|   | 
			
			
				
					| 
					
					
					 
					Khóa Thứ 10 và 
					11   
					LUẬN ĐẠI THỪA 
					KHỞI TÍN   
					DỊCH NGHĨA VÀ 
					LƯỢC GIẢI
					 
					Giảng lần thứ 
					nhứt tại Phật Học Đường Nam Việt   
					Ngày 12 tháng 9 năm Tân Sửu (11 10 61) 
					 
					
					BÀI THỨ NĂM 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA 
					 
					PHẦN GIẢI THÍCH
					 
					NÓI VỀ 
					NGHĨA "BẤT GIÁC"  
					
					
					MỤC LỤC  
					 
					
					2. Nói về nghĩa 
					"Bất giác" (không giác ngộ: mê)   
					a. Nói về Tam tế   
					1. Nghiệp tướng (Vọng động)   
					2. Chuyển tướng (Tâm phân biệt, trực giác)   
					3. Hiện tướng (Cảnh bị phân biệt)   
					b. Nói về lục thô   
					1. Trí tướng (Vọng thức phân biệt)   
					2. Tương tục tướng (Vọng niệm tương tục)   
					3. Chấp thủ tướng (Chấp sự vật)   
					4. Kế danh tự tướng (Chấp danh tự)   
					5. Khởi nghiệp tướng (tạo nghiệp)   
					6. Nghiệp hệ khổ tướng (thọ, quả)   
					c. Nói về hai Tướng   
					1. Đồng (đồng bản chất)   
					2. Khác (khác hình tướng)   
					  
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Do không thật biết pháp 
					"Chơn như" nên tâm bất giác (mê) nổi lên, liền khởi vọng 
					niệm (sanh tướng vô minh). Song vọng niệm vì là không có 
					thật thể, nên chẳng rời Bản giác. 
					 
					
					Thí như người lầm 
					phương hướng; vì có phương hướng nên mới lầm, nếu không 
					phương hướng thì không có lầm. 
					 
					
					Chúng sanh cũng thế, do 
					có "Giác" nên mới có "Mê"; nếu không có "Giác" thì cũng 
					không có "Mê" (Bất giác)  
					 
					
					Song chúng sanh cũng 
					nhờ có "Tâm vọng tưởng bất giác" này, nên mới biết phân biệt 
					danh từ và nghĩa lý của các pháp. Và cũng nhờ thế mà chư 
					Phật mới có thể vì chúng sanh nói ra "Chơn giác" (tánh 
					Phật). Nếu lìa "Tâm bất giác" thì cũng không thể chỉ bày cái 
					"Chơn giác" được (dụ như lìa sóng không có nước). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Chúng sanh vì không ngộ 
					được Phật tánh (bản giác) nên gọi là mê (bất giác). Song cái 
					"mê" này không có thật thể, chỉ lấy Phật tánh làm thể, nên 
					không rời Phật tánh (bản giác) được. Cũng như người lầm 
					đường, do có con đường nên mới có lầm, nếu không có con 
					đường thì cũng không có sự lầm lạc. Bởi thế nên, nếu rời 
					Phật tánh (bàn giác) thì cũng không có cái mê (bất giác). 
					Cũng như bỏ sóng, không có nước. 
					 
					
					Sóng, cũng nhờ có cái 
					mê vọng (bất giác) này, nên chúng sanh mới biết phân biệt 
					các pháp chơn vọng, thánh phàm và nhàm chán cảnh khổ sanh 
					tử, ham mộ thú vui "Niết bàn". 
					 
					
					Và cũng nhờ chúng sanh 
					có biết phân biệt, nên chư Phật mới có thể thuyết pháp giảng 
					dạy, chỉ bày Phật tánh (chơn giác). Nếu không có tâm mê vọng 
					bất giác phân biệt của chúng sanh, thì Phật cũng không làm 
					sao chỉ bày Phật tánh (chơn giác) cho chúng sanh được. 
					 
					
					Đọc qua đoạn văn này, 
					chúng ta nên lưu ý đến câu: "Vì không ngộ được Phật tánh, 
					nên gọi là mê" hay đổi lại cách nói "Tại sao có dại?" vì 
					chưa khôn vậy". Vậy thì cái mê dại (vô minh) này, sẳn có từ 
					hồi nào đến giờ, vì từ hồi nào đến giờ chúng sanh chưa từng 
					ngộ được Phật tánh.   
					
					Nói tóm lại, chơn như 
					với vô minh đồng thời có, không phải chơn như có trước, vô 
					minh có sau. Khi chơn như (Phật tánh) hiện, thì vô minh mất, 
					cũng như khi "khôn" rồi, thì "dại" tự hết. 
					 
					
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					
					"Bất giác": 
					không biết. Thật ra không phải là không biết; vẫn có biết, 
					song cái "biết" ấy hư vọng, chẳng chơn thật, nên cũng gọi là 
					"vọng niệm" hay "vô minh" v.v.. 
					 
					
					"Không thật biết": 
					Chúng sanh vẫn biết được chơn như hay Phật tánh; song chỉ 
					biết suông trên văn tự, do ý thức phân biệt hư dối mà thôi; 
					chứ không biết đúng như thật. 
					 
					
					(Đoạn này nói về căn 
					bản vô minh (bất giác), tiếp sau đây sẽ nói đến chi mạt vô 
					minh (tam tế, lục thô).  
					 
					
					a. NÓI VỀ TAM TẾ 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Và, do "Bất giác" (căn 
					bản vô minh) nên sanh ra ba tướng rất vi tế (tam tế: chi mạt 
					vô minh); ba tướng vi tế này không rời "Bất giác". 
					 
					
					1. Tướng nghiệp vô 
					minh (nghiệp tướng): vì "Bất giác" (hoặc) cho nên tâm 
					động, gọi đó là "Nghiệp". Bởi thế nghiệp (nhơn) nên có 
					"khổ"(quả) . Trái lại, nếu "Giác" (không có hoặc) thì tâm 
					không động (nghiệp nhơn) nên cũng không khổ (quả). 
					 
					
					2. Tướng năng kiến 
					(chuyển tướng tức là kiến phần): Vì có "Động" (nghiệp 
					tướng) cho nên sanh ra "Năng phân biệt" (năng kiến). Nếu 
					không "Động" thì không có "Năng phân biệt" (không có nghiệp 
					tướng thì cũng không có chuyển tướng). 
					 
					
					3. Tướng cảnh giới 
					(hiện tướng tức là tướng phần): Vì có "Năng phân biệt" 
					(kiến phần) nên cảnh bị phân biệt (tướng phần) vọng hiện ra. 
					Bởi thế nên rời "Năng phân biệt" (kiến phần) thì cũng không 
					có cảnh bị phân biệt (nghĩa là nếu không có chuyển tướng thì 
					cũng không có hiện tướng). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói: Vô minh 
					sanh ra 3 tướng rất vi tế: Nghiệp, Chuyển và Hiện; bà tướng 
					này không rời vô minh.  
					 
					
					1. Vì vô minh (bất 
					giác) cho nên tâm động tức là "Nghiệp". Đó là tướng vi tế 
					thứ nhứt, gọi là "Tướng nghiệp vô minh", cũng gọi là "Hoặc, 
					Chuyển"; bên Duy thức tôn gọi là "Tự chứng phần" của thức A 
					lại da.   
					
					Do "Hoặc" (vô minh) nên 
					tạo "Nghiệp" (tâm động); bởi có "nghiệp" nên phải thọ "quả 
					khổ". Trái lại, nếu giác ngộ không mê hoặc (vô minh) thì 
					không tạo nghiệp (vọng động); không tạo nghiệp nên chẳng có 
					quả khổ.   
					
					Tất cả quả khổ, không 
					ngoài hai món sanh tử: Phàm phu thì bị khổ "Phần đoạn sanh 
					tử"; Tiểu thánh thì bị khổ "Biến dịch sanh tử". Song hai món 
					quả khổ này, đều do "động niệm" tức là hướng về trí Phật 
					(không vọng niệm thì chơn tâm hiện). 
					 
					
					2. Vì tâm động (ngiệp 
					tướng) cho nên mới có phân biệt. Đó là tướng vi tế thứ hai, 
					gọi là "tướng năng kiến" (phần năng phân biệt), cũng gọi là 
					"Chuyển tướng"; bên Duy thức tôn gọi là kiến phần của thức A 
					lại da. Nếu tâm không vọng động, thì cũng không do đâu mà 
					phát sanh ra phân biệt được. Nghĩa là: Nếu không có "nghiệp 
					tướng"; thì cũng không có "chuyển tướng"; hay nói cách khác: 
					nếu không có "Tự chứng phần" thì cũng không có "Kiến phần". 
					 
					
					3. Vì có tâm năng phân 
					biệt, nên mới vọng hiện ra cảnh giới bị phân biệt. Đó là 
					tướng vi tế thứ ba, gọi là "Tướng cảnh giới" (phần bị phân 
					biệt) cũng gọi lá "Hiện tướng"; bên Duy thức tôn gọi là 
					"Tướng phần" của thức A lại da. Bởi tâm và cảnh không rời 
					nhau, nếu lìa tâm năng phân biệt thì không có cảnh giới bị 
					phân biệt. Nghĩa là: rời "Chuyển tướng" thì không có "Hiện 
					tướng"; hay nói cách khác: rời "Kiến phần" thì không có 
					"Tướng phần".   
					
					Từ thể tánh chơn tâm, 
					không có năng sở (bỉ, thử); song vì mê nên tâm động (nghiệp 
					tướng) mà sanh ra có năng phân biệt (chuyển tướng) và cảnh 
					giới bị phân biệt (hiện tướng). Nếu giác cảnh giới bị phân 
					biệt (hiện tướng). Nếu giác ngộ không mê, thì tâm không 
					động, không sanh, và cảnh bị phân biệt chẳng hiện. 
					 
					
					Đoạn này xin lưu ý độc 
					giả: Trong luận này nói "Do nghiệp tướng sanh ra chuyển 
					tướng, do chuyển tướng sanh ra hiện tướng". Nói như thế, là 
					lấy theo nghĩa "tương quan, tương sanh" mà nói. Kỳ thật ba 
					tướng này, đồng thời sanh khởi; nghĩa là một pháp vừa động, 
					thì tất cả pháp đều động, không phải có thứ lớp tuần tự như 
					vậy.   
					
					Tóm lại, ba tướng 
					"Nghiệp tướng, Chuyển tướng và Hiện tướng: này, ở các kinh 
					khác, cũng thường gọi là "Hoặc, Nghiệp và Khổ", hay trong 
					Duy thức gọi là "Tự chứng phần, Kiến phần và Tướng phần của 
					thức A lại da.   
					
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					
					Bất giác và vô minh: 
					"Vô minh" là không sáng suốt, "Bất giác" là không giác ngộ. 
					Bởi thế nên bất giác cũng tức là vô minh. 
					 
					
					Tướng nghiệp vô 
					minh: Vô minh vọng động thành ra tướng nghiệp, gọi tắt 
					là "Nghiệp tướng"; tức là "Tự chứng phần" của thức A lai 
					da.   
					
					Tướng Năng kiến: 
					Phần năng phân biệt, cũng gọi là "Chuyển tướng"; tức là 
					"Kiến phần" của thức A lại da. 
					 
					
					Tướng cảnh giới: 
					Cảnh giới bị phân biệt, cũng gọi là "Hiện tướng"; tức là 
					"Tướng phần" của thức A lại da. 
					 
					
					Phần đoạn sanh tử: 
					Sanh tử do sự biến đổi. Như vị Tu đà hoàn, khi chứng lên quả 
					Tư đà hàm (sanh) thì xả vị Tu đà hoàn (tử); khi lên vị A na 
					hàm, thì bỏ quả Tư đà hàm v.v...Thí như người Lính, khi lên 
					Cai thì bỏ Lính, lên Đội thì bò Cai v.v... 
					 
					
					Tự chứng phần_ 
					Duy thức tôn nói: Mỗi người có 8 món Tâm vương và 51 món Tâm 
					sở. Mỗi một Tâm vương hay Tâm sở đều có 4 phần: 1. Phần bị 
					phân biệt (tướng phần), 2. Phần năng phân biệt (Kiến phần); 
					Hai phần này thuộc về Dụng, ở bên ngoài. 3. Phần tự chứng và 
					4. Phần chứng tự chứng; hai phần này thuộc về thể, ở bên 
					trong và làm chỗ nương cho hai phần ngoài. 
					 
					
					Tương quan tương 
					sanh: Liên quan với nhau và sanh cùng nhau, có cái này 
					thì phải có cái kia.  
					 
					
					b. NÓI VỀ LỤC THÔ 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Do đã có cảnh giới hiện 
					ra (Hiện tướng) nên tiếp tục sanh sáu tướng sau này: 
					 
					
					1. Tướng Trí (Trí 
					tướng: Phân biệt): Do có cảnh giới hiện ra nên sanh tâm 
					phân biệt (trí) thương,ghét 
					 
					
					2. Tướng tương tục 
					(Tương tục tướng: Vọng niệm tương tục): Do tâm phân biệt 
					thương ghét, cho nên tiếp tục sanh ra các niệm khổ vui, mừng 
					lo v.v...không dứt.   
					
