Chứng tự chứng phần". 
					 
					Trên 
					đã nói rõ hành tướng của ba thức năng biến: Từ nơi hai phần 
					bên trong là Tự Chứng Phần và Chứng Tự Chứng Phần, biến sanh 
					ra hai phần bên ngoài là Kiến phần và Tướng phần. Vậy thì 
					hai phần bên trong là "thể" làm chỗ bị y chỉ (nương tựa), 
					còn hai phần bên ngoài là "dụng" là "năng y chỉ". 
					 
					Thí 
					dụ như con ốc hương, đầu và mình con ốc là dụ cho "Tự chứng 
					phần" và "Chứng tự chứng phần"; còn hai cái vòi là dụ cho 
					Kiến phần và Tướng phần. Hai vòi có khi lòi ra, có lúc lại 
					thụt vào, là dụ cho cai dụng Kiến phần và Tướng phần, sanh 
					diệt không thường; còn cái đầu và mình của con ốc thì thường 
					còn, để dụ cho cái thể Tự chứng phần và Chứng tự chứng phần, 
					không sanh không diệt.  
					 
					Luận 
					chủ và ngoại nhơn hai bên rất mâu thuẫn nhau. Nếu lý Duy 
					thức của Luận chủ được thành thì sự chấp thật có Ngã, Pháp 
					của ngoại nhơn không thành; trái lại, nếu sự chấp Ngã, Pháp 
					của ngoại nhơn được thành, thì lý Duy thức của Luận chủ bất 
					thành.   
					Ý 
					của ngoại nhơn hỏi: Làm sao biết Ngã, Pháp đều nương nơi 
					thức biến ra, chẳng phải thật có, nên nói "Tất cả Pháp đều 
					Duy thức"?   
					Ý 
					của Luận chủ đáp: Trên đã nói ba thức Năng biến, mỗi 
					thức đều từ nơi tự thể mà biến sanh ra Kiến phần và Tướng 
					phần; Kiến phần là phần năng phân biệt, mà Tướng phần là 
					phần bị phân biệt. Phần bị phân biệt là các cảnh vật như 
					núi, sông, đại địa, v.v ...Phần năng phân biệt tức là tác 
					dụng thấy, nghe, hay biết các cảnh vật. 
					 
					Bởi 
					phần năng phân biệt (thấy) và phần bị phân biệt (cảnh) đều 
					do thức thể biến ra, toàn không thật có, nên nói "Tất cả 
					pháp Duy thức".   
					Thức 
					thể (tự chứng phần sanh ra Dụng) ---> Phần biết (Kiến) Phần 
					bị biết (Tướng) đều là thức   
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ 
					SÁU 
					 
					GIẢI THÍCH CÁC 
					ĐIỀU NGHI   
					
					CHÁNH VĂN 
					  
					
					Hỏi:_ 
					Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì nội 
					thức làm sao sanh ra các món phân biệt? 
					 
					Đáp:_ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết 
					 
					Do nhứt thế chủng 
					thức   
					Như thị như thị 
					biến   
					Dĩ triển chuyển 
					lực cố   
					Bỉ bỉ phân biệt 
					sanh   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Do các chủng tử trong Tạng thức, trùng 
					trùng biến ra các pháp. Vì sức phát triển sanh khởi của các 
					pháp, nên sanh ra các món phân biệt. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Hỏi:_ Nếu 
					không có ngoại cảnh làm duyên, chỉ có nội thức thì nội thức 
					làm sao sanh ra các món phân biệt? 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ trả lời: Do thức A lại da chứa đựng chủng tử của các 
					pháp, các chủng tử ấy lại sanh ra các pháp hiện hành rồi mỗi 
					pháp hiện hành lại sanh Kiến phần (năng phân biệt) và Tướng 
					phần (bị phân biệt).  
					 
					Câu "như thị như thị 
					biến"; nghĩa là từ khi sanh cho đến khi chín sự biến đổi 
					phát triển rất nhiều.  
					 
					Câu "triển chuyển 
					lực cố"; nghĩa là tám thức hiện hành và các Tâm sở tương 
					ưng, nào Tướng phần, nào Kiến phần v.v...đều có cái năng lực 
					hổ trợ cho nhau, nên sanh ra các cảnh giới thế gian (bị phân 
					biệt) và các món phân biệt (năng phân biệt) 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN  
					Hỏi:_ 
					Nếu chỉ có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, 
					thì tại sao lại có chúng hữu tình sanh tử tương tục? 
					 
					Đáp:_ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết 
					 
					Do chư nghiệp tập 
					khí   
					Nhị thủ tập khí 
					câu   
					Tiền Dị thục ký 
					tận   
					Phục sanh dư Dị 
					thục   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Do tập khí (chủng tử) của các nghiệp 
					và tập khí (chủng tử) của hai thủ (năng thủ, sở thủ) chung 
					nhau làm duyên nên thân dị thục (báo thân) đời này vừa hết, 
					thì lại tiếp tục sanh ra các thân dị thục đời sau và đời sau 
					nữa.   
					LƯỢC GIẢI
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có nội thức, không có ngoại cảnh làm duyên, thì tại sao hiện 
					nay thấy có các chúng hữu tình sanh tử tiếp nối luôn luôn? 
					 
					Đáp:_ Do có 
					các nghiệp làm duyên, nên chúng hữu tình sanh tử tương tục. 
					 
					Chữ "Chư nghiệp": 
					Nghĩa là nghiệp lành, nghiệp dữ và nghiệp bất động (tu thiền 
					định).   
					Chữ "Nhị thủ": Kiến 
					phần (năng thủ), Tướng phần (sở thủ) hoặc Danh (tâm) và Sắc 
					(vật) hay Tâm vương và Tâm sở. 
					 
