|   | 
			
			
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					MỘT 
					CHƯƠNG THỨ BA 
					PHẦN GIẢI THÍCH 
					NÓI VỀ NGHĨA "BẤT GIÁC" (tiếp theo) 
					
					MỤC LỤC 
					
					Nói về nghĩa "Bất giác" 
					(tiếp theo và hết) 
					Ba đại nghĩa của Tâm (tiếp theo và hết) 
					Nói về Dụng rộng lớn của Tâm: 
					Báo thân 
					Ứng thân 
					Thế giới trang nghiêm 
					III. Trở về Tâm Chơn như 
					Không khởi vọng niệm thì trở về Chơn như 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Nói về Dụng rộng lớn 
					của tâm chơn như: 
					
					Các đức Phật từ khi tu 
					nhơn (Bồ Tát đạo) đã phát tâm đại từ bi, tu các pháp Ba la 
					mật, giáo hóa chúng sanh. Các Ngài lập lời thệ nguyện rộng 
					lớn, độ thoát tất cả chúng sanh cho đến cùng tận đời vị lai, 
					không hạn định bao nhiêu số kiếp. 
					
					Các Ngài xem tất cả 
					chúng sanh như thân mình, và cũng không thấy (chấp) có tướng 
					chúng sanh để độ. Tại sao vậy? _ Vì các Ngài đã chơn thật 
					hiểu biết: tất cả chúng sanh và mình không có sai khác, đồng 
					một tâm chơn như bình đẳng. 
					
					Các Ngài đã dùng Đại 
					trí huệ diệt hết vô minh, nên chơn như (Pháp thân) được hiện 
					ra. Do chơn như đã hiện, nên tự nhiên có các món diệu dụng 
					không thể nghĩ bàn. Bởi diệu dụng từ thể chơn như hiện ra, 
					nên Dụng đồng với Thể chơn như, đều biến khắp tất cả, và 
					cũng đều không có hình tướng gì để thấy được. 
					
					Tại sao vậy? _ Vì các 
					đức Phật chỉ có Pháp thân thanh tịnh, tức là Trí thân (tâm), 
					không có hình sắc (cảnh giới) và cũng không có tạo tác. 
					Song, tuỳ theo trình độ của chúng sanh, hoặc thấy hoặc nghe, 
					đều được lợi ích, nên gọi là "Dụng lớn". 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn này nói về Dụng 
					lớn của tâm chơn như. 
					
					Các vị Bồ Tát, dùng đại 
					trí huệ, diệt trừ hết vô minh, chứng được Thể chơn như (Pháp 
					thân). Do các vị Bồ Tát đã chứng được chỗ đồng thể, nên tự 
					xem mình cùng tất cả chúng sanh đồng một bản thể, không có 
					riêng khác; nếu chúng sanh đau khổ, tức là mình đau khổ, 
					chúng sanh còn trầm luân thì mình chưa được giải thoát. 
					
					Bởi thế nên Bồ Tát, tức 
					nơi thể chơn như bình đẳng, khởi ra "Đại dụng": Phát tâm đại 
					từ bi, lập lời thệ nguyện rộng lớn, tu các pháp Ba la mật 
					(lục độ), hoá độ chúng sanh, cùng tận đời vị lai, không hạn 
					định bao nhiêu số kiếp, và cũng không chấp có tướng chúng 
					sanh để độ.   
					
					"Thể" và "Tướng" của 
					chơn như đều rộng lớn như thế, nên "Diệu dụng" của chơn như 
					cũng không thể nghĩ bàn: Không có hình tướng, không có công 
					dụng và cũng không có tâm tạo tác; song tuỳ theo căn cơ của 
					mỗi chúng sanh, cảm muốn như thế nào, thì ứng hiện ra như 
					thế ấy (như đức Quan Âm Bồ Tát ứng hiện 32 thân v.v...) làm 
					cho chúng sanh đều được lợi ích, nên được gọi là "Đại dụng". 
					Như hư không, tuỳ các đồ vật mà hiện đủ hình. Và cũng như 
					trăng rằm, không cố ý (vô tâm) không dụng công (vô công 
					dụng) mà tự nhiên chiếu khắp tất cả; tuỳ theo các ao hồ, 
					nước trong hay đục mà trăng tỏ hay mờ.
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Diệu dụng của chơn như 
					tuỳ theo trình độ của chúng sanh mà thấy có hai phần: 
					 
					
					1. Ứng thân 2. Báo 
					thân   
					
					_ Chúng phàm phu và Nhị 
					thừa, do Phân biệt sự thức (ý thức) nên thấy ứng thân Phật. 
					Họ chỉ thấy phần nào về sắc thân Phật, chớ không thể biết 
					cùng tận, và chỉ chấp thân ấy từ ở ngoài đến, chớ không biết 
					do tâm (chuyển thức) hiện ra. 
					 