					3. Tướng chấp thủ 
					(chấp thủ tướng: chấp sự vật): Do các niệm tương tục 
					phân biệt những cảnh khổ vui, cho nên tâm mới vướng mắc, 
					chấp lấy nơi sự vật (cảnh). 
					 
					
					4.Tướng chấp danh tự 
					(kế danh tự tướng: chấp danh tự): Do phân biệt vọng chấp 
					nơi sự vật, nên giả đặt ra những danh tự để kêu gọi. 
					 
					
					5. Tướng khởi nghiệp 
					(khởi nghiệp tướng: tướng tạo nghiệp): Do chấp theo danh 
					tự tốt xấu đó, rồi tạo ra các nghiệp lành hay dữ. 
					 
					
					6. Tướng nghiệp hệ 
					khổ (Nghiệp hệ khổ tướng: Thọ quả khổ): Do tạo ra các 
					nghiệp, nên bị các nghiệp kéo dẫn đi lãnh thọ quả khổ, không 
					được tự tại.   
					
					Tóm lại, phải biết: Gốc 
					từ vô minh (căn bản vô minh) sanh ra các pháp nhiễm ô (chi 
					mạt vô minh) nên các pháp nhiễm ô đều là vô minh (bất 
					giác).   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về 6 món 
					thô (lục thô). Do từ vô minh vọng động (Tự chứng phần của 
					thức A lai da) khởi ra tâm (Kiến phần của thức A lại da) và 
					cảnh (Tướng phần của thức A lại da) là ba món vi tế, rồi 
					tiếp tục sanh khởi 6 món thô sau này: 
					 
					
					1. Vì có cảnh giới 
					(hiện tướng) nên tâm phân biệt tốt xấu, rồi sanh ra thương 
					(tham) ghét (sân) v.v...gọi là "Tướng trí", chữ "Trí" là 
					biết phân biệt tốt xấu.  
					 
					
					2. Do tâm biết phân 
					biệt tốt xấu v.v...nên các niệm thương ghét, mừng giận, khổ 
					vui v.v...tiếp tục sanh khởi không gián đoạn, gọi là "Tướng 
					tương tục".   
					
					3. Do các niệm thương 
					ghét, mừng giận, khổ vui, nên sanh tâm chấp lấy: Cái gì vui 
					thích thì tham luyến, còn buồn khổ thì sân hận, gọi là 
					"Tướng chấp thủ".   
					
					4. Do sanh tâm chấp 
					cảnh, nên giả đặt ra những danh từ để kêu gọi, cái này đẹp, 
					cái kia xấu v.v...gọi là "Tướng kế danh tự". 
					 
					
					5. Do có những danh tự 
					kêu gọi đẹp xấu v.v...nên sanh tâm tham lam, giận ghét, và 
					vì thế mà tạo ra cái nghiệp, gọi là "Tướng khởi nghiệp". 
					 
					
					6. Do tạo các nghiệp, 
					nên bị nghiệp kéo dẫn sanh tử luân hồi trong 3 cõi, để thọ 
					quả báo, không được tự tại, gọi là "Tướng nghiệp hệ khổ". 
					 
					
					Tóm lại, do "mê hoặc" 
					nên "tạo nghiệp"; nhơn ""tạo nghiệp" nên phải thọ "quả khổ" 
					trở lại "mê hoặc" nữa; nhơn "hoặc" lại tạo "nghiệp" tho "quả 
					khổ", mãi mãi không biết bao giờ cùng tận, như cái vòng tròn 
					không mối, nên gọi là "Luân hồi". 
					 
					
					Bởi do vô minh vọng 
					niệm sanh ra tất cả các pháp phiền não tạp nhiễm, nên các 
					pháp đều là vô minh. Nếu người được "vô niệm" (không vọng 
					niệm), thì tất cả các pháp phiền não sanh tử đều hết. 
					 
					
					Trong 3 món Tế và 6 món 
					Thô này, về phàm phu thì đủ cả; Tiểu thừa về 3 quả trước, 
					thì đủ 3 món Tế và 4 món Thô trước; A la hán thì có 3 món Tế 
					và 3 món Thô trước; hàng Pháp thân Bồ Tát (từ Bát địa trở 
					lên) chỉ còn 3 món Tế.  
					 
					
					Xin xem biểu đồ sau 
					đây:   
					
					I. Phàm phu (có đủ 9 
					món)   
					3 món Tế  
					 
					1. Nghiệp tướng 
					(vọng động)   
					2. Chuyển tướng 
					(trực giác)   
					3. Hiện tướng 
					(cảnh)   
					6 món Thô  
					 
					1. Trí tướng 
					(phân biệt)   
					2. Tương tục 
					tướng ( vọng niệm tương tục) 
					 
					3. Chấp thủ 
					tướng (chấp sự vật)   
					4. Kế danh tự 
					tướng ( chấp danh tự)   
					5. Khởi nghiệp 
					tướng (tạo nghiệp)   
					6. Nghiệp hệ khổ 
					tướng (thọ quả)   
					
					II. Tiểu thừa, 3 quả 
					trước, có 7 món   
					3 món Tế 
					 
					1. Nghiệp tướng 
					 
					2. Chuyển tướng 
					 
					3. Hiện tướng 
					 
					4 món Thô 
					 
					1. Trí tướng 
					 
					2. Tương tục 
					tướng   
					3. Chấp thủ 
					tướng   
					4. Kế danh tự 
					tướng   
					III. A la hán có 
					6 món   
					3 món Tế  
					 
					1. Nghiệp tướng 
					 
					2. Chuyển tướng 
					 
					3. Hiện tướng 
					 
					3 món Thô 
					 
					1. Trí tướng 
					 
					2. Tương tục 
					tướng   
					3. Chấp thủ 
					tướng   
					IV. Pháp thân Bồ 
					Tát chỉ có món Tế    
					1. Vô minh 
					nghiệp tướng (nghiệp tướng) 
					 
					2. Năng kiến 
					tướng (chuyển tướng)   
					3. Cảnh giới 
					tướng (hiện tướng)   
					
					c.NÓI VỀ HAI TƯỚNG 
					 
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nửa, "Giác" (chơn) 
					với "Bất giác" (vọng) đều có 2 tướng: Đồng và Khác. 
					 
					
					Thế nào là "Đồng"?_ 
					Các sự nghiệp huyễn hoá của "Giác" (vô lậu) và "Bất giác" 
					(vô minh) đều đồng một thể tánh chơn như. Thí như các món đồ 
					gốm đều đồng một chất đất. 
					 
					
					Bởi thế nên trong Khế 
					kinh chép: "Tất cả chúng sanh, từ hồi nào đến giờ, vẫn 
					thường ở trong Bồ Đề Niết bàn; không phải do tu mới có, do 
					làm mới được; rốt ráo không có gì gọi là "chứng" cả, và cũng 
					không hình tướng gì có thể thấy được. 
					 
					
					Song, chúng sanh thấy 
					sắc thân Phật, có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp v.v...là do tuỳ 
					tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà huyễn hiện, không phải tánh 
					chơn như có các hình tướng ấy; vì tánh chơn như không có 
					thấy được vậy.   
					
					Thế nào là "Khác"?_ 
					Do tuỳ tâm vọng nhiễm của chúng sanh mà hiện ra các huyễn 
					tướng sai khác: hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Ví như các 
					thứ đồ gốm, hình tướng khác nhau. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này lấy hai mặt 
					"đồng" và "bất giác", để chỉ sự tương quan tương phản của 
					hai thứ ấy. Đứng về bản thể của các pháp mà luận, thì 
					"nhiễm" và "tịnh" đều là chơn như. còn đứng về hiện tượng 
					của các pháp mà nói, thì "nhiễm" và "tịnh" có sai khác. 
					 
					
					Bởi "giác" và "bất 
					giác" đều là Chơn như, cũng như các thứ đồ gốm (đồ kiểu hay 
					đồ đá) đều bằng đất, nên nói tất cả chúng sanh từ hồi nào 
					đền giờ, vẫn thường ở trong Chơn như. Tánh Chơn như này 
					không phải do tu mới được, hay làm mới có; rốt ráo không có 
					sở đắc, và cũng không có hình tướng gì có thể chỉ bày được. 
					 
					
					Song, chúng sanh thấy 
					có Phật hiện thân độ sanh; đó là tự tâm của chúng sanh, tuỳ 
					nghiệp huyễn hiện, chứ không phải tánh Chơn như có những 
					hình tướng như thế.   
					
					Câu: "Tuỳ tâm vọng 
					nhiễm" của chung sanh mà hiện ra các huyễn tướng sai khác: 
					hữu lậu (mê) và vô lậu (giác). Nghĩa là nói: Không phải ở 
					đâu khác, mà chính chính ở tâm chúng sanh, có thể đổi các 
					phiền não nhiễm ô, ra các công đức thanh tịnh. Khi tâm vọng 
					động thì sanh ra vô lượng hằng sa pháp tạp nhiễm, khi tâm 
					hết vọng động thì hiện ra vô lượng hằng sa công đức thanh 
					tịnh. Tất cả đều tuỳ tâm của chúng sanh mà hiện ra các tướng 
					nhiễm, tịnh. Các tướng này đều như huyễn. 
					 
					
					Câu: "...Các sự nghiệp 
					chuyển hoá của vô lậu (giác) và vô minh (mê)", có nghĩa là: 
					Tánh giác đã có nghiệp dụng, hiện ra tất cả cảnh giới thù 
					thắng vi diệu, không thể nghĩ bàn, thì vô minh cũng có 
					nghiệp lực hiện ra Tam tế, Lục thô, tất cả sanh tử khổ vui, 
					cũng không thể nghĩ bàn. Bởi thế nên Chơn và vọng đều là 
					huyễn cả. Khế kinh chép: "sanh tử và Niết bàn đều như mộng 
					huyễn".   
					
					QUYẾT NGHI
					 
					
					Hỏi:_ Chúng snh 
					đã vốn là Phật, tại sao không thấy chúng sanh có Báo thân và 
					Hoá thân Phật?   
					
					Đáp:_ Khi nói 
					chúng sanh vốn là Phật, là đứng về phương diện bản thể Phật 
					tánh mà nói, chứ không phải đứng về phương diện hiện tượng 
					Phật tướng mà nói vậy. Về bản thể thì các chúng sanh đều có 
					Phật tánh, nhưng về hiện tượng thì chúng sanh có Báo thân và 
					Hoá thân.   
					
					Hỏi:_ Chơn như 
					Phật tánh đã không có sắc tướng, tại sao chư Phật chứng 
					được, và có tướng Báo thân và Hoá thân? 
					 
					
					Đáp:_ Sắc thân 
					của chư Phật, chỉ tuỳ theo tâm của chúng sanh mà hiện ra, 
					không phải trong thể tánh chơn như có những hình tướng ấy. 
					 
					
					Đã nói về "Tâm sanh 
					diệt" dưới đây sẽ nói "Tướng Nhơn duyên sanh diệt" 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					BÀI THỨ SÁU 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA 
					 
					PHẦN GIẢI THÍCH 
					 
					
					NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (Tiếp Theo)  
					
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo)   
					d. Nói về "ý tương tục" có 5 thứ:   
					1. Nghiệp thức (nghiệp tướng)   
					2. Chuyển thức (chuyển tướng)   
					3. Hiện thức (hiện tướng)   
					4. Trí thức (trí tướng)   
					5. Tương tục thức (tương tục tướng)   
					e. Nói về "ý thức"   
					Cảnh giới này duy có Phật mới biết được rốt ráo. 
					 
					
					d. NÓI VỀ "Ý" TƯƠNG 
					TỤC, có 5 thứ  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Trên đã nói "Tâm sanh 
					diệt", (thức A lại da) tiếp theo đây sẽ nói "cái "Ý" làm 
					nhơn duyên sanh diệt".  
					 
					
					Tất cả chúng sanh đều 
					từ nơi tâm (A lại da) mà sanh ra ý (Mạt ma) và ý thức (thức 
					thứ 6). Nghĩa là do thức A lại da có vô minh bất giác 
					(nghiệp tướng) nên sanh ra Năng kiến (chuyển tướng) và Năng 
					hiện (hiện tướng) rồi tiếp tục sanh ra các niệm (lục thô), 
					chấp lấy cảnh giới v.v...gọi là "Ý". 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về sự quan 
					trọng của "ý". Trong các nơi khác, khi nói đến "ý" thì 
					thường dùng để chỉ riêng cho thức Mạt na, là thức sanh diệt 
					tương tục thắng hơn các thức. Nhưng chữ "ý" ở luận này là 
					chỉ chung cho cả 8 thức; vì cả 8 thức đều có nghĩa "sanh 
					diệt tương tục".   
					
					Thức A lại da là gốc 
					của sanh diệt, thức Mạt na làm nhơn duyên cho sự sanh diệt 
					tương tục; còn ý thức thì khởi hoặc tạo nghiệp, làm cho 
					chúng sanh nhiều kiếp sanh tử không dứt. 
					 