					Chữ "tập khí": Tức 
					là biệt danh của chủng tử. Như người viết chữ: khi chưa viết 
					thì cái công năng tập quen (tập khí) đó, nó tiềm tàng núp ẩn 
					trong tay, người không thấy được. Đến khi viết chữ, là do 
					cái công năng tập luyện (khí phần) ngày trước đó, nên nay 
					mới viết được. Bởi thế nên "chủng tử" (công năng tiềm tàng) 
					cũng gọi là "tập khí".  
					 
					Báo thân của loài 
					hữu tình, gọi là thân Dị thục. Khi thân Dị thục hiện tiền 
					sắp diệt, thì chủng tử của các nghiệp làm sơ duyên và chủng 
					tử của hai món thủ làm thân duyên, tương tục không dứt, nên 
					làm cho sanh ra thân Dị thục đời sau. Bởi thế nên các chúng 
					hữu tình, khi sắc thân này chết đi, thì lại sanh ra sắc thân 
					khác. Do đó mà sanh tử nối luôn, không biết chừng nào cùng 
					tận.   
					[Biểu Đồ, trang 162] 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN  
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có thức mà thôi, tại sao rất nhiều chỗ trong kinh Phật nói 
					có ba tánh?   
					Đáp: _ Phải 
					biết ba tánh đó cũng chẳng ngoài thức. 
					 
					Hỏi: _ Tại 
					sao vậy ?   
					Đáp: _ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết 
					 
					Do bỉ bỉ biến kế 
					 
					Biến kế chủng 
					chủng vật   
					Thử Biến kế sở 
					chấp   
					Tự tánh vô sở 
					hữu   
					Y tha khởi tự 
					tánh   
					Phân biệt duyên 
					sở sanh   
					Viên thành thật 
					ư bỉ   
					Thường viễn ly 
					tiền tánh   
					Cố thử dữ y tha 
					 
					Phi dị phi bất 
					dị   
					Như vô thường 
					đẳng tánh   
					Phi bất kiến thử 
					bỉ   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói ba bài 
					tụng để trả lời rằng: Do tánh Biến kế sở chấp, vọng chấp tất 
					cả các vật. Tánh Biến kế sở chấp này, không thật có tự thể. 
					Còn tánh Y tha khởi là do các duyên phân biệt mà sanh. Tánh 
					Viên thành thật, là do trên tánh Y tha khởi xa lìa tánh Biến 
					kế sở chấp mà hiện.   
					Bởi thế nên tánh 
					"Viên thành thật" đối với tánh "Y tha khởi" cũng khác mà 
					cũng không khác, vì không thể tách riêng được. Bởi thế nên, 
					nếu không thấy được tánh Viên thành thật, thì cũng không thể 
					thấy được tánh Y tha khởi. Cũng như tánh vô thường ...đối 
					với các pháp, cũng khác mà cũng không khác. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có thức mà thôi, thì tại sao trong các kinh rất nhiều chỗ, 
					đức Thế Tôn nói có ba món tự tánh: 1. Biến kế sở chấp tự 
					tánh. 2. Y tha khởi tự tánh . 3. Viên thành thật tự tánh ? 
					 
					Đáp: _ Luận 
					chủ trả lời rằng: "Ba món tự tánh Phật nói đó, cũng không 
					rời thức". Song còn e người không tin, nên Luận chủ nói tiếp 
					3 bài tụng để giải thích nguyên do. 
					 
					Tánh Biến kế sở chấp 
					này là do chúng sanh vọng chấp ức đạc mà có. Như bên Âu châu 
					có nhà học giả thấy bộ xương khỉ giống bộ xương người, nhơn 
					đó họ nghi ngờ và ức đạc rằng: loài khỉ tiến hoá thành loài 
					người; rồi đề xướng lên cái thuyết "Động vật tiến hóa" 
					(Darwin). Từ đó về sau họ mới chủ trương rằng "Tất cả vật 
					trên thế gian, đều do tiến hoá thành". Bởi thế nên bài tụng 
					nói:"Vọng chấp tất cả vật". 
					 
					Vì vọng tưởng ức 
					đạc, chớ chẳng phải thật có, dụ như lông rùa sừng thỏ, nên 
					bài tụng nói: "Tánh Biến kế Sở chấp không có thật thể" (thử 
					Biến kế sở chấp, tự tánh vô sở hữu). 
					 
					Còn tánh "Y tha 
					khởi", là do phân biệt các duyên trong thế gian mà sanh. Thí 
					như người nhặm con mắt, xem hư không thấy có các hoa đốm, 
					rồi khởi vọng tưởng phân biệt: hoa này đỏ hay trắng, tốt hay 
					xấu, giống thật hoa hay không ...Họ không biết rằng: Trong 
					hư không chẳng có hoa, do nhặm mắt nên thấy có hoa (Y tha 
					khởi).   
					Trong tánh "Y tha 
					khởi" có nhiễm và tịnh; nếu lìa được phần nhiễm ô tức là 
					tánh Biến kế sở chấp, thì đặng phần thanh tịnh, gọi là tánh 
					"Viên thành thật". Cũng như nước và sóng, nếu sóng xao động 
					lặng, thì tánh nước yên tịnh hiện ra. 
					 
					Bởi thế nên "tánh 
					Viên thành thật" với "tánh Y tha khởi", không thể nói khác 
					hay không khác, cũng như nước với sóng không hai mà cũng 
					không một.   
					(hình đồ) 
					 
					Câu "phi bất kiến 
					thử bỉ "; nghĩa là nếu không thấy được tánh Viên thành thật 
					đây, thì cũng không thấy được tánh Y tha khởi kia. 
					 