					
					CÁI "Ý" CÓ 5 THỨ 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Cái "Ý" này lại có 5 
					thứ: Nghiệp thức (nghiệp tướng), Chuyển thức (chuyển tướng), 
					Hiện thức (hiện tướng), Trí thức (trí tướng) và Tương tục 
					thức (tương tục tướng).  
					 
					
					a. "Nghiệp thức" là sự 
					vô minh bất giác làm cho tâm vọng động (tức là Tự chứng phần 
					của thức A lại da)   
					
					b. "Chuyển thức" là 
					phần Năng phân biệt (Kiến phần của thức A lại da) do tâm 
					vọng động chuyển sanh ra. 
					 
					
					c. "Hiện thức" là sự 
					hiện bày của cảnh giới ngũ trần bị phân biệt (Tướng phần của 
					thức A lại da). Cảnh giới này không có trước sau, trong tất 
					cả thời, mặc tình sanh khởi, thường hiện ở trước. 
					 
					
					(3 thức này thuộc về 
					Tam Tế)   
					
					d. "Trí thức" là cái 
					biết phân biệt các pháp nhiễm tịnh. 
					 
					
					e. "Tương tục thức" là 
					niệm niệm sanh diệt tương tục không gián đoạn. 
					 
					
					(2 thức này thuộc về 2 
					món. Thô trước, trong 6 món Thô) 
					 
					
					năm thứ "ý" này, giữ 
					gìn tất cả nghiệp lành dữ, từ quá khứ vô lượng kiếp về 
					trước, cho đến ngày nay cũng không mất (trì chủng). Nó lại 
					có công năng làm cho thành thục tất cả quả báo khổ vui về 
					hiện tại cũng như tương lai, không sai mất (chấp thủ căn 
					thân, thế giới và kiết sanh tương tục). Và có công năng nhớ 
					việc đã qua, nghĩ những việc hiện tại và suy tính những việc 
					chưa đến (vị lai).   
					
					Bởi thế nên ba cõi (Dục 
					giới, Sắc giới và Vô sắc giới) đều hư ngụy, duy tâm tạo ra. 
					Nếu rời tâm thì không có cảnh giới sáu trần này (ba cõi). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về nghĩa 
					chử "ý", là chỉ cho một dòng sanh diệt tương tục không gián 
					đoạn. Từ vô minh vọng động, sanh ra 3 món Tế, là Nghiệp 
					tướng (nghiệp thức), Chuyển tướng (chuyển thức), Hiện tướng 
					(hiện thức) và hai món Thô là Trí tướng (trí thức) và Tương 
					tục tướng (tương tục thức). 
					 
					
					Năm cái "ý" này có công 
					năng giữ gìn thiện ác, quả báo khổ vui hiện tại và vị lai, 
					làm cho không mất (đó là công năng trì chủng chấp thọ thân 
					căn thế giới và kiết sanh tương tục của thức A đà na); nhớ 
					nghĩ những việc đã qua và lo tính những điều chưa đến (đó là 
					công năng của thức thứ 6), và một dòng sanh diệt, tiếp tục 
					từ trước đến sau không gián đoạn, gọi đó là "ý". Bởi thế nên 
					chữ "ý" này là chỉ chung cho cả 8 thức. 
					 
					
					Tóm lại, từ vô minh 
					vọng động, sanh ra thức A lại da. Từ thức A lại da lại tiếp 
					tục sanh ra 7 thức trước; rồi cùng nhau làm nhơn làm duyên, 
					lại thành ra một dòng sóng thức, sanh diệt tương tục vô tận, 
					gọi đó là "ý". Cũng vì rõ nghĩa này, nên Cổ nhơn làm bài thơ 
					có câu rằng: "...Nhứt ba tài động vạn ba tuỳ ..." (một lượng 
					sóng vừa nổi lên, thì trăm ngàn lượng sóng đều nổi theo). 
					 
					
					Nào ba cõi, nào 6 trần 
					đều từ 8 thức này biến hiện. Bởi thế nên các pháp đều hư 
					dối, duy tâm tạo ra; nếu rời 8 thức, thì các cảnh giới đều 
					không còn.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nghĩa này thế nào?_ Do 
					tất cả pháp đều từ vọng tâm của chúng sanh mà sanh khởi, nên 
					tất cả sự phân biệt tức là phân biệt trong tự tâm. Nhưng tâm 
					không có hình tướng gì cả, nên không thể thấy được nó. Phải 
					biết, tất cả cảnh giới ở thế gian, đều do vô minh vọng tâm 
					của chúng sanh mà được tồn tại, nên tất cả các pháp, đều 
					không có thật thể, mà chỉ vọng tâm huyễn hiện, như bóng 
					trong gương.   
					
					Nếu vọng tâm sanh khởi, 
					thì các pháp đều sanh khởi; vọng tâm diệt thì các pháp đều 
					diệt (Tâm sanh tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng 
					chủng pháp diệt).   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tất cả các pháp đều do 
					tâm của chúng sanh sanh ra, nên chúng sanh phân biệt các 
					pháp, tức là phân biệt ở nơi tự tâm. Kinh Lăng Nghiêm chép: 
					"Tự tâm thủ tự tâm, phi huyễn thành huyễn pháp" (tự tâm 
					chúng sanh trở lại chấp lấy tự tâm chúng sanh; tâm không 
					phải huyễn mà trở lại thành pháp hư huyễn). 
					 
					
					Tất cả các pháp đều 
					không thật có, chỉ nương nơi tâm mà tồn tại, như hoa trong 
					gương, như trăng dưới nước. Nếu tâm động thì các pháp sanh, 
					tâm tịnh thì các pháp diệt. Trong Khế kinh chép: "tâm sanh 
					tắc chủng chủng pháp sanh, tâm diệt tắc chủng chủng pháp 
					diệt" là vậy. Tổ Qui Sơn nói: "Nhứt tâm không sanh thì muôn 
					pháp đều dứt" (Nhứt tâm bất sanh vạn pháp câu tức). Bởi thế 
					nên đoạn trước nói "Người quán vô niệm (không vọng niệm) thì 
					hướng về trí Phật".   
					
					Đoạn này đã nói về "ý 
					tương tục" rồi, tiếp theo dưới đây sẽ nói đến ý thức. 
					 
					
					e. NÓI VỀ "Ý THỨC" 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					Trên đã nói về "ý" rồi, 
					tiếp theo đây nói về "ý thức". Ý thức tức là "thức tương 
					tục". Bởi chúng phàm phu chấp trước rất nặng nề nơi Ngã và 
					Ngã sở, nên khởi ra các món vọng chấp, leo chuyền theo sự 
					vật, phân biệt cảnh giới sáu trần, gọi đó là "ý thức" (thức 
					thứ sáu). Cũng gọi đó là "Phân ly thức", hay gọi "Phân biệt 
					sự thức". Thức này nương nơi kiến (kiến hoặc) và ái (tư 
					hoặc) phiền não mà được nuôi lớn. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về "ý 
					thức".   
					
					So với 5 món "ý" nói 
					trên, thì ý thức này thuộc về món thứ năm là "Tương tục 
					thức"; trong Lục thô nó thuộc về Thô thứ hai là "Tương tục 
					Tướng"; trong 8 thức nó thuộc về thức thứ 6. 
					 
					
					_ Bởi thức này, niệm 
					niệm tương tục, chấp Ngã và Ngã sở, leo chuyền theo các trần 
					cảnh, phân biệt các sự vật, vọng chấp đủ điều, nên gọi là 
					"Thức tương tục".   
					
					_ Bởi thức này phân 
					biệt 5 trần cảnh (Sắc, Thinh, Hương, Vị và Xúc) mỗi cảnh 
					riêng nhau, nên gọi là "Phân ly thức". 
					 
					
					_ Bởi thức này phân 
					biệt tất cả sự vật, nên cũng gọi là "phận biệt sự thức". 
					 
					
					_ Lại nữa, thức này nhờ 
					2 món phiền não là "Kiến" và "Ái" mà được nuôi lớn, "kiến" 
					tức là kiến hoặc, thuộc về phân biệt hoặc. "Ái" tức là Tư 
					hoặc, thuộc về Cu sanh hoặc. Do hai món phiền não này, nên ý 
					thức mới khởi hoặc tạo nghiệp, quanh quẩn trong sanh tử luân 
					hồi.   
					
					***
					 
					
					Trong "Môn sanh diệt" 
					có 2 phần, trên đã nói về phần thuận dòng vô minh (lưu 
					chuyển), sanh ra các pháp sanh tử tạp nhiễm; sau đây sẽ nói, 
					chính nơi pháp tạp nhiễm lưu chuyển đó, để chỉ sự trở lại 
					thanh tịnh (hoàn tịnh) tuỳ theo trình độ của người, hoặc mau 
					hay chậm không đồng.  
					 
					
					CẢNH GIỚI NÀY DUY PHẬT 
					MỚI BIẾT ĐƯỢC RỐT RÁO 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Do vô minh huân tập 
					sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể biết 
					được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng không 
					thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền (Trụ 
					Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít; bực 
					Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng 
					phần; cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy 
					có Phật mới biết được rốt ráo. 
					 
					
					Tại sao vậy?. _ Vì tâm 
					này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh, không có vô 
					minh; song bị vô minh làm nhiễm ô (bất biến tuỳ duyên), vì 
					thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể 
					biết được cảnh giới này.  
					 
					
					Tóm lại, chơn tâm (tâm 
					tánh) vì thường không vọng niệm, nên gọi là "bất biến" (chơn 
					như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chơn tâm (nhứt 
					pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô minh". 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Người đang chiêm bao 
					không bao giờ biết được chiêm bao; phải thức giấc rồi mới 
					biết đó là cảnh chiêm bao; chúng sanh đang ở trong vòng vô 
					minh vọng thức, không thể biết được vô minh vọng thức; bao 
					giờ giác ngộ hoàn toàn, mới biết được rốt ráo cảnh giới của 
					vô minh vọng thức.   
					
					Do vô minh huân tập vào 
					chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức A lại da. 
					Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên không bao 
					giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy dùng 
					trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp hãy 
					còn dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy 
					được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá 
					được đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít 
					về cảnh giới này. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một 
					phần vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được 
					một phần của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến 
					khi nào phá được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp 
					thân và biết được cả 10 phần của cảnh giới này. (Thập địa Bồ 
					Tát, do phá vô minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp 
					thân Bồ Tát"). Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh, 
					nên đối với cảnh giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả 
					vị Phật, do phá vô minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết 
					được cảnh giới này; cũng như người đã hoàn toàn thức tĩnh, 
					mới biết được rốt ráo cảnh mê mộng. 
					 
					
					***
					 
					
					Trên đã nói nhơn duyên 
					trở lại bản tâm thanh tịnh rồi, dưới đây sẽ lược nói đến địa 
					vị nào, mới đoạn được hoặc gì, để trở lại bản tâm thanh 
					tịnh. 
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					BÀI THỨ BẢY 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH  
					NÓI VỀ Ý NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo) 
					
					  
					
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo)   
					g. Nói về Tâm nhiễm ô, có 6 lớp:   
					1. Nhiễm ô chấp trước (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng) 
					 
					2. Nhiễm ô bất đoạn (tương tục tướng)   
					3. Nhiễm ô phân biệt (trí tướng)   
					4. Nhiễm ô cảnh sắc (hiện tướng)   
					5. Nhiễm ô năng phân biệt (kiến tướng)   
					6. Nhiễm ô về nghiệp (nghiệp tướng)   
					h. Tâm nhiễn ô và vô minh khác nhau như thế nào?   
					i. Ba tướng nhiễm ô sanh diệt:   
					1. Tướng sanh diệt thô   
					2. Tướng sanh diệt vừa   
					3. Tướng sanh diệt vi tế   
					
					g. NÓI VỀ TÂM NHIỄM 
					Ô   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Tâm nhiễm ô này (kể từ 
					Thô đến Tế) có 6 lớp:  
					 
					
					1. Nhiễm ô về chấp 
					trước (chấp tương ưng nhiễm, tức là hai món Thô: chấp thủ 
					tướng và kế danh tự tướng). Hành giả phải đến quả Nhị thừa 
					hay vị Thập tín, mới trừ được món nhiễn ô này. 
					 
					
					2. Nhiễm ô bất đoạn 
					(Bất đoạn tương ưng nhiễm, tức là món Thô về tương tục 
					tướng). Hành giả từ địa vị Thập tín đến địa vị Thập hồi 
					hướng, phương tiện tu hành, lần lần xả bỏ, khi đến Sơ địa 
					(tịnh tâm địa) mới hoàn toàn xa lìa được món nhiễm ô này. 
					 
					
					3. Nhiễm ô về trí phân 
					biệt (Phân biệt trí tương ưng nhiễm, tức là món Thô về Trí 
					tướng). Hành giả phải từ Nhị địa (Cụ giới địa) lần lần diệt 
					trừ, cho đến Thất địa (Vô tướng phương tiện địa) mới hoàn 
					toàn xa lìa nhiễm ô này.  
					 
					
					4. Nhiễm ô về cảnh sắc 
					(Hiện sắc bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về Hiện tướng). 
					Hành giả tu hành phải đến Bát địa (Sắc tự tại địa) mới xa 
					lìa được món nhiễm ô này. 
					 
					
					5. Nhiễm ô về năng phân 
					biệt (năng kiến tâm bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về 
					Kiến tướng). Hành giả tu hành phải đến Cửu địa, mới xa lìa 
					được món nhiễm ô này.  
					 
					
					6. Nhiễm ô về nghiệp 
					(Căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm, tức là món Tế về Nghiệp 
					tướng). Hành giả từ Thập địa lên Đẳng giác Bồ Tát và phải 
					đến quả vị Phật, mới có thể diệt trừ món nhiễm ô này. 
					 
					
					Tóm lại, vì không ngộ 
					được chơn tâm (bất đạt nhứt pháp giới nghĩa) nên sanh ra 
					nhiều lớp nhiễm ô (Tam tế, Lục thô). Muốn diệt trừ các nhiễm 
					ô này, hành giả phải trải qua nhiều địa vị: Bắt đầu từ địa 
					vị Thập tín để tâm quán sát và học tập đoạn trừ tâm nhiễm ô. 
					Qua Tam hiền rồi vào Thập địa, tuỳ mỗi địa vị, diệt trừ mỗi 
					phần tâm nhiễm ô (vọng hoặc); đến quả vị Phật mới diệt hoàn 
					toàn rốt ráo.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Vì không ngộ được chơn 
					tâm, nên sanh ra trùng trùng mê vọng. Các lớp mê vọng tuy 
					nhiều, nhưng đại lược chia làm 6 lớp, từ Thô đến Tế. 
					 
					
					1. Chấp tương ưng nhiễm 
					(nhiễm ô về sự chấp trước) tức là hai món Thô thứ ba và thứ 
					tư (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng) trong 6 món Thô. 
					Hành giả tu hành phải đến Nhị thừa hay Thập tín mới đoạn trừ 
					được lớp vọng nhiễm này.  
					 
					
					2. Bất đoạn tương ưng 
					nhiễm (nhiễm ô về bất đoạn) tức là món Thô thứ hai (tương 
					tục tướng) trong 6 món Thô. Hành giả tu hành từ địa vị Tam 
					hiền đoạn trừ lần lần cho đến Sơ địa mới trừ hết lớp vọng 
					nhiễm này.   
					
					3. Phân biệt trí tương 
					ưng nhiễm (nhiễm ô về phân biệt) tức là món Thô thứ nhứt 
					(trí tướng) trong 6 món Thô. Hành giả tu hành từ Nhị địa cho 
					đến Thất địa mới trừ được lớp vọng nhiễm này. 
					 
					
					4. Hiện sắc bất tương 
					ưng nhiễm (nhiễm ô về cảnh giới) tức là món Tế thứ ba (hiện 
					tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành đến Bát địa mới đoạn 
					được lớp vọng nhiễm này.  
					 
					
					5. Năng kiến tâm bất 
					tương ưng nhiễm (nhiễm ô về năng phân biệt) tức là món Tế 
					thứ hai (kiến tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành, phải 
					đến Cửu địa, mới đoạn được lớp vọng nhiễm này. 
					 
					
					6. Căn bản nghiệp bất 
					tương ưng nhiễm (nhiễm ô về nghiệp) tức là món Tế thứ nhứt 
					(Vô minh nghiệp tướng) trong 3 món Tế. Hành giả tu hành khi 
					sắp chúng quả Phật, mới đoạn trừ được lớp vọng nhiễm rất vi 
					tế này.   
					
					Tóm lại, vì vô minh 
					vọng nhiễm chồng chất nhiều lớp, từ nhiều đời nhiều kiếp, 
					nên hành giả phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều địa vị để 
					phá trừ. Phá một lớp vô minh, thì Hành giả chứng lên được 
					một địa vị. Như thế, bắt đầu từ phàm phu, tu đến quả vị 
					Phật, Hành giả phải trải qua thời gian là 3 lần vô số kiếp 
					(A tăng kỳ kiếp) và qua 55 địa vị, mới đoạn mê hoặc (vô 
					minh) được hoàn toàn và chứng được rốt ráo quả Phật. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					_ Sao gọi là "tương 
					ưng" (3 món nhiễm về tương ưng)? _ Vì Tâm vương, Tâm sở khác 
					nhau (tâm niệm, pháp dị) và tánh chất nhiễm ô của cảnh bị 
					duyên không đồng; song Tâm vương khi duyên cảnh nào thì Tâm 
					sở cũng ưng thuận duyên theo cảnh đó, nên gọi là "tương 
					ưng". (ngôn thuyết).  
					 
					
					_ Sao gọi là "bất tương 
					ưng" (3 món nhiễm về bất tương ưng)? _ Vì tâm mới vừa bất 
					giác vọng động, chưa phân ra căn cảnh hay Tâm vương, Tâm sở, 
					nên gọi là "bất tương ưng". 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trong 6 món nhiễm ô 
					này, sở dĩ 3 món đầu (chấp tương ưng nhiễm, bất đoạn tương 
					ưng nhiễm và phân biệt trí tương ưng nhiễm) đều gọi là 
					"tương ưng", là vì chúng nó thô phù, lại chia ra 2 phần rất 
					rõ rệt (căn, cảnh; Tâm vương, Tâm sở) và có sự hoà hiệp nhau 
					(tương ưng).   
					
					Còn 3 món nhiễm ô sau 
					(hiện sắc bất tương ưng nhiễm, năng kiến tâm bất tương ưng 
					nhiễm và căn bản nghiệp bất tương ưng nhiễm) lại gọi là "Bất 
					tương ưng"; là vì chúng nó rất vi tế, còn ở trong vòng trừu 
					tượng, chưa phân Năng, Sở, Tâm, Cảnh, nên chẳng có sự hợp 
					nhau.   
					
					h) TÂM NHIỄM Ô VÀ VÔ 
					MINH KHÁC NHAU THẾ NÀO? 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					_ Tâm nhiễm ô là phiền 
					não chướng (phiền não ngại) làm chướng ngại căn bản trí (vô 
					phân biệt trí) duyên Chơn như. 
					 
					
					_ Vô minh là sở tri 
					chướng (trí ngai làm chướng ngại hậu đắc trí (tự nhiên 
					nghiệp trí) duyên các pháp sai biệt của thế gian. 
					 
					
					_ Tại sao tâm nhiễm ô 
					lại chướng ngại căn bản trí? _ Vì tâm nhiễm ô sanh ra Năng 
					kiến tướng (kiến phần) và Năng hiện tướng (tướng phần) rồi 
					vọng sanh ra chấp thủ cảnh giới (thuộc về Lục thô), nên trái 
					với tánh Chơn như bình đẳng 
					 
					
					_ Tại sao vô minh (bất 
					giác) lại chướng ngại Hậu đắc trí (sai biệt trí)? Vì các 
					pháp thường tịnh, không có khởi động; còn vô minh thì bất 
					giác vọng động, nên trái với tánh thường tịnh của các pháp. 
					Bởi thế nên không thể tuỳ thuận biết hết các cảnh giới thế 
					gian.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Vô minh và tâm nhiễm ô 
					khác nhau thế nào? _ Từ vô minh sanh ra tâm nhiễm ô (Tam tế, 
					Lục thô) nên vô minh là gốc, mà tâm nhiễm ô là sự sai biệt 
					của vô minh.   
					
					Vô minh thuộc về mê 
					"Lý", tức là sở tri chướng, làm chướng ngại Hậu đắc trí, 
					cũng gọi là Sai biệt trí (trí này phân biệt các pháp sai 
					biệt thế gian).   
					
					Tâm nhiễm ô thuộc về mê 
					"Sự", tức là phiền não chướng, làm chướng ngại Căn bản trí; 
					cũng gọi là Vô phân biệt trí (trí này duyên Chơn như). 
					 
					
					Tại sao phiền não (tâm 
					nhiễm ô) làm chướng ngại Căn bản trí, còn Sở tri (vô minh) 
					lại chướng ngại Hậu đắc trí? _ Tánh Chơn như bình đẳng, 
					không có năng sở bỉ thử, nên phải dùng Căn bản trí (vô phân 
					biệt trí) mới duyên được Chơn như. Song vì phiền não là tâm 
					nhiễm ô lại chao động, có năng sở bỉ thử, ngàn sai muôn 
					khác, trái với chơn như bình đẳng, nên làm chướng ngại "Vô 
					phân biệt trí" (Căn bản trí). 
					 
					
					_ Các pháp thế gian 
					không rời chơn như, và chơn như đã thanh tịnh nên các pháp 
					thế gian cũng phải thanh tịnh. Song vì vô minh bất giác, 
					trái với tánh thanh tịnh của các pháp, nên không thật biết 
					được các pháp. Bởi thế nên vô minh (sở tri chướng) làm 
					chướng ngại Sai biệt trí (Hậu đắc trí). 
					 
					
					Đã nói nhơn duyên sanh 
					diệt rồi, tiếp theo đây sẽ nói tướng sanh diệt. 
					 
					
					l) BA TƯỚNG NHIỄM Ô 
					SANH DIỆT   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, tướng nhiễm ô 
					sanh diệt, có 3 thứ:  
					 
					
					1. Tướng sanh diệt 
					thô (chấp thủ tướng và kế danh tự tướng) đây là cảnh 
					giới của địa vị Tam hiền (phàm phu) biết. 
					 
					
					2. Tướng sanh diệt 
					vừa Thô vừa Tế (tức là 2 món Thô đầu: Trí tướng, Tương 
					tục tướng và 2 món Tế sau: Chuyển tướng và Hiện tướng), đây 
					là cảnh giới của Bồ Tát (từ Sơ địa đến Đẳng giác) biết. 
					 
					
					3. Tướng sanh diệt 
					Vi tế (tức là món Tế đầu tiên: Vô minh nghiệp tướng) đây 
					là cảnh giới chỉ có Phật mới biết. 
					 
					
					Ba tướng nhiễm ô sanh 
					diệt này, đều do vô minh huân tập mà sanh. Nghĩa là do vô 
					minh bất giác làm nhơn và cảnh giới hư vọng làm duyên, mới 
					sanh ra các tướng nhiễm ô sanh diệt. 
					 
					
					Bởi thế nên, nhơn (vô 
					minh) diệt, thì duyên (cảnh giới) diệt. Nếu vô minh (nhơn) 
					diệt, thì Tam tế diệt (bất tương ưng tâm diệt), và nếu cảnh 
					giới (duyên) diệt, thì Lục thô diệt (tương ưng tâm diệt). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tướng nhiễm ô sanh diệt 
					có Thô và Tế, tức là Lục thô và Tam tế. Hàng Tam hiền (Trụ, 
					Hạnh, Hướng) chưa đặng Thánh vị, nên đều gọi là phàm phu. 
					Hàng phàm phu (Tam hiền) chỉ biết hành tướng của hai món Thô 
					thứ ba và thứ tư. Bồ Tát từ Sơ địa đến Đẳng giác thì biết 
					được hành tướng của 2 món Tế sau (Chuyển tướng và Hiễn 
					tướng). Duy Phật mới biết được hành tướng của món Vi tế thứ 
					nhứt là "Vô minh nghiệp tướng". 
					 
					
					Các tướng sanh diệt 
					Thô, tế này, đều do vô minh huân tập mà có. Nghĩa là do vô 
					minh bất giác làm nhơn, sanh ra 3 món Vi tế (Nghiệp tướng, 
					Chuyển tướng và Hiện tướng); rồi do cảnh giới (Hiện tướng) 
					làm duyên, sanh ra 6 món Thô. 
					 
					
					Bởi thế nên vô minh 
					(nhơn) diệt, thì cảnh giới (duyên) diệt. Nếu vô minh diệt 
					thì Tam tế diệt; và nếu cảnh giới (Hiện tướng) diệt thì Lục 
					thô cũng diệt.   
					
					VẤN ĐÁP ĐỂ QUYẾT NGHI 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Nếu tâm 
					này (tâm nhiễm ô) diệt, thì lấy gì để tiếp tục tu hành? Và 
					nếu tâm này còn tương tục, thì làm sao được thành Phật? 
					 
					
					Đáp:_ Chỉ diệt 
					cái "Vọng tướng" của tâm, chớ không phải diệt cai "Chơn thể" 
					của tâm. Cũng như vì gió nên nước nổi sóng. Nếu gió đứng thì 
					sóng lặng, chứ nước không diệt. 
					 
					
					Cũng thế, vì vô minh 
					(gió) mà tâm thể (nước) sanh ra vọng tướng (sóng). Nếu vô 
					minh (si mê) diệt thì vọng tướng của tâm cũng diệt, chớ tâm 
					trí (tâm thể) không diệt. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Vì đoạn trước nói "Nếu 
					Nhơn diệt, thì tâm bất tương ưng diệt; còn Duyên diệt, thì 
					tâm tương ưng diệt", nên đoạn này mới có câu hỏi: "Nếu tâm 
					này diệt, thì lấy gì để tiếp tục tu hành v.v..." 
					 
					
					Đại ý trong lời đáp: 
					Tâm có hai phần, chơn thể và vọng tưởng. Tâm chơn thể như 
					nước; tâm vọng tướng như sóng. Nước vì gió mà có sóng, nên 
					khi gió hết thì sóng lặng, chứ nước không diệt. 
					 
					
					Cũng thế, vì gió vô 
					minh làm chao động, nên nước tâm thể nổi lên các vọng thức, 
					rồi sanh diệt tương tục. Khi gió vô minh hết, thì sóng vọng 
					thức lặng, chứ nước tâm thể không diệt. 
					 