					Nghĩa này không 
					những trong đạo Phật, ngay đến người thế tục, nếu không tu 
					theo Phật pháp, để ngộ tánh Viên thành thật, thì cũng không 
					thể thấy được các pháp Y tha khởi của thế gian. 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN  
					Hỏi:_Nếu đã 
					có 3 tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp đều 
					không có tự tánh?   
					Đáp:_ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết: 
					 
					Tức y thử tam tánh 
					 
					Lập bỉ tam vô 
					tánh   
					Cố Phật mật ý 
					thuyết   
					Nhứt thế pháp vô 
					tánh   
					Sơ tức tướng vô 
					tánh   
					Thứ vô tự nhiên 
					tánh   
					Hậu do viễn ly 
					tiền   
					Sở chấp ngã, 
					pháp tánh   
					Thử chư pháp 
					thắng nghĩa   
					Diệt tức thị 
					chơn như   
					Thường như kỳ 
					tánh cố   
					Tức Duy thức 
					thật tánh.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói 3 bài 
					tụng để trả lời rằng: Phật y cứ trên ba món tự tánh này, mà 
					mật ý nói: "Tất cả pháp đều không có tự tánh". 
					 
					1. Biến kế sở chấp không tự tánh, vì 
					tướng hy vọng vậy. 
					 
					2. Y tha khởi không 
					có tự tánh, vì do các duyên phân biệt sanh, không phải tự 
					nhiên có.   
					3. Viên thành thật 
					không có tự tánh, do xa lìa tánh Biến kế hư vọng chấp ngã 
					chấp pháp mà hiện.   
					Đây là nghĩa thù 
					thắng của các pháp, cũng gọi là "chơn như", vì tánh nó 
					"thường như" vậy; cũng tức "thật tánh" của Duy thức. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Hỏi:_ Nếu có 
					ba món tự tánh, tại sao đức Thế Tôn lại nói: "Tất cả pháp 
					đều không có tự tánh"?  
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói 3 bài tụng để giải thích: "Phật y cứ trên ba món tự 
					tánh, rồi giả lập ba món vô tánh"._ Đã nói "Phật giả lập ba 
					món vô tánh" thì biết rằng chẳng phải thật vô. Sở dĩ Phật 
					phương tiện mật ý nói như vậy, chẳng qua để đối trị cái chấp 
					"ba tánh" mà thôi, chớ không phải thật ý. Cũng như dùng ba 
					món thuốc để đối trị ba bịnh. 
					 
					Ba món vô tánh là:
					1. Tướng vô tánh; nghĩa là tướng Biến kế sở chấp, hư 
					vọng không thật có, 2. Tự nhiên vô tánh; nghĩa là do 
					các duyên sanh, không phải tự nhiên có; nên cũng gọi là 
					"sanh vô tánh", 3. Thắng nghĩa vô tánh; nghỉa là xa 
					lìa cac vọng chấp ngã chấp pháp rồi, mới hiện ra tánh này; 
					nên gọi là "Thắng nghỉa vô tánh". 
					 
					Thắngh nghĩa vô 
					tánh, cũng tức là chơn như, vì tánh nó chơn thật không vọng, 
					thường như vậy; cũng gọi là "Thật tánh của Duy thức". 
					 
					Vô tánh: 
					 
					-Tướng vô tánh 
					để đối trị Biến, Kế sở chấp tánh 
					 
					-Tự nhiên vô 
					tánh để đối trí Tự 3 tánh  (thuốc) nhiên tánh (Y tha) 
					(bịnh)   
					-Thắng nghĩa vô 
					tánh để đối trị Viên thành thật tánh 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 BÀI THỨ 
					BẢY 
					 
					CHÁNH 
					VĂN 
					  
					
					Hỏi:_ Như 
					trên đã thành lập Duy thức tướng và Duy thức tánh rồi; Người 
					nào mới có thể nhập được? Và làm sao để ngộ nhập? 
					 
					Đáp:_ 
					Phải là người có đủ hai giống tánh Đại thừa và tu hành trải 
					qua năm địa vị sau này mới được ngộ nhập: 
					 
					1. Vị Tư lương  
					 
					2. Vị Gia hạnh 
					 
					3. Vị thông 
					đạt    
					4. Vị Tu tập 
					 
					5. Vị Cứu tánh. 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Tư lương thế nào? 
					 
					Đáp:_ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Nãi chí vị khởi 
					thức   
					Cầu trụ Duy thức 
					tánh   
					Ư nhị thủ tuỳ 
					miên   
					Du vị năng phục 
					diệt  
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Từ khi chưa phát tâm, cho đến khi đã 
					phát tâm cầu an trụ Duy thức tánh, trong thời gian đó hai 
					món thủ (ngã chấp, pháp chấp) hãy còn miên phục; hành giả 
					chưa có thể chinh phục hay diệt trừ được. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Từ trước đến đây đã 
					nói rõ về Duy thức cảnh rồi, tức là Duy thức tướng và Duy 
					thức tánh. Nay sẽ nói Duy thức hạnh và Duy thức quả, tức là 
					dạy người sau khi học hiểu, phải phát tâm tu hành rồi mới 
					chứng được Duy thức quả.  
					 
					Vậy từ khi phát tâm 
					tu Duy thức, cho đến chứng Duy thức quả, phải trải qua năm 
					địa vị:   
					1. Vị Tư 
					lương: Lương phạn, đồ hành lý. Thí như người đi 
					đường. Trước phải sắm sửa lương phạn tiền bạc v.v...để lên 
					đường.   
					Địa vị này bắt đầu 
					từ khi chưa phát tâm tu Duy thức quán, cho đến khi phát Bồ 
					Đề tâm, cầu an trụ Duy thức tánh (chơn như tâm). 
					 
					Thí như chúng ta 
					nghe trong kinh dạy: "vạn pháp Duy thức"; rồi chúng ta bắt 
					đầu ngày đêm tu Duy thức quán. Bất luận thời giờ nào, khi 
					thấy nghe hay biết, chúng ta đều quán "Tất cả pháp là giả 
					tướng, Duy thức biến hiện". Chúng ta luôn luôn ở trong Duy 
					thức quán. Cũng như người ở trong cảnh Tịnh độ bảy báu trang 
					nghiêm. Được như thế thì tất cả phiền não không thể xâm 
					nhập.   
					Song, khi mới cầu an 
					trụ Duy thức, công tu chưa thâm, năng lực còn kém, nên chưa 
					có thể an trụ Duy thức tánh được. Lúc bấy giờ hai món phiền 
					não (năng thủ, sở thủ) còn miên phục, chưa trổi dậy; cũng 
					như cỏ bị đá đè. Đến khi áp lực được nhẹ đi, thì hai món 
					chủng tử này sẽ sanh khởi trở lại. 
					 