					
					Trên đây có hai danh 
					từ: Tậm thể và Tâm trí, giới nghĩa khác nhau. Nói "Tâm thể" 
					là chỉ chung cho cả nhiễm tịnh, phàm thánh đều có Tâm thể. 
					Còn nói "Tâm trí" là chỉ riêng về phần "Tịnh" của tâm thể 
					khi đã rời nhiễm, và đặng thành thánh quả. 
					 
					
					Trên đây nói phần 
					"nhiễm tịnh sanh diệt, sanh ra tất cả pháp", tiếp theo đây 
					sẽ nói "nhiễm huân tập nhau", để chỉ rõ các pháp sanh khởi 
					không dứt. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					BÀI THỨ TÁM 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH   
					NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)  
					
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo)   
					k. Nói về bốn món huân tập:   
					1. Chơn như huân tập   
					2. Vô minh huân tập   
					3. Nghiệp thức huân tập: Ý thức và Ý   
					4. Cảnh giới hư vọng huân tập. 
					 
					
					k. NÓI VỀ BỐN MÓN 
					HUÂN TẬP   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, vì có bốn món 
					huân tập, nên các pháp tạp nhiễm và thanh tịnh được sanh 
					khởi không dứt.   
					
					1. Chơn như (pháp thanh 
					tịnh) huân tập   
					
					2. Vô minh (các nhơn 
					tạp nhiễm) huân tập   
					
					3. Nghiệp thức (vọng 
					tâm) huân tập   
					
					4. Cảnh giới hư vọng 
					(sáu trần) huân tập.  
					 
					
					Sao gọi là "huân tập"?_ 
					Chữ "Huân" là xông ướp; chữ "Tập" là quen. Thí như y phục 
					không có mùi thơm, song vì người ta lấy vật thơm xông ướp 
					vào, nên nó quen (có) mùi thơm. 
					 
					
					Cũng thế, chơn như là 
					pháp thanh tịnh thật không có nhiễm ô, song vì bị vô minh 
					huân tập vào, nên có tướng nhiễm ô. Trái lại, vô minh là 
					pháp tạp nhiễm, cũng không có diệu dụng thanh tịnh, chỉ vì 
					bị chơn như huân tập vào, nên nó có diệu dụng thanh tịnh. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về việc 
					"Huân tập" của tâm sanh diệt, để chỉ rõ lý do các pháp sanh 
					diệt tương tục. Ở đây nên lưu ý nhứt, là hai chữ "huân tập". 
					Chúng ta được chứng Thánh Hiền hay bị làm phàm phu, đều do 
					huân tập cả.   
					
					Thí như người không 
					biết uống rượu, gần gũi bạn rượu nay nếm một giọt, mai uống 
					một ly, như thế gọi là "Huân". Lâu ngày người ấy vì quen hơi 
					rượu, nên ghiền rượu, gọi là "Tập" (tập quán). 
					 
					
					Chơn như và vô minh 
					huân tập nhau cũng thế. Nếu chơn như mạnh, huân tập vô minh, 
					thì vô minh biến thành tịnh dụng. Trái lại, nếu Vô minh 
					mạnh, huân tập vào chơn như thì chơn như biến ra tướng nhiễm 
					ô. Cũng như nước lạnh và nóng đổ chung một bồn, nếu thế lực 
					của nước nóng nhiều, thì làm cho nước lạnh trở thành ấm, 
					trái lại, nếu thế lực của nước lạnh nhiều, thì làm cho nước 
					nóng trở thành mát.   
					
					Hằng ngày chúng ta 
					"huân tập" không biết bao nhiêu việc, huân tập cái gì thành 
					ra cái nấy. Huân tập cái xấu nhiều, thành ra người xấu, Huân 
					tập cái tốt nhiều, thành ra người tốt. Vào hàng bán hương 
					chiên đàn, được xông ướp mùi thơm, thì ta thơm. Vào hàng bán 
					thịt cá, bị ướp mùi tanh hôi, thì ta hôi. Gần gũi người hiền 
					huân tập đức tánh tốt, thì ta thành người lương thiện; gần 
					gũi kẻ ác, huân tập theo tánh hung dữ, ta thành người bạo 
					ác. Bởi thế nên ngạn ngữ có câu: "Gần mực thì đen, gần đèn 
					thì sáng". Hằng ngày chúng ta chung đụng, gần gũi, lân la 
					không biết bao nhiêu hạng người, chúng ta phải thận trọng về 
					sự huân tập này. Huân tập Phật (chơn như) thì được thành 
					Phật, huân tập chúng sanh (vô minh) thì làm chúng sanh. 
					 
					
					Huân tập có bốn loại: 
					 
					
					1. Chơn như huân tập 
					 
					
					2. Vô minh huân tập 
					 
					
					3. Vọng tâm huân tập 
					 
					
					4. Vọng cảnh huân tập 
					 
					
					sẽ tuần tự giải thích 
					từ thô đến tế như sau.  
					 
					
					DO HUÂN TẬP NÊN CÁC 
					PHÁP NHIỄM Ô SANH KHỞI KHÔNG DỨT 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Huân tập thế nào, mà 
					các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt?_ Do chơn như mà có 
					vô minh (hoặc); rồi vô minh làm nhơn trở lại huân tập vào 
					chơn như (nghiệp) sanh ra vọng tâm (khổ); rồi vọng tâm (khổ) 
					trở lại huân tập vào vô minh (hoặc) v.v... 
					 
					
					Nghĩa là vì chưa ngộ 
					nhập được chơn như, nên bất giác (hoặc, tức là nghiệp tướng) 
					vọng niệm sanh khởi (nghiệp, tức là chuyển tướng) và vọng 
					hiện ra các cảnh giới (khổ, tức là hiện tướng). 
					 
					
					Rồi do cảnh giới nhiễm 
					ô vọng hiện này (khổ) trở lại huân tập vào vọng tâm, sanh ra 
					vọng niệm chấp trước (hoặc, tức là bốn món Thô trước) và tạo 
					ra các nghiệp (nghiệp, tức là món Thô thứ năm) rồi chịu tất 
					cả khổ về thân và tâm v.v...(khổ, tức là món Thô thứ sáu). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói do huân 
					tập nên các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt. 
					 
					
					Vì chưa ngộ nhập được 
					chơn tâm, nên vô minh bất giác vọng động nổi lên (hoặc) rồi 
					huân tập trở lại chơn tâm (nghiệp) biến thành vọng tâm 
					(khổ).   
					
					Rồi từ vọng tâm (khổ) 
					trở lại huân tập vô minh (hoặc sanh ra vọng niệm (nghiệp) và 
					cảnh giới hư vọng (khổ).  
					 
					
					Cảnh giới hư vọng (khổ) 
					trở lại huân tập vọng tâm, sanh ra vọng niệm chấp trước 
					(hoặc) tạo ra các nghiệp (nghiệp) rồi chịu quả khổ về thân 
					và tâm v.v...(khổ).   
					
					Cũng như 12 nhơn duyên: 
					Từ vô minh (hoặc) làm duyên cho hành (nghiệp), hành làm 
					duyên cho thức, danh sắc, lục nhập, xúc thọ (khổ); thọ làm 
					duyên cho ái (hoặc) và ái làm duyên cho thủ, hữu (nghiệp) 
					sanh và lão tử (khổ) v.v...Ba đời nhơn quả, từ hoặc tạo 
					nghiệp (nhơn quá khứ), do nghiệp nên thọ khổ (quả hiện tại). 
					Rồi khổ lại mê hoặc tạo nghiệp, (nhơn hiện tại) và vì tạo 
					nghiệp nên phải chịu khổ về sau (quả vị lai), v.v...Như cái 
					vòng tròn không có mối. Bởi thế nên nói các pháp tạp nhiễm 
					tương tục sanh khởi lkhông dứt. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nói về cảnh giới hư 
					vọng (6 trần) huân tập._ Cảnh giới hư vọng (6 trần) huân tập 
					có hai món: 1. Cảnh giới huân tập làm tăng trưởng vọng niệm 
					(Trí tướng và Tương tục tướng), 2. Cảnh giới huân tập làm 
					tăng trưởng chấp thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng). 
					 
					
					Nói về vọng tâm (nghiệp 
					thức) huân tập._   
					
					Vọng tâm huân tập có 
					hai món: 1. Vọng tâm (nghiệp thức căn bản) huân tập lại căn 
					bản vô minh (làm cho tạng thức bất đoạn) làm cho các vị Bồ 
					Tát, A la hán, Bích Chi Phật (Duyên giác) phải thọ khổ "Biến 
					dịch sanh tử" (sanh tử biến đổi). 2. Vọng tâm (phân biệt sự 
					thức) huân tập chi mạt vô minh (tức là bốn món Thô trước) 
					làm cho chúng phàm phu chịu khổ "phần đoạn sanh tử". 
					 
					
					Nói về vô minh huân 
					tập._vô minh huân tập có 2 món: 1. Căn bản vô minh huân tập 
					vào chơn như làm thành tựu nghiệp thức (Tạng thức), 2. Chi 
					mạt vô minh (kiến, ái) huân tập vào vọng tâm làm thành tựu 
					(tăng trưởng) phân biệt sự thức (ý thức) 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về 3 loại 
					huân tập (còn loại thứ tư, là chơn như huân tập, sẽ nói 
					trong bài sau), từ thô về tế: 
					 
					
					1. Cảnh giới hư vọng 6 
					trần huân tập vào vọng tâm, nuôi lớn chi mạ vô minh, cũng 
					gọi nhuận sanh vô minh, tức là Niệm (Trí tướng và Tương tục 
					tướng) và thủ (chấp thù tướng). 
					 
					
					2. Vọng tâm (nghiệp 
					thức) huân tập lại vô minh, nuôi lớn hai món khổ sanh tử của 
					phàm phu và Thánh giả:  
					 
					
					a. Vì vọng tâm (nghiệp 
					thức huân tập vào căn bản vô minh, nuôi lớn "vọng niệm", làm 
					cho Tạng thức (A lai da) bất đoạn, nên các vị Bồ Tát, Duyên 
					giác, A la hán phải bị khổ biến dịch sanh tử. 
					 
					
					b.Vì vọng tâm phân biệt 
					sự thức (ý thức) huân tập vào chi mạt vô minh, (Trí tướng, 
					Tương tục tướng, Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng, tức là 
					kiến hoặc và tư hoặc) nuôi lớn "chấp thủ", làm cho 7 thức 
					trước tương tục mãi mãi, nên chúng phàm phu phải bị khó phân 
					đoạn sanh tử.   
					
					3. Vô minh huân tập làm 
					thành tựu nghiệp thức và phân biệt sự thức: a. Vì căn bản vô 
					minh huân tập vào chơn như, nên làm thành tựu nghiệp thức, 
					tức là A lại da thức, b. Vì chi mạt vô minh (Kiến: Kiến 
					hoặc; Ái: tư hoặc) huân tập vào vọng tâm (nghiệp thức), nên 
					làm thành tựu phân biệt sự thức tức là thức. Nói chung là 
					bảy thức trước. Vì bảy thức trước phân biệt các sự vật, rồi 
					chấp ngã, chấp pháp, nên các sự vật mới thành như thế này, 
					hoặc như thế nọ. Bởi thế nên gọi là phân biệt sự thức. 
					 
					
					Đã nói "Do huân tập nên 
					các pháp tạp nhiễm sanh khởi không dứt" rồi; tiếp theo đây 
					sẽ nói: "Do huân tập nên các pháp thanh tịnh sanh khởi không 
					dứt".   
					
					DO 
					HUÂN TẬP NÊN CÁC PHÁP THANH TỊNH SANH KHỞI KHÔNG DỨT 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Huân tập thế nào, mà 
					các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt?_ Do chơn như huân 
					tập vô minh, nên làm cho hành giả khởi vọng tâm nhàm chán 
					khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn. Nhờ công năng chán khổ sanh 
					tử, ưa thú vui Niết bàn của vọng tâm đó, trở lại huân tập 
					vào chơn như, nên hành giả mới tự tin tánh Phật (khả năng 
					thành Phật) của mình, (ở vị Thập tín) và biết cảnh giới hiện 
					tiền không thẫy có, chỉ do tâm vọng động hiện ra (thập trụ) 
					rồi tu hành để xa lìa các nhiễm ô (thập hạnh và Thập hồi 
					hướng). Khi biết xác thực, không có cảnh giới hiện tiền (Sơ 
					địa) hành giả mới dùng các phương tiện tu hành (từ Nhị địa 
					đến Cửu địa) và khởi ra hạnh tuỳ thuận chơn tâm, không chấp 
					thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng) không vọng niệm 
					(Trí tướng và Tương tục tướng) và tu hành trải qua nhiều 
					kiếp lâu xa (Thập địa).  
					 
					
					Tóm lại, nhờ sức chơn 
					như huân tập này, nên vô minh diệt (Nghiệp tướng diệt). Vì 
					vô minh diệt nên tâm không vọng động (Chuyển tướng diệt); do 
					tâm không vọng động nên cảnh giới cũng theo đó mà diệt (Hiện 
					tướng diệt). Do vô minh (nhơn) và cảnh giới (duyên) đều 
					diệt, nên các tướng vọng nhiễm của tâm cũng diệt hết (Lục 
					thô diệt hết). Lúc bấy giờ, gọi là chứng Niết bàn, và hành 
					giả được diệu dụng không thể nghĩ bàn (tự nhiên nghiệp). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói do huân 
					tập mà các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt. 
					 
					
					Bên trong nhờ tánh Phật 
					(chơn như) huân tập vô minh, nên làm cho hành giả phản tỉnh, 
					nhàm khổ sanh tử cầu vui Niết bàn. Bên ngoài nhờ sự phản 
					tỉnh này, trở lại huân tập vào tánh Phật (chơn như) làm cho 
					hành giả giác ngộ cảnh giới này không thật, nên đã không 
					sanh tâm tham luyến và tạo nghiệp; trái lại, còn tuỳ thuận 
					theo tánh Phật tu hành, phá trừ Tam tế Lục thô, trải qua bao 
					vô số kiếp và 56 địa vị, từ Thập tín đến quả Phật. 
					 
					
					Vì bên trong vô minh, 
					bên ngoài cảnh giới đều đã diệt nên vọng tâm cũng diệt; do 
					vọng tâm diệt, nên tánh Phật (chơn như) mới hiện ra, gọi đó 
					là cảnh Niết bàn. Lúc bấy giờ hành giả được rất nhiều diệu 
					dụng hoá độ chúng sanh không thể nghĩ bàn. 
					 
					
					Chúng ta nên lưu ý đặc 
					điểm này: khi mê thì vô minh làm cho vọng tâm tạo ra các tội 
					khổ sanh tử triền phược; đến lúc ngộ thì chơn như (tánh 
					Phật) làm cho vọng tâm phản tỉnh và tiến tu đến đạo quả Bồ 
					Đề, Niết bàn.   
					
					Cũng như một cây gươm, 
					nếu kẻ giặc cầm thì sát nhơn vô đạo; còn người anh hùng 
					tướng sỉ cầm, thì bảo vệ non sông. Bởi thế nên người tu 
					hành, chỉ đổi cái "Dụng" mà thôi, chớ không phải trừ bỏ cái 
					"Thể" vậy.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, vọng tâm huân 
					tập có hai thứ:   
					
					1. Ý thức huân tập 
					(phân biệt sự thức), làm cho chúng phàm phu và Nhị thừa nhàm 
					chán khổ sanh tử, và tuỳ theo năng lực của mình, lần lần tu 
					hành đến Đạo vô thượng Bồ Đề. 
					 
					
					2. Ý huân tập, làm cho 
					các vị Bồ Tát phát tâm dõng mãnh, mau đến quả Niết bàn. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này giải thích, 
					vọng tâm huân tập trở lại chơn như, có hai loại: 
					 
					
					1. Ý thức (thức thứ 
					sáu) huân tập vào chơn như; nghĩa là do công năng phản tỉnh 
					của ý thức, huân tập trở lại tánh Phật sẳn có (chơn như), 
					nên làm cho chúng phàm phu và hàng Nhị thừa nhàm chán khổ 
					sanh tử, phát tâm tu hành, lần lần đến đạo vô thượng Bồ Đề. 
					 
					
					2. Ý (tương tục ý) huân 
					tập trở lại chơn như; nghĩa là do công năng phản tỉnh của ý, 
					huân tập trở lại tánh Phật (chơn như), nên làm cho hàng Bồ 
					Tát, phát tâm dõng mãnh tu hành, mau được quả Niết bàn. 
					 
					
					Trên đã nói vọng tâm 
					huân tập vào chơn như, có thô và tế không đồng rồi; tiếp sau 
					đây sẽ nói chơn như huân tập vô minh, có "thể" và "dụng" 
					không đồng.   
					
					HẾT QUYỂN THƯỢNG 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ CHÍN  
					 
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH  
					NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)  
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo)  
					k. Nói về bốn món huân tập (tiếp theo)   
					Nói về chơn như huân tập, có 2 phần   
					1. Thể tướng chơn như huân tập (chánh chơn huân tập) 
					 
					2. Diệu dụng chơn như huân tập (Trợ duyên huân tập) 
					 
					Diệu dụng chơn như huân tập có 2 duyên:   
					a. Duyên sai biệt, có 2 thứ:   
					Duyên gần duyên xa   
					b. Duyên bình đẳng   
					Thể và Dụng chơn như huân tập, lại chia làm 2 thứ: 
					 
					1. Chưa chứng nhập chơn như    
					2. Đã chứng nhập chơn như, được 2 trí:   
					Căn bản trí (vô phân biệt trí)   
					Hiện đắc trí (sai biệt trí) 
					 
					
					k. NÓI VỀ BỐN MÓN 
					HUÂN TẬP (tiếp 
					theo và hết) 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nói về chơn như (pháp 
					thanh tịnh) huân tập. Chơn như huân tập vô minh, có hai 
					phần:   
					
					1. Thể tướng chơn như 
					huân tập   
					
					2. Diệu dụng chơn như 
					huân tập.   
					
					Nói về thể tướng chơn 
					như huân tập vô minh: tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, 
					đều sẳn có bản thể chơn như (tánh Phật) và có đủ các công 
					dụng (diệu dụng chơn như ) không thể nghĩ bàn, sanh ra các 
					cảnh giới. Do thể tướng và công dụng của chơn như (tánh 
					Phật) thường huân tập vô minh, nó thúc đẩy chúng sanh chán 
					khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn, và tự tin mình có sẳn chơn 
					như (tánh Phật) nên tự phát tâm tu hành để thành Phật. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trong kinh chép: "Tất 
					cả chúng sanh đều có tánh Phật " (khả năng thành Phật). Tánh 
					Phật này, cũng gọi là chơn như, Pháp tánh hay Chánh nhơn 
					Phật tánh v.v...Nhờ sẳn có tánh Phật (giống Phật) nên chúng 
					sanh tu hành mới được thành Phật.  
					 
					
					Tánh Phật này thanh 
					tịnh vô lậu, và có diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nó thường 
					huân tập vô minh, làm cho chúng sanh tự tin mình có khả năng 
					thành Phật, nên phát tâm tu hành, chán khổ sanh tử cầu vui 
					Niết bàn. Nếu không nhờ tánh Phật này thúc giục, thì chúng 
					sanh không biết chừng nào mới phát tâm tu hành, cầu quả giải 
					thoát.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Nếu tất cả 
					chúng sanh đều sẳn có Chơn như (tánh Phật) và đồng huân tập 
					vô minh thì tất cả chúng sanh phải đồng thời tự tin minh có 
					chơn như (tánh Phật), đồng thời phát tâm tu các pháp lành và 
					đồng thời chứng quả Niết bàn; tại sao có vô cùng sai khác: 
					kẻ tin người không, kẻ tu trước, người tu sau, có kẻ đã nhập 
					Niết bàn, còn người chưa nhập?.  
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Do trước nói: "Tất cả 
					chúng sanh đều sẳn có tánh Phật, và nhờ tánh Phật này huân 
					tập vô minh, nên làm cho chúng sanh nhàm cảnh khổ sanh tử, 
					ưa vui Niết bàn v.v.." nên mới có câu hỏi này. Trong câu hỏi 
					này có hai điều nghi:  
					 
					
					Điều nghi thứ nhứt: 
					chúng sanh đã sẳn có tánh chơn như, bình đẳng như nhau, tại 
					sao lại có vô số những sự sai khác, không bình đẳng, như kẻ 
					đần độn, người thông minh, kẻ chánh người tà, kẻ tin người 
					không v.v...   
					
					Điều nghi thứ hai: 
					chúng sanh đã đồng nhờ chơn như huân tập vào vô minh, nên 
					phát tâm tu hành v.v...Vậy thì phải đồng thời phát tâm, đồng 
					thời tự tin mình có tánh Phật và đồng thời tu, đồng thời 
					chứng v.v...tại sao có vô cùng những sự sai khác, không bình 
					đẳng, như kẻ tu trước người tu sau, kẻ mau ngộ đạo người 
					chậm chạp v.v...   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Đáp:_ Từ hồi nào 
					đến giờ chơn như vẫn một; song vô minh có vô lượng vô biên, 
					tánh chất khác nhau, dày mỏng không đồng. 
					 
					
					Do vô minh này mà sinh 
					ra các phiền não sai khác (Sở tri chướng) nhiều hơn số cát 
					sông Hằng. Cũng do vô minh này mà sanh ra các phiền não sai 
					khác, như ngã kiến, ái nhiễm v.v...(phiền não chướng). 
					 
					
					Tóm lại, tất cả phiền 
					não (phiền não chướng, sở tri chướng) đều do vô minh sanh 
					khởi, hoặc trước hoặc sau vô cùng sai khác. 
					 
					
					(Đoạn này đã nói "vô 
					minh sai khác không đồng", tiếp theo đây sẽ nói "ngoại duyên 
					không phải một").   
					
					Lại nữa, trong Phật 
					pháp nói: "Tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh; nhơn 
					duyên đầy đủ mới được thành tựu". 
					 
					
					Thí như chất lửa trong 
					cây là "Chánh nhơn" của lửa. Song, nếu không có "trợ duyên" 
					là người biết lấy lửa, và các phương tiện như bùi nhùi, 
					(bổi) công người cọ sát v.v...thì lửa kia không thể tự phát 
					sanh ra được.   
					
					Cũng vậy, chúng sanh 
					tuy sẳn có tánh Phật (chơn như) là cái "nhơn chánh" để thành 
					Phật; song nếu không có "ngoại duyên" là gặp các đức Phật, 
					Bồ Tát và Thiện tri thức v.v...dẫn dắt chỉ dạy cho phương 
					pháp tu hành, thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ 
					phiền não và tu chứng Niết bàn được. 
					 
					
					Trái lại, nếu chỉ có 
					"ngoại duyên" mà không có chơn như là cái "nhơn chánh" để 
					thành Phật, huân tập bên trong, thì hành giả cũng không thể 
					tự mình chán khổ sanh tử, cầu vui rốt ráo Niết bàn được. 
					 
					
					Bởi thế nên, phải có 
					nội nhơn và ngoại duyên đều đầy đủ; nghĩa là bên trong nhờ 
					tánh Phật (chơn như) làm "chánh nhơn" huân tập; bên ngoài 
					nhờ đức từ bi và đại nguyện của Phật, Bồ Tát giúp hộ làm 
					"trợ duyên", thì hành giả mới chán khổ sanh tử, tin có cõi 
					Niết bàn và phát tâm tu tập các pháp lành. Nhờ tu tập các 
					pháp lành được thuần thục, nên hành giả mới gặp chư Phật Bồ 
					Tát thị hiện, chỉ dạy những điều lợi lạc. Lúc bấy giờ hành 
					giả mới tinh tấn tu hành, để đến đạo quả Niết bàn. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tất cả chúng sanh đều 
					có tánh Phật (chơn như) và đồng huân tập vô minh v.v...thì 
					phải đồng phát tâm, đồng tu và đồng chứng như nhau. Song, có 
					sự vô cùng sai khác, không đồng nhau như kẻ phát tâm tu 
					hành, người huỷ bán, kẻ đã thành Phật, người còn trầm luân 
					là vì hai nguyên nhơn sau này: 
					 
					
					1. Vô minh không đồng. 
					_ Mỗi chúng sanh có rất nhiều lớp vô minh: có thứ vô minh 
					thuộc về căn bản, có thứ vô minh thuộc về chi mạt; có thứ 
					sâu dày, có thứ mỏng cạn, có thứ thô phù dễ trừ, có thứ tế 
					nhị khó đoạn. Do các thứ vô minh này sanh ra hằng hà sa số 
					phiền não. Nhưng trong số phiền não này, tóm lại có hai 
					chướng: phiền não chướng và sở tri chướng (cũng gọi là trần 
					sa hoặc).   
					
					Vì đoạn trừ vô minh có 
					khó dễ, mau chậm khác nhau, nên chúng sanh phát tâm tu hành 
					và chứng quả không đồng thời. 
					 
					
					2. Hoàn cảnh không 
					đồng._ Mỗi chúng sanh đều có mỗi hoàn cảnh khác nhau, hoàn 
					cảnh tức là các duyên chung quanh. 
					 
					
					Chứng được đạo quả vô 
					thượng Bồ Đề, phải có đủ cả nhơn và duyên. Nhơn là chơn như 
					hay Phật tánh, huân tập bên trong; Duyên là những hoàn cảnh 
					giúp đỡ bên ngoài, như Phật, Bồ Tát và Thiện hữu tri thức 
					dạy bảo dẫn dắt v.v...Nếu chỉ có Nhơn mà thiếu Duyên, hoặc 
					có Duyên mà thiếu Nhơn, thì cũng không thành. 
					 
					
					Thí như trong cây có 
					sẳn chất lửa là "nhơn chánh"; song phải nhờ các "trợ duyên" 
					là hoàn cảnh bên ngoài, như người biết lấy lửa và bổi 
					v.v...thì lửa ấy mới phát sanh được. Nếu thiếu một (Nhơn 
					hoặc Duyên) thì lửa không thể xuất hiện được. 
					 