					Duy thức tánh như 
					ông chủ nhà, phiền não như kẻ trộm. Kẻ trộm không bao giờ ưa 
					chủ nhà; chủ nhà lúc nào cũng ghét kẻ trộm. 
					 
					Duy thức tánh và 
					phiền não cũng thế. Nếu không diệt trừ phiền não thì không 
					thể an trụ Duy thức tánh được. Bởi thế nên muốn an trụ Duy 
					thức tánh thì quyết định phải diệt trừ hai món thủ (ngã, 
					pháp). 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN  
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Gia hạnh thế nào? 
					 
					Đáp:_ 
					Nguyên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết: 
					 
					Hiện tiền lập tiểu 
					vật   
					Vị thị Duy thức 
					tánh   
					Dĩ hữu sở đắc 
					cố   
					Phi thật trụ Duy 
					thức   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Nếu hiện tiền còn một tí thấy mình an 
					trụ Duy thức tánh, thì chưa phải thật an trụ Duy thức tánh, 
					vì còn có chỗ sở đắc vậy. 
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					2. Vị Gia 
					hạnh: Gia công tấn hạnh. Vị Gia hạnh này giống như 
					người đi đường, trước phải dự bị đồ hành lý, rồi sắp sửa 
					khởi hành.   
					Hành giả, khi tu Duy 
					thức quán, thấy cảnh giới Duy thức hiện tiền, nếu chấp mình 
					chứa được Duy thức tánh, như thế là còn có chỗ sở đắc, nên 
					chưa phải thật chứng Duy thức. Cũng như ông Nhan Hồi học Đạo 
					với đức Khổng tử, sau khi thể hội được Đạo, ông nói rằng: 
					"Như có một vật gì đứng đồ sộ vậy(1)". Đó cũng là cảnh giới 
					Duy thức biến, chẳng qua thức biến không đồng. 
					 
					Vì chơn tánh của Duy 
					thức, chẳng phải có, chẳng phải không, tuy chứng mà không có 
					gì là chứng, thế mới thật là chứng Duy thức. 
					 
					Người an trụ được 
					chơn tánh của Duy thức, cũng như cái tay nghười biết viết 
					chữ: Không thấy có gì khác cả. Bởi thế nên nói "đặng mà 
					không có gì là đặng".  
					 
					Nay người tu Duy 
					thức, do hiện tiền còn một tí thấy mình chứng Duy thức, nên 
					không phải thật an trụ nơi Duy thức tánh. 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Thông đạt thế nào? 
					 
					Đáp:_ 
					Nguên văn chữ Hán  
					 
					Tụng viết: 
					 
					Nhược thời ư sở 
					duyên   
					Trí đô vô sở 
					đắc   
					Nhĩ thời trụ Duy 
					thức   
					Ly nhị thủ tướng 
					cố   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: bao giờ cảnh sở quán và trí năng quán 
					đều không, khi đó mới an trụ nơi Duy thức tánh, vì đã xa lìa 
					được hai món thủ vậy.  
					 
					LƯỢC GIẢI
					 
					3. Vị Thông 
					đạt: Rõ ràng thông suốt. Vị Thông đạt này cũng như 
					người đi đường, đã thông suốt con đường sẽ đi, bắt đầu khởi 
					hành, không còn lo ngại.  
					 
					Hành tướng của vị 
					nầy, là khi hành giả đối với cảnh sở quán và trí năng quán, 
					đều xem như huyễn như hoá, không có sở đắc  
					 
					Vị Gia hạnh trước, 
					chưa xa lìa hai món thủ (Ngã chấp, Pháp chấp), vì còn có sở 
					đắc, nên chưa có thể an trụ nơi Duy thức. Đến vị Thông đạt 
					này, thì đã xa lìa hai món thủ, không có sở đắc, nên mới 
					thật an trụ nơi Duy thức. 
					 
					Đoạn văn này, đòng 
					một nghĩa với câu: "Vô trí diệc vô đắc" (không có trí năng 
					đắc và cảnh sở đắc) trong Bát Nhã Tâm kinh. 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN 
					HỎI:_Hành 
					tướng của vị Tu tập thế nào? 
					 
					Đáp: _Nguyên 
					văn chữ Hán   
					Tụng viết: 
					 
					Vô đắc bất tư nghị 
					 
					Thị xuất thế 
					gian trí   
					Xả nhị thô trọng 
					cố   
					Tiện chứng đắc 
					chuyển y.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Luận chữ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Cảnh giới: Vô đắc này không thể nghĩ 
					bàn; đây là "Trí xuất thế gian" (vô phân biệt trí). Do đã xa 
					lìa được hai món thô trọng (Phiền não chướng và Sở tri 
					chướng) và chứng được hai món chuyển y (Bồ Đề,Niết bàn). 
					 
					LƯỢC GIẢI 
					4. Vị Tu tập:
					Tu hành tập luyện. Địa vị Thông đạt trên, là chỉ 
					thông suốt giáo lý, song chưa tu tập. Đến địa vị này mới tu 
					tập Lục độ muôn hạnh, để chứng ngộ chơn lý. 
					 
					Ở 
					địa vị Thông đạt mới vừa chứng cái "Thể" của trí vô đắc. Đến 
					địa vị Tu tập này mới đặng "Diệu dụng" của trí vô đắc. Diệu 
					dụng của trí này này không thể nghĩ bàn. Nhưng, nếu trí còn 
					có sở đắc là trí của thế gian; cái trí không có sở đắc, mới 
					phải là trí của xuất thế gian. 
					 
					Trí Vô đắc  
					 
					-Vị thông đạt mới 
					vừa chứng cái thể "trí vô đắc". 
					 
					- Vị Tu tập mới 
					được "Diệu dụng" của trí vô đắc 
					 
					Vị Tu tập này đã xả 
					bỏ được chủng tử của hai chướng là phiền não chướng và Sở 
					tri chướng và chứng được hai quả Bồ Đề và Niết bàn. 
					 
					Bài tụng trên nói 
					chữ "thô trọng" là chỉ cho hai món chủng tử của hai món 
					chướng: Phiền não và Sở tri: còn nói chữ  "chuyển y" 
					,nghĩa là y cứ trên y tha khởi tánh, mà chuyển nhiễm trở lại 
					tịnh: chuyểm phiền não chướng thành Đại giải thoát (Niết 
					bàn), chuyển sở tri chướng thành Đại Bồ Đề  
					 
					Trên tánh Y tha 
					khởi   
					-Xả hai món 
					nhiễm (Phiền não chướng và Sở tri chướng) 
					 
					 -Đặng hai quả 
					Thanh tịnh (Đại Niết bàn và Đại Bồ Đề) 
					 
					 
					CHÁNH 
					VĂN  
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Cứu cánh thế nào?
					 
					Đáp:_ Nguyên 
					văn chữ Hán 
					Tụng viết: 
					 
					Thử tức vô lậu giới 
					Bất tư nghị, 
					thiện, thường 
					An lạc, Giải 
					thoát thân 
					Đại Mâu ni danh 
					pháp 
					Dịch nghĩa 
					Luận chủ nói bài 
					tụng để trả lời rằng: Đây là cảnh giới vô lậu, cũng gọi là: 
					1. Bất tư nghi, 2. Thiện, 3. Thường, 4. An lạc, 5. Giải 
					thoát thân, 6. Đại Mâu ni, cũng gọi là Pháp thân. 
					 
					LƯỢC GIẢI 
					5. Vị Cứu 
					cánh: Quả vị rốt ráo; trong các quả vị tu hành, đến 
					đây đã cùng tột rồi, không còn quả vị nào hơn nữa. Hành giả 
					chứng được quả vị Bồ Đề, Niết bàn là cảnh giới vô lậu rốt 
					ráo thanh tịnh.   
					Nói "Cảnh giới thanh 
					tịnh" tức là chỉ cái Tổng tướng của vị Cứu cánh; nếu chỉ 
					Biệt tướng của vị này thì có 6 món: 
					 
					1. Bất tư nghi: 
					cảnh giới này không thể dùng trí suy nghĩ hay lời nói luận 
					bàn được.   
					2. Thiện: 
					Cảnh giới này đã xa lìa hết các pháp nhiễm ô, bất thiện. 
					 
					3. Thường: 
					cảnh giới này thường còn, tột đến đời vị lai, không có cùng 
					tận vậy.   
					4. An lạc: 
					Cảnh giới này rất thanh tịnh vui vẻ, không có các điều khổ 
					não bức bách vậy.   
					5. Giải thoát 
					thân: Do xa lìa các phiền não triền phược, nên được thân 
					Giải thoát (Cảnh giới của Nhị thừa). 
					 
					6. Đại Mâu Ni hay 
					gọi là Pháp thân: Do xa lìa được sở tri chướng, nên 
					chứng đặng quả vô thượng Bồ Đề: vì quả vị này bản tánh rất 
					thanh tịnh, nên gọi là Đại Mâu ni (tịnh mặc) cũng gọi là 
					Pháp thân vậy.   
					Dịch xong tại chùa 
					Phật quang (Trà Ôn)   
					Ngày trừ tịch năm Canh Tý (14 2 1961) 
					  
					DUY THỨC 
					TAM THẬP TỤNG 
					 
					 
					CHÁNH VĂN 
					 
					Ngài Bồ Tát 
					THIÊN THÂN tạo luận   
					Ngài HUYỀN TRANG dịch ra chữ Hán   
					Sa môn T.THIỆN HOA dịch ra chữ Việt 
					  
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Nhược Duy thức, vân 
					hà thế gian cập chư Thánh giáo thuyết hữu Ngã, Pháp? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Do giả thuyết Ngã 
					Pháp   
					Hữu chủng chủng 
					tướng chuyển   
					Bỉ y thức sở 
					biến   
					Thử năng biến 
					duy tam   
					Vị: Dị thục, Tư 
					lương   
					Cặp liễu biệt 
					cảnh thức.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có thức, tại sao người thế gian và trong Phật giáo đều nói 
					có Ngã và Pháp?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Do giả nói Ngã, 
					Pháp:   
					Các tướng Ngã, 
					Pháp kia,   
					Nương nơi thức 
					sanh ra.   
					Thức năng biến 
					có ba:   
					Dị thục và Tư 
					lương   
					Cùng thức Liễu 
					biệt cảnh. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Tuy dĩ lược thuyết 
					tam năng biến danh, nhi vị quảng biện tam năng biến tướng; 
					thả sơ năng biến kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Sơ A lai da thức 
					 
					Dị thục, Nhứt 
					thế chủng   
					Bất khả tri chấp 
					thọ   
					Xứ liễu thường 
					dữ xúc   
					Tác ý, Thọ, 
					Tưởng, Tư   
					Tương ưng duy Xả 
					thọ   
					Thị vô phú vô 
					ký   
					Xúc đẳng diệc 
					như thị   
					Hằng chuyển như 
					bộc lưu   
					A lại hán vị 
					xả.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					được nói cái "tên" của ba thức Năng biến, song chưa nói rõ 
					cái "tướng"; vậy cái "tướng" của thức Năng biến thứ nhứt thế 
					nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Trước là A lại da, 
					 
					Dị thục, Nhứt 
					thế chủng.   
					Không thể biết: 
					giữ, chịu (chấp thọ)   
					Thế giới (xứ) và 
					phân biệt (liễu).   
					Tương ưng năm 
					Biến hành,   
					Năm thọ chỉ Xả 
					thọ   
					Thức này và Tâm 
					sở   
					Hằng chuyển như 
					nước thác   
					A la hán mới xả. 
					 