					
					Bởi hoàn cảnh của mỗi 
					chúng sanh không đồng nhau, nên sự phát tâm tu hành và chứng 
					quả không thống nhất. Đây là lý do thứ hai. 
					 
					
					Phật tánh có 3: 
					 
					
					1. Chánh nhơn Phật 
					tánh: Chơn như là cái nhơn chánh để thành Phật; dụ như chất 
					lửa sẳn có trong cây.  
					 
					
					2. Duyên nhơn Phật 
					tánh: Phật, Bồ Tát , Thiện hữu tri thức và kinh sách 
					v.v...là trợ duyên để thành Phật; dụ như người biết lấy lửa 
					và bổi v.v...   
					
					3. Liễu nhơn Phật tánh: 
					Chánh nhơn và trợ duyên đều đầy đủ, làm cho hành giả phát 
					hiện được (liễu ngộ) tánh Phật của mình; dụ như lửa trong 
					cây đã phát cháy.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nói về diệu dụng chơn 
					như huân tập:   
					
					Đây là các trợ duyên 
					bên ngoài của hành giả; có rất nhiều thứ trợ duyên, nhưng 
					tóm lại có 2 loại:   
					
					1. Duyên sai biệt, 2. 
					Duyên bình đẳng.   
					
					1. Duyên sai biệt: 
					Từ khi mới phát tâm cầu đạo, cho đến thành Phật, trong 
					khoảng thời gian ấy, hành giả hoàn toàn nhờ chư Phật và Bồ 
					Tát gia hộ cho trên đường tu hành. Vì tâm đại bi, nên Phật 
					và Bồ Tát hoặc hiện làm người thân thuộc, như cha mẹ (để dạy 
					bảo hành giả) hoặc hiện làm Thiện hữu tri thức (để nhắc 
					nhở), hoặc hiện làm người tôi tớ hầu hạ (để khuyên lơn), 
					hoặc hiện làm kẻ oan gia (như Đề bà đạt da v.v.. để xúc 
					khích) hoặc dùng Tứ nhiếp pháp (để cảm hoá), cho đến làm 
					không biết bao nhiêu công hạnh, để huân tập cho hành giả; 
					làm cho hành giả hoặc nhớ nghĩ công đức của các Ngài, hoặc 
					thấy hình tướng, hoặc nghe thuyết pháp, mà được lợi ích và 
					tăng trưởng căn lành.  
					 
					
					Các duyên sai khác này, 
					chia làm hai loại:   
					
					a) Duyên gần, làm cho 
					hành giả mau đặng Bồ Đề (hiện tiền chứng đạo). 
					 
					
					b) Duyên xa, làm cho 
					hành giả về sau mới đặng tế độ (nhiều kiếp về sau mới đặng 
					đạo).   
					
					Hai món duyên gần và xa 
					này, lại chia làm hai loại nữa: Duyên làm cho hành giả được 
					thọ đạo pháp và Duyên làm cho hành giả tăng trưởng đạo 
					hạnh.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về diệu 
					dụng chơn như của chư Phật và Bồ Tát huân tập cho chúng 
					sanh. Chư Phật và Bồ Tát đã chứng được bản thể chơn như, nên 
					tự nhiện có diệu dụng không thể nghĩ bàn. 
					 
					
					Do lòng Đại bi và Đại 
					nguyện của chư Phật và Bồ Tát, tuỳ theo trình độ của chúng 
					sanh phát tâm cầu đạo, nên từ diệu dụng của chơn như, ứng 
					hiện ra các thân hình v.v.. làm trợ duyên bên ngoài, để giúp 
					cho chúng sanh được thành đạo quả. Nhưng các duyên này, có 
					chia làm hai loại:   
					
					1. Duyên sai biệt: Do 
					trình độ của chúng sanh không đồng, sự phát tâm của mỗi 
					người mỗi khác, nên chư Phật và Bồ Tát thị hiện phải có sai 
					khác (Duyên sai biệt).  
					 
					
					2. Duyên bình đẳng: Do 
					đồng thể đại bi, nên chư Phật và Bồ Tát phát nguyện độ sanh, 
					bình đẳng làm lợi ích.  
					 
					
					Đoạn này nói về "Duyên 
					sai biệt".   
					
					Chư Phật và Bồ Tát thị 
					hiện rất nhiều phương tiện để độ sanh; nhưng không ngoài 5 
					việc như sau:   
					
					a) Vì muốn dùng từ ái, 
					để dẫn dắt hành giả, nên hiện làm cha mẹ. 
					 
					
					b) Vì muốn dùng việc 
					hầu hạ, để gần gũi hành giả đặng khuyên lơn, nên hiện làm kẻ 
					tôi tớ.   
					
					c) Vì muốn dùng việc 
					cộng sự, để giúp cho hành giả, nên hiện làm Thiện hữu tri 
					thức.   
					
					d) Vì muốn xúc khích 
					hành giả trên đường tu hành, nên hiện làm kẻ oan gia (như Đề 
					bà đạt da).   
					
					đ) Vì muốn cảm hoá 
					người, nên dùng Tứ nhiếp pháp. 
					 
					
					Tất cả những phương 
					tiện này, đều do lòng từ bi của Phật và Bồ Tát mà khởi hiện, 
					làm trợ duyên để huân tập cho hành giả tăng trưởng căn lành 
					và được nhiều lợi ích.  
					 
					
					Các duyên sai biệt này 
					chia làm 2 loại:   
					
					1. Duyên gần; nghĩa là 
					hành giả sớm được tế độ. Như khi Phật còn tại thế, những 
					chúng sanh được hoá độ.  
					 
					
					2. Duyên xa; nghĩa là 
					hành giả chậm được tế độ. Như khi Phật Đại Thông Trí Thắng 
					ra đời, đức Thích Ca làm đệ tử Ngài, cho đến thời kỳ này mới 
					được thành Phật.   
					
					Tất cả những phương 
					tiện này, đều giúp cho hành giả được lãnh thọ đạo pháp và 
					tăng trưởng đạo hạnh.  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					2. Duyên bình đẳng: 
					Tất cả chư Phật và Bồ Tát đều phát nguyện độ thoát tất cả 
					chúng sanh. Do sức bi trí đồng thể tự nhiên huân tập, nên 
					các Ngài thường hằng tuỳ thuận chúng sanh nào muốn thấy Phật 
					nghe Pháp, thì đều bình đẳng hiện ra để hoá độ, không bỏ một 
					chúng sanh nào. Bởi thế nên chúng sanh khi ở trong thiền 
					định, đều được bình đẳng thấy Phật. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Chư Phật và Bồ Tát đã 
					chứng đến chỗ đồng thể (Phật và chúng sanh đồng một bản thể) 
					nên các Ngài tự thấy chúng sanh còn đau khổ, thì mình còn 
					đau khổ; chúng sanh còn trầm luân, thì mình chưa giải 
					thoát.   
					
					Bởi thế nên từ chỗ đồng 
					thể ấy, các ngài khởi Đại bi, Đại trí và phát Đại nguyện. 
					Như Ngài Địa tạng Bồ Tát thề rằng: "chúng sanh độ tận, 
					phương chứng Bồ Đề. Địa ngục vị không, thệ bất thành 
					Phật".(nghĩa là độ hết chúng sanh mới chứng Bồ Đề; nếu địa 
					ngục còn tội nhơn, thì tôi thề không thành Phật). 
					 
					
					Đức A Nan thề rằng:"Ngũ 
					trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhứt chúng sanh vị thành 
					Phật, chung bất ư thử thủ Nê hoàn". Nghĩa là: Trong đời tội 
					ác 5 trược, tôi thề xung phong vào trước, để độ chúng sanh. 
					Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì tôi thề 
					không chịu chứng quả Niết bàn. 
					 
					
					Do sự thúc dục của đồng 
					thể bi trí này, nên các Ngài thường hằng tuỳ thuận tất cả 
					chúng sanh, bình đẳng hoá độ. Như Ngài Phổ hiền Bồ Tát 
					thường hiện thân cho người thấy; đức Quán Thế Âm Bồ Tát thì 
					ứng hiện 32 thân v.v..  
					 
					
					Nếu chúng sanh nào tâm 
					thanh tịnh, thì được thấy chư Phật và Bồ Tát (chúng sanh tâm 
					nhược tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung). 
					 
					
					Sự ứng hiện ấy rất tự 
					nhiên và bình đẳng, cũng như ao nước nào trong, thì tự nhiên 
					có trăng bình đẳng hiện vào. 
					 
					
					Trên đã nói diệu dụng 
					chơn như của chư Phật, Bồ Tát, khi đã được hiển lộ rồi; còn 
					chơn như của chúng sanh chưa hiển lộ thì diệu dụng thế nào? 
					Hãy xem đoạn dưới đây:  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Thể và Dụng của chơn 
					như huân tập, lại chia làm hai loại: 
					 
					
					1. Chưa chứng nhập 
					(tương ưng) chơn như.  
					 
					
					2. Đã chứng nhập chơn 
					như.   
					
					1. Chưa chứng nhập 
					chơn như: Chúng phàm phu, hàng Nhị thừa và các vị Bồ Tát 
					mới phát tâm (Tam hiền), do ý và ý thức huân tập mà phát 
					tâm, và chỉ nương nơi sức tin của mình (tin tánh Phật ở nơi 
					mình) mà tu hành; vì chưa chúng nhập (tương ưng) bản thể 
					chơn như, nên chưa được vô phân biệt tâm (vô phân biệt trí, 
					tức là căn bản trí); vì chưa đặng diệu dụng của chơn như, 
					nên sự tu hành chưa được diệu dụng tự tại (sai biệt trí hay 
					hậu đắc trí)   
					
					2. Đã chứng nhập 
					chơn như: Các vị Bồ Tát đã chứng Pháp thân (Thập địa Bồ 
					Tát), chỉ nương nơi Pháp tánh (Pháp lực) tu hành (thuận tánh 
					khởi tu), tự nhiên huân tập vào chơn như, nên diệt được vô 
					minh. Các vị Bồ Tát này đã được vô phân biệt tâm (căn bản 
					trí), vì đã chứng nhập được bản thể chơn như; và đã được Sai 
					biệt trí (Hậu đắc trí), vì đã được diệu dụng của chơn như 
					(dữ Phật trí dụng tương ưng). 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Thể chơn như không hai, 
					song vì còn ở trong vỏ chúng sanh hay đã thoát ra ngoài, mà 
					diệu dụng có rộng hẹp chẳng đồng; vì thế nên phân làm hai 
					loại:   
					
					1. Người chưa chứng 
					nhập được chơn như: chơn như còn bị các phiền não nhiễm ô 
					triền phược (tại triền), chưa được hiển lộ; như vàng còn ở 
					trong khoáng.   
					
					Chúng phàm phu, hàng 
					Nhị thừa và các vị Bồ Tát còn ở địa vị tam hiền, đều từ vọng 
					thức phân biệt mà phát tâm; do tự tin nơi mình có tánh Phật 
					mà tu hành. Vì chưa chứng nhập "thể" và "dụng" của chơn như, 
					nghĩa là chơn như còn bị triền phược, chưa được hiển lộ, nên 
					các vị này chưa được căn bản trí (vô phân biệt trí) và hậu 
					đắc trí (sai biệt trí).  
					 
					
					2. Người đã chứng nhập 
					chơn như: chơn như đã được hiển lộ ra khỏi vỏ phiền não 
					nhiễm ô triền phược; như vàng đã ra khỏi khoáng. 
					 
					
					Các vị Bồ Tát từ Sơ địa 
					cho đến Thất địa, mới nhập được bản thể chơn như; từ Bát địa 
					đến Phật mới được Diệu dụng của chơn như. Các vị này, tuỳ 
					theo tánh chơn như mà tu hành, nên diệt trừ được vô minh. Vì 
					đã chứng nhập Thể và Dụng của chơn như, nên các vị Bồ Tát 
					nầy được hai món trí:  
					 
					
					Căn bản trí (Vô phân 
					biệt trí) và Hậu đắc trí (Sai biệt trí). 
					 
					
					Đã nói nhiễm và tịnh 
					huân tập nhau rồi, dưới đây sẽ nói nhiễm và tịnh, cái nào có 
					cùng tận, cái nào không cùng tận. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH  
					NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo)  
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo)  
					1. Chơn như và vô minh, thỉ và chung (tiếp theo)   
					Chơn như vô thỉ vô chung   
					Vô minh vô thỉ hữu chung   
					m. Nói về 3 đại nghĩa của Tâm:   
					1. Thể rộng lớn của Tâm   
					(tánh bình đẳng không động)   
					2. Tướng rộng lớn của Tâm   
					(đủ hằng sa công đức)   
					3. Dụng rộng lớn của Tâm   
					( có hằng sa diệu dụng, sẽ nói trong bài 11) 
					 
					  
					  
					
					CHƠN NHƯ VÀ VÔ MINH, 
					THỂ VÀ DỤNG  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, vô minh (pháp 
					nhiễm ô) và chơn như (pháp thanh tịnh) đều đã có sẳn từ vô 
					thỉ đến nay và huân tập chẳng dứt; song đến khi thành Phật 
					rồi, thì vô minh bị dứt hết, còn chơn như lại vô cùng tận 
					trong đời vị lai, cho đến sau khi thành Phật cũng vẫn còn. 
					Tại sao vậy? _ Vì chơn như thường huân tập, nên vọng tâm (vô 
					minh) phải tiêu diệt. Do vọng tâm tiêu diệt, nên pháp thân 
					hiện ra; rồi pháp thân lại khởi diệu dụng, huân tập trở lại 
					nữa, nên chơn như không có cùng tận. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Chơn như và vô minh 
					đồng một bản thể và có từ vô thỉ. Song vô minh rốt sau bị 
					chơn như tiêu diệt, nên hữu chung; còn chơn như sau khi ra 
					khỏi triền phược rồi, lại được nuôi lớn nên vô chung. 
					 