					Nguyên văn 
					chữ Hán 
					Như thị dĩ 
					thuyết sơ năng biến tướng, đệ nhị năng biến kỳ tướng vân 
					hà?   
					Tụng viết: 
					 
					Thứ đệ nhị năng 
					biến   
					Thị thức danh 
					Mạt ma   
					Y bỉ chuyển 
					duyên bỉ   
					Tư lương vi tánh 
					tướng   
					Tứ phiền não 
					thường câu   
					Vị: Ngã si, Ngã 
					kiến   
					Tinh Ngã mạn, 
					Ngã ái   
					Cặp dư Xúc đẳng 
					câu   
					Hữu phú vô ký 
					nhiếp   
					Tuỳ sở sanh sở 
					hệ   
					A la hán, Diệt 
					định,   
					Xuất thế đạo vô 
					hữu.   
					Dịch nghiã 
					 
					Hỏi:_Trên 
					đã nói thức Năng biến thứ nhứt; còn thức năng biến thứ hai 
					thế nào?   
					Đáp:_ 
					Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Thức năng biến 
					thứ hai,   
					Tên là thức Mạt 
					ma.   
					Nương kia lại 
					duyên kia (A lại da)   
					Tánh tướng đều 
					lo nghĩ;   
					Thường cùng bốn 
					phiền não;   
					Ngã si và Ngã 
					kiến   
					Ngã mạn với Ngã 
					ái;   
					Cùng với Xúc vân 
					vân.   
					Hữu phú vô ký 
					tánh   
					Sanh đâu chấp 
					ngã đó.   
					La hán và Diệt 
					định   
					Đạo Xuất thế 
					không có. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Như thị dĩ thuyết đệ 
					nhị Năng biến, đệ tam Năng biến kỳ tướng vân hà? 
					Tụng viết: 
					 
					Thứ đệ tam Năng 
					biến   
					Sai biệt hữu lục 
					chủng   
					Liễu cảnh vi 
					tánh tướng   
					Thiện, bất 
					thiện, câu phi   
					Thử tâm sở Biến 
					hành   
					Biệt cảnh, 
					Thiện, Phiền não   
					Tuỳ phiền não, 
					Bất định   
					Giai tam thọ 
					tương ưng   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Như vậy 
					đã nói thức Năng biến thứ hai, còn thức Năng biến thứ ba thế 
					nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Thức Năng biến thứ 
					ba   
					Có sáu món sai 
					biệt   
					Tánh, tướng đều 
					biết (liễu) cảnh.   
					Thiện, Bất 
					thiện, Vô ký   
					Đây tâm sở: Biến 
					hành   
					Biệt cảnh, 
					Thiện, Phiền não   
					Tuỳ Phiền não, 
					Bất định,   
					Tương ưng với ba 
					thọ. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Tiền dĩ lược phiêu 
					lục vị tâm sở tương ưng, kiêm ưng quảng biện bỉ sai biệt 
					tướng; thả sơ nhị vị kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Sơ Biến hành: Xúc 
					đẳng   
					Thứ Biệt cảnh 
					vị: Dục,   
					Thắng giải, 
					Niệm, Định, Huệ.   
					Sở duyên sự bất 
					đồng   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					lược nêu 6 vị tâm sở tương ưng; nay xin nói rõ hành tướng 
					sai khác của các loại tâm sở. Vậy hai vị tâm sở đầu thế 
					nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Trước Biến hành là 
					Xúc;   
					Sau biệt cảnh là 
					Dục,   
					Thắng giải, 
					Niệm, Định, Huệ   
					Cảnh bị duyên 
					không đồng. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Dĩ thuyết Biến 
					hành, Biệt cảnh nhị vị,   
					Thiện vị tâm sở 
					kỳ tướng vân hà?   
					Tụng viết: 
					 
					Thiện, vị: Tín, Tàm, 
					Quí   
					Vô tham đẳng tam 
					căn   
					Cần, An, Bất 
					phóng dật   
					Hành xả cập Bất 
					hại.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					nói hai loại Biến hành và Biệt cảnh, còn hành tướng của 
					Thiện tâm sở thế nào?  
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Thiện là: Tín, 
					Tàm,Quí   
					Vô tham, Sân và 
					Si   
					Cần, An, Bất 
					phóng dật   
					Hành xả và Bất 
					hại 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Như thị dĩ thuyết 
					Thiện vị tâm sở,   
					Phiền não tâm sở 
					kỳ tướng vân hà?   
					Tụng viết: 
					 
					Phiền não vị: Tham, 
					Sân   
					Si, Mạn, Nghi, 
					Ác kiến.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Như 
					trên đã nói Thiện tâm sở rồi, còn hành tướng của căn bản 
					phiền não thế nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Phiền não là: Tham, 
					Sân   
					Si, Mạn, Nghi, Ác 
					kiến. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Dĩ thuyết căn 
					bản lục phiền não tướng, chư Tuỳ phiền não kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Tuỳ phiền não vị: 
					Phẫn   
					Hận, Phú, Não, 
					Tật, Xan   
					Cuống, Siễm dữ 
					Hại, Kiêu   
					Vô tàm cập Vô 
					quí   
					Trạo cử dữ Hôn 
					trầm   
					Bất tín tinh 
					Giải đãi   
					Phóng dật cập 
					Thất niệm   
					Tán loạn, Bất 
					chánh tri   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					nói 6 món căn bản phiền não còn hành tướng của Tuỳ phiền não 
					thế nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Tuỳ phiền não là: 
					Phẫn,   
					Hận, Phú, Não, 
					Tật, Xan   
					Cuống, Siểm, và 
					Hại, Kiêu   
					Vô tàm với Vô 
					quí   
					Trạo cử cùng 
					Giải đãi   
					Phóng dật và 
					Thất niệm   
					Tán loạn, Bất 
					chánh tri. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Dĩ thuyết nhị thập 
					Tuỳ phiền não tướng, Bất định hữu tứ kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Bất định vị Hối, 
					Miên   
					Tầm, Tư nhị các 
					nhị.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					nói hai mươi món Tuỳ phiền não, còn hành tướng của bốn món 
					Bất định thế nào?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Bất định là Hối, 
					Miên   
					Tầm, Tư lại chia hai 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Dĩ thuyết lục vị tâm 
					sở tương ưng, Vân hà ưng tri hiện khởi phận vị? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Y chỉ căn bản thức 
					 