					
					Thí như trong trái 
					hồng, cả chất chát và ngọt đều đồng thời có. Song khi trái 
					hồng còn non, chất ngọt bị chất chát lấn át (chơn như tại 
					triền), nên người ta chỉ thấy chất chát (vô minh); đến khi 
					lớn dần, thì chất chát bị chất ngọt huân tập, nên chất chát 
					mỗi ngày mỗi ít, mà chất ngọt mỗi ngày mỗi thêm, rồt cuộc 
					rồi chát hết (vô minh diêt mà chỉ còn ngọt (chơn như). Khi 
					trái hồng đã chín ngọt rồi, thì không bao giờ trở lại chát 
					nữa chúng sanh khi đã thành Phật, không trở lại làm chúng 
					sanh nữa).   
					
					Trên đã nói về "Nhơn 
					duyên sanh diệt" rồi, dưới đây sẽ nói về ba đại nghĩa của 
					Tâm là: Thể, Tướng và Dụng. 
					 
					
					m. NÓI VỀ 3 ĐẠI 
					NGHIÃ CỦA TÂM 
					
					(Trong bài này mới nói 
					hai nghĩa thể và tướng rộng lớn của tâm) 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, tất cả phàm 
					phu, Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật, từ hồi nào đến 
					giờ, đều tự sẳn có thể tướng chơn như này. Tánh chơn như 
					không tăng, không giảm, không trước, không sau, không sanh, 
					không diệt, rốt ráo thường hằng, đầy đủ tất cả công đức (đức 
					tánh), như là:   
					
					1. Đại trí huệ sáng 
					suốt.   
					
					2. Chiếu khắp cả pháp 
					giới.   
					
					3. Chơn thật hay biết. 
					 
					
					4. Tâm tánh thanh tịnh. 
					 
					
					5. Thường, lạc, ngã, 
					tịnh.   
					
					6. Trong mát (thanh 
					lương), không biến đổi và tự tại v.v.. 
					 
					
					Tóm lại, nó không rời, 
					không đoạn, không khác, đầy đủ pháp Phật không thể nghĩ bàn, 
					và có vô lượng công đức, nhiều hơn số cát sông Hằng. Vì nó 
					đầy đủ tất cả, không thiếu một công đức nào, nên gọi là Như 
					Lai tạng, cũng gọi là Như Lai Pháp thân. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trước kia, trong phần 
					"Định danh nghĩa" có nói: "Tướng nhơn duyên sanh diệt tức là 
					Thể, Tướng và Dụng của Đại thừa ...". Đến bài này nói rõ Thể 
					lớn, Tướng lớn và Dụng lớn của Đại thừa, tức là tâm Chơn như 
					vậy.   
					
					Nhưng trong bài này, 
					chỉ mới nói Thể rộng lớn của tâm, là tánh bình đẳng không 
					vọng động, và Tướng rộng lớn của tâm, là có đủ hằng sa công 
					đức; còn Dụng rộng lớn của tâm, sẽ nói tiếp trong bài thứ 
					II.   
					
					Tất cả Thánh phàm, đều 
					sẳn có tâm chơn như và cũng đều từ tâm này sanh ra. Tâm chơn 
					như ở nơi Thánh không thêm, ở nơi phàm chẳng giảm, không 
					trước không sau, không sanh không diệt, đầy đủ hằng sa đức 
					tánh:   
					
					_ Đại trí huệ sáng suốt 
					(tức là đức tánh thường quang của Pháp thân Phật). 
					 
					
					Chiếu khắp cả pháp giới 
					(tức là Thật trí chiếu suốt lý tánh. Quyền trí soi khắp tất 
					cả sự vật)   
					
					_ Chơn thật hay biết 
					(rời các vọng thức phân biệt, chỉ còn chơn giác). 
					 
					
					_ Tâm tánh thanh tịnh ( 
					chơn tâm thanh tịnh, xa lìa các vọng hoặc nhiễm ô). 
					 
					
					_ Đủ bốn đức Niết bàn: 
					Chơn thường (thuần nhứt không thay đổi), Chơn lạc (không có 
					các khổ làm não loạn), Chơn ngã (không bị hai món sanh tử 
					bức bách), Chơn tịnh (không bị trần lao phiền não làm nhiễm 
					ô).   
					
					_ Trong mát (vĩnh viễn 
					xa lìa phiền não).   
					
					_ Không biến đổi (không 
					sanh, trụ, dị, diệt).  
					 
					
					_ Tự tại (không bị các 
					nghiệp triền phược).  
					 
					
					_ Không rời (hằng xa 
					công đức không rời chơn như). 
					 
					
					_ Không đoạn (từ vô thỉ 
					đến giờ không hề gián đoạn) 
					 
					
					_ Không khác (một vị, 
					không khác).   
					
					_ Và không thể nghĩ bàn 
					v.v.. (sự lý viên dung, nhiễm tịnh không hai, không thể nghĩ 
					bàn được).   
					
					Tóm lại, vì tâm chơn 
					như bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên gọi là Như Lai 
					tạng và làm chỗ nương cho tất cả các Pháp, nên cũng gọi là 
					Pháp thân của Như Lai.  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi: Trước đã 
					nói "Thể chơn như bình đẳng và xa lìa tất cả các tướng", tại 
					sao đến đây lại nói "Thể chơn như có đủ các đức tánh sai 
					khác"?   
					
					Đáp: _ Tuy đủ 
					các đức tánh, mà thật ra không có hình tướng gì sai khác; 
					chỉ đồng một vị chơn như bình đẳng mà thôi. 
					 
					
					Hỏi: Nghĩa này 
					thế nào?   
					
					Đáp: _ Vì bản 
					thể chơn như vô phân biệt, và xa lìa các hình tướng sai 
					biệt, cho nên không có tướng gì sai khác (vô nhị). 
					 
					
					Hỏi: _ Vậy thì 
					căn cứ theo nghĩa gì, mà nói là sai khác? 
					 
					
					Đáp: _ Căn cứ 
					theo tướng sanh diệt của nghiệp thức, mà nói có sai khác 
					vậy.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn nầy Luận chủ lập 
					những câu vấn đáp, để giải thích các nghi ngờ. Trong phần 
					vấn đáp thứ nhứt, về câu hỏi:"Thể chơn như đã bình đẳng và 
					xa lìa tất cả tướng, tại sao lại có đủ các đức tánh sai 
					khác?" _ Luận chủ trả lời, đại ý:"Tướng" không khác với 
					"Tánh", Tướng tức là Tánh, đều đồng một vị chơn như bình 
					đẳng, nên không khác; cũng như sóng không khác với nước, 
					sóng tức là nước, đều đồng một vị. 
					 
					
					Trong phần vấn đáp thứ 
					hai, ngoại nhân vì chưa hiểu câu trả lời trên, nên hỏi gạn 
					lại, để được giải thích thêm. Luận chủ đáp, đại ý như sau: 
					chơn như xa lìa tất cả các tướng, và tất cả sự phân biệt, 
					cho nên không có hai tướng sai khác; sở dĩ có sự sai khác là 
					do đổi vọng tâm phân biệt (nghiệp thức) mà có. 
					 
					
					Trong phần vấn đáp thứ 
					ba, đại ý về câu hỏi:"Thể và Tướng chơn như đã không hai, 
					vậy căn cứ vào đâu mà nói có sự sai khác?". Đại ý câu đáp: _ 
					Căn cứ vào nghiệp thức sanh diệt, mà chỉ Tướng sai khác. Vì 
					nghiệp thức sanh diệt có đủ hằng sa pháp nhiễm ô, cho nên 
					khi chuyển nhiễm ô trở lại chơn như thanh tịnh, tất nhiên 
					cũng phải có đủ hằng sa tướng sai khác về đức tánh thanh 
					tịnh.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi: _ Căn cứ 
					theo tướng sanh diệt của nghiệp thức thế nào, mà nói có các 
					đức tánh sai khác?   
					
					Đáp: _ Từ hồi 
					nào đến giờ, tất cả các pháp thật ra không có tướng gì sai 
					khác (thật vô ư niệm), chỉ một chơn tâm mà thôi. Song vì vô 
					minh bất giác, tâm vọng niệm khởi lên, thấy có các cảnh 
					giới, nên gọi là "vô minh". 
					 
					
					_ Vì đối với nghiệp 
					thức (vọng tâm) có khởi niệm; trái lại chơn như không khởi 
					niệm nên chơn như có đức tánh Đại trí huệ quang minh (đức 
					tánh thứ nhứt).   
					
					_ Vì đối với nghiệp 
					thức có thấy, nên có cái không thấy; trái lại chơn như vì xa 
					lìa các cái thấy, nên chơn như có đức tánh chiếu khắp cả 
					pháp giới (đức tánh thứ hai). 
					 
					
					_ Vì đối với nghiệp 
					thức có vọng động, nên không chơn thật hay biết, và tự tánh 
					không thanh tịnh; trái lại chơn như vì không vọng động, nên 
					chơn như có đức tánh Chơn thật hay biết và Tâm tánh thanh 
					tịnh (đức tánh thứ ba và tư). 
					 
					
					_ Vì đối với nghiệp 
					thức thì không thường, không lạc, không ngã, không tịnh, 
					nhiệt não, suy biến và không tự tại; trái lại chơn như không 
					có các việc trên, nên chơn như có những đức tánh: chơn 
					thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh, thanh lương (trong 
					mát) bất biến và tự tại (đức tánh thứ 5 và 6 v.v...) 
					 
					
					Tóm lại, vì đối với 
					nghiệp thức có hằng hà sa số nhiễm ô, còn chơn như thì trái 
					lại, không có các nhiễm ô, nên chơn như hiện ra đủ các đức 
					tánh thanh tịnh, cũng nhiều hơn số cát sông Hằng. Vì nghiệp 
					thức (vọng tâm) có khởi động, còn thấy có các pháp hiện tiến 
					để phân biệt, nên còn có chỗ thiếu sót; trái lại, chơn như 
					là pháp thanh tịnh, chỉ nhứt tâm, không có vọng niệm, nên 
					đầy đủ vô lượng công đức. Bởi thế nên gọi là Như Lai tạng, 
					cũng gọi là Pháp thân của Như Lai. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn vấn đáp nầy là 
					tiếp theo 3 đoạn vấn đáp trên, để giải thích thêm về câu 
					hỏi:"Thể chơn như đã bình đẳng, lìa tất cả tướng, tại sao 
					lại có đủ các đức tánh sai khác?" _ Đoạn vấn đáp trên đã trả 
					lời rằng:" Căn cứ theo tướng sanh diệt của nghiệp thức, nên 
					nói có các đức tánh sai khác". Bởi thế nên đến đoạn này, mới 
					có câu hỏi: "Căn cứ theo nghiệp thức thế nào mà nói chơn như 
					có các đức tánh sai khác?". 
					 
					
					_ Đại ý trong câu trả 
					lời của đoạn văn này:" tất cả các pháp tức là chơn như, nên 
					không có tướng gì sai khác. Song vì vô minh bất giác, tâm 
					vọng niệm nổi lên (nghiệp thức), nên thấy (chuyển thức) có 
					cảnh giới (hiện thưc sai khác). 
					 
					
					Nghiệp thức có vô số 
					tướng nhiễm ô như: Khởi vọng niệm, có tướng thấy, tướng 
					không thấy, có động, vô thường, vọng ngã, khổ, nhiệt não, 
					suy biến, không tự tại, có chỗ thiếu sót v.v...Vì đối với 
					các tánh nhiễm ô của nghiệp thức, nên chơn như mới có vô số 
					đức tánh thanh tịnh sai khác, như là: 
					 
					
					1. Đại trí huệ quang 
					minh   
					
					2. Chiếu khắp cả pháp 
					giới   
					
					3. Chơn thật hay biết 
					 
					
					4. Tánh thanh tịnh 
					 
					
					5. Chơn thường, chơn 
					lạc, chơn ngã, chơn tịnh  
					 
					
					6. Trong mát (thanh 
					lương) không biến đổi (không sanh, lão, bịnh, tử) và tự tại 
					v.v...   
					
					Tóm lại, vì đối nghiệp 
					thức có các tướng nhiễm ô, nhiều hơn số cát sông Hằng, nên 
					chơn như cũng có đủ các đức tánh thanh tịnh, nhiều hơn số 
					cát sông Hằng.   
					
					Đã nói Thể lớn, Tướng 
					lớn của chơn như rồi, tiếp đến bài thứ II sau đây, sẽ nói 
					Dụng rộng lớn của Tâm chơn như. 
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
				
			 |