					Ngũ thức tuỳ 
					duyên hiện   
					Hoặc câu hoặc 
					bất câu   
					Như đào ba y 
					thủy   
					Ý thức thường 
					hiện khởi   
					Trừ sanh vô 
					tưởng thiên   
					Cập vô tâm nhị 
					định   
					Thuỳ miên dữ 
					muộn tuyệt.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Trên đã 
					nói 6 loại tâm sở tương ưng rồi, bây giờ làm sao biết được 
					phận vị hiện khởi của 6 thức? 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Nương nới thức căn 
					bản (A lại da)   
					Năm thức tuỳ 
					duyên hiện,   
					Hoặc chung hoặc 
					chẳng chung,   
					Như sóng nương 
					với nước.   
					Ý thức thường 
					hiện khởi,   
					Trừ sanh trời vô 
					tưởng   
					Và hai định vô 
					tâm,   
					Ngủ mê hay chết 
					giả. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Dĩ quảng phân biệt 
					tam Năng biến tướng, vi tự sở biến nhị phần sở y; vân hà ưng 
					tri y thức sở biến, giả thuyết ngã pháp, phi biệt thật hữu, 
					do thị nhứt thế duy hữu thức da? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Thị chư thức chuyển 
					biến   
					Phân biệt sở 
					Phân biệt   
					Do thử bỉ giai 
					vô   
					Cố nhứt thế Duy 
					thức. 
					Dịch nghĩa 
					Hỏi:_ Trên đã 
					nói ba thức Năng biến, đều do hai phần (Tự chứng và Chứng tự 
					chứng) làm sở y, rồi tự nó biến ra hai phần (Kiến phần và 
					Tướng phần); bây giờ làm sao lại biết "Tất cả đều Duy thức 
					biến ra" rồi giả nói ngã pháp, chứ không phải thật có? 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Các thức này chuyển 
					biến:   
					Phân biệt, bị 
					phân biệt.   
					Do bỉ, thử đều 
					không   
					Nên tất cả Duy 
					thức 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Nhược duy hữu thức, 
					đô vô ngoại duyên, do hà nhi sanh chủng phân biệt? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Do nhứt thế chủng 
					thức   
					Như thị như thị 
					biến   
					Dĩ triển chuyển 
					lực cố   
					Bỉ bỉ phân biệt 
					sanh   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có nội thức không có ngoại cảnh để làm duyên, thì làm sao 
					sanh ra các món phân biệt. 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Do tất cả chủng 
					thức,   
					Biến như vậy như 
					vậy;   
					Vì sức biến 
					chuyển đó,   
					Sanh các món 
					phân biệt. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Tuy hữu nội thức, 
					nhi vô ngoại duyên, do hà hữu tình sanh tử tương tục? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Do chư nghiệp tập 
					khí   
					Nhị thủ tập khí 
					câu   
					Tiền Dị thục ký 
					tận   
					Phục sanh dư Dị 
					thục   
					Dich nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có nội thức, không có ngoại cảnh để làm trợ duyên, thì tại 
					làm sao chúng hữu tình lại sanh tử tương tục? 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Do chủng tử các 
					nghiệp   
					Và chủng tử hai 
					thủ (năng thủ, sở thủ)   
					Nên Dị thục 
					trước chết   
					Lại sanh Dị thục 
					sau 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Nhược duy hữu thức, 
					hà cố Thế Tôn xứ xứ kinh trung, thuyết hữu tam tánh? Ưng tri 
					tam tánh, diệc bất ly thức. Sở dĩ giả hà? 
					 
					Tụng viết 
					 
					Do bỉ bỉ Biến kế 
					 
					Biến kế chủng 
					chủng vật   
					Thử Biến kế sở 
					chấp   
					Tự tánh vô sở 
					hữu   
					Y tha khởi tự 
					tánh   
					Phân biệt duyên 
					sở sanh   
					Viên thành thật 
					ư bỉ   
					Thường viễn ly 
					tiền tánh   
					Cố thử dữ Y tha 
					 
					Phi dị phi bất 
					dị   
					Như vô thường 
					đẳng tánh   
					Phi bất kiến thử 
					bỉ.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Nếu chỉ 
					có thức, tại sao trong các kinh đức Thế Tôn nói có ba tánh? 
					 
					Đáp:_ Phải 
					biết ba tánh đó cũng không rời thức. 
					 
					Hỏi:_ Tại sao 
					thế?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Do các tánh biến 
					kế,   
					Chấp hết tất cả 
					vật.   
					Tánh Biến kế sở 
					chấp,   
					Tự nó không thật 
					có.   
					Còn tánh Y tha 
					khởi   
					Do các duyên mà 
					sanh.   
					Viên thành thật 
					với kia (Y tha)   
					Xa lìa Biến kế 
					trước.   
					Thành thật với Y 
					tha,   
					Cũng khác cũng 
					không khác;   
					Như vô thường 
					vân vân   
					Chẳng thấy đây 
					(Viên thành) và kia (Y tha) 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					Nhược hữu tam 
					tánh, như hà Thế Tôn thuyết nhứt thế pháp, giai vô tự tánh? 
					 
					Tụng viết 
					 
					Tức y thử tam tánh, 
					 
					Lập bỉ tam vô 
					tánh.   
					Cố Phật mật ý 
					thuyết:   
					Nhứt thế pháp vô 
					tánh.   
					Sơ tức tướng vô 
					tánh,   
					Thứ vô tự nhiên 
					tánh,   
					Hậu do viễn ly 
					tiền:   
					Sở chấp ngã pháp 
					tánh.   
					Thử chư pháp 
					thắng nghĩa,   
					Diệc tức thị 
					Chơn như:   
					Thường như kỳ 
					tánh cố;   
					Tức Duy thức 
					thật tánh.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Nếu có 
					ba tánh, tại sao đức Thế Tôn nói: "tất cả pháp đều không có 
					tự tánh"?   
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Y theo ba tánh này, 
					 
					Lập ra ba vô 
					tánh.   
					Nên Phật mật ý 
					nói:   
					Tất cả pháp vô 
					tánh.   
					Trước là "tướng" 
					vô tánh,   
					Kế, không tự 
					nhiện tánh,   
					Sau, do xa lìa 
					trước:   
					Tánh chấp Ngã và 
					Pháp.   
					Đây Thắng nghĩa 
					các Pháp,   
					Cũng tức là Chơn 
					như,   
					Vì tánh thường 
					như vậy,   
					Tức thật tánh 
					Duy thức. 
					 
					 
					Nguyên văn 
					chữ Hán   
					Như thị sở thành Duy 
					thức tướng tánh, thuỳ y kỷ vị, như hà ngộ nhập? Vị cụ Đại 
					thừa nhị chủng tánh giả, lược hữu ngũ vị, phương năng ngộ 
					nhập. Nhứt Tư lương vị, nhị Gia hành vị, tam Thông đạt vị, 
					tứ Tu tập vị, ngũ Cứu cánh vị. 
					 
					1. 
					Sơ Tư lương vị, kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết 
					 
					Nãi chí vị khởi 
					thức   
					Cầu trụ Duy thức 
					tánh   
					Ư nhị thủ tuỳ 
					miên   
					Du vi năng phục 
					diệt   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Như thế 
					là đã thành lập tướng và tánh của Duy thức. Vậy người nào, 
					có mấy vị, và làm sao ngộ nhập được Duy thức ? 
					 
					Đáp:_ Phải 
					người có đủ hai món tánh Đại thừa và tu hành trải qua năm 
					địa vị sau này, mới ngộ nhập được Duy thức tánh. 
					 
					1. Vị Tư lương, 2. 
					Vị Gia hạnh,   
					3. Vị Thông đạt, 4. 
					Vị Tu tập,   
					5. Vị Cứu cánh. 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Tư lương thế nào? 
					 
					Đáp:_ 
					Luận chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Cho đến chưa khởi 
					thức   
					Cầu trụ Duy thức 
					tánh   
					Hai thủ còn miên 
					phục   
					Chưa có thể diệt 
					trừ. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					2. 
					Thức Gia hạnh vị, kỳ tướng vân hà ? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Hiện tiền lập thiểu 
					vật   
					Vị thị Duy thức 
					tánh   
					Dĩ hữu sở đắc 
					cố   
					Phi thật trụ Duy 
					thức   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Gia hạnh thế nào? 
					 
					Đáp: _ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Hiện tiền còn một 
					tí   
					Gọi là Duy thức 
					tánh;   
					Vì còn sở đắc 
					vậy,   
					Chẳng thật trụ 
					Duy thức. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					3. 
					Thứ Thông đạt vị, kỳ tướng vân hà ? 
					 
					Tụng viết 
					 
					Nhược thời ư sở 
					duyên   
					Trí đô vô sở 
					đắc   
					Nhĩ thời trụ Duy 
					thức   
					Ly nhị thủ tướng 
					cố.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi: _Hành 
					tướng của vị Thông đạt thế nào? 
					 
					Đáp: _ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Khi nào "cảnh" bị 
					duyên   
					Và "trí" đều 
					không có    
					Khi đó trụ Duy 
					thức   
					Đã lìa hai món 
					thủ. 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					4. 
					Thứ Tu tập vị, kỳ tướng vân hà? 
					 
					Tụng viết: 
					 
					Vô đắc bất tư nghị 
					 
					Thị xuất thế 
					gian trí   
					Xả thị thô trọng 
					cố   
					Tiên chứng đắc 
					chuyển y.   
					Dịch nghiã 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Tu tập thế nào? 
					 
					Đáp: _ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					"Không đặng", chẳng 
					nghĩ bàn;   
					Đây là "Trí xuất 
					thế" (vô phân biệt trí)   
					Vì bỏ hai Thô 
					trọng   
					Nên chứng đặng 
					"chuyển y" 
					 
					 
					Nguyên văn chữ 
					Hán   
					5. 
					Hậu Cứu cánh vị, kỳ tướng vân hà ? 
					 
					Tụng viết 
					 
					Thử tức vô lậu giới 
					 
					Bất tư nghị, 
					Thiện, Thường   
					An lạc, Giải 
					thoát thân   
					Đại Mâu ni danh 
					Pháp.   
					Dịch nghĩa 
					 
					Hỏi:_ Hành 
					tướng của vị Cứu cánh thế nào? 
					 
					Đáp:_ Luận 
					chủ nói bài tụng để trả lời rằng: 
					 
					Đây là cõi Vô lậu 
					 
					Bất tự nghị, 
					Thiện, Thường   
					An lạc, Giải 
					thoát thân   
					Đại Mâu ni Pháp 
					thân   
					***  
					 
					BIỂU THỨ NHỨT 
					 
					Hình đồ 1 
					 
					BIỂU THỨ HAI 
					 
					Hình đồ 1 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
			
			 |