					
					_ Các vị Bồ Tát từ khi 
					mới phát tâm, cho đến khi rốt ráo địa vị Bồ Tát, đều do 
					nghiệp thức (A đà na) mà thấy báo thân Phật. Thân này có vô 
					lượng sắc tướng, mỗi sắc tướng có vô lượng sự tốt đẹp. 
					
					Về quốc độ của thân 
					này, cũng đủ vô lượng vật quý báu trang nghiêm; tuỳ sự thị 
					hiện nơi nào đều không cùng tận, không có biên giới và cũng 
					không hư hoại. 
					
					Tóm lại, thân thể 
					(chánh báo) và quốc độ (y báo), sở dĩ đều được thành tựu các 
					công đức như thế, là do sự huân tập của các hạnh vô lậu, như 
					các pháp Ba la mật v.v...và sự huân tập bất tư nghị (chơn 
					như huân tập bên trong). Vì được đầy đủ vô lượng tướng diệu 
					lạc như thế nên gọi là Báo thân. 
					
					Chúng phàm phu thì chỉ 
					thấy sắc thân thô sơ của Phật. Còn lục đạo chúng sanh do tuỳ 
					theo cái nghiệp của mỗi loài khác nhau, nên thấy thân Phật 
					không đồng. Do tuỳ theo mỗi loài ứng hiện, không phải chính 
					thân tướng tốt đẹp (báo thân), nên gọi là "ứng thân". 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Tuỳ theo trình độ của 
					chúng sanh, mà diệu dụng chơn như thành ra hai phần: 
					 
					
					1. Ứng thân: 
					Thân này chỉ tuỳ theo muôn ngàn hoàn cảnh sai biệt của lục 
					đạo chúng sanh, mà hiện ra muôn ngàn hình thức không đồng: 
					Loài nào thấy Phật loài nấy. Như hư không tuỳ theo các đồ 
					vật vuông tròn v.v...mà ứng hiện ra đủ các hình tướng. 
					
					Chúng phàm phu và hàng 
					Nhị thừa, vì còn ý thức phân biệt, và chấp theo trần cảnh 
					bên ngoài, không ngộ lý Duy thức, nên thấy Phật ngoài tâm 
					mình. Bởi thế nên chỉ thấy ứng thân Phật, như thân Phật có 
					32 tướng tốt v.v... 
					
					2. Báo thân: 
					Thân này là kết quả hai món huân tập: 
					 
					
					a) Chơn như huân tập, 
					cũng gọi là Bất khả tư nghị huân. 
					 
					
					b) Các pháp vô lậu 
					thanh tịnh huân tập, tức là tu các pháp như Lục độ v.v...Vì 
					thế nên Chánh báo (thân thể) được vô số tướng tốt đẹp, mà Y 
					báo (hoàn cảnh) cũng được vô cùng vật quý báo trang nghiêm. 
					
					Các vị Bồ Tát từ khi 
					mới phát tâm cho đến lúc rốt ráo địa vị Bồ Tát, đều ngộ lý 
					Duy tâm, nên thấy Báo thân Phật Duy tâm hiện ra, không phải 
					ở ngoài đến. Nhưng cũng tuỳ theo trình độ của từng địa vị, 
					mà sự thấy có Thô, tế khác nhau. Bồ Tát từ địa vị Thập tín, 
					Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng và Tứ gia hạnh, chỉ thấy 
					về phần Thô của Báo thân Phật. Các vị Bồ Tát từ Sơ địa lên 
					đến Đẳng giác thì thấy Báo thân Phật lần lần thù thắng và vi 
					diệu.   
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Lại nữa, các vị Bồ Tát 
					mới phát tâm (tam hiền) do thâm tín chơn như, nên chỉ thấy 
					được một phần nhỏ báo thân Phật. Các vị Bồ Tát này, tuy biết 
					sắc thân Phật có nhiều tướng tốt trang nghiêm, duy tâm biến 
					hiện, không rời chơn như, không khứ không lai, xa lìa ranh 
					giới, song các vị Bồ Tát này còn dùng tâm phân biệt (ý thức) 
					nên chưa nhập được Pháp thân. 
					 
					
					Nếu Bồ Tát đặng tâm 
					thanh tịnh (lên Thánh địa) thì thấy báo thân Phật càng tốt 
					đẹp và càng mầu nhiệm. Đến vị Bồ Tát tột bực (Đẳng giác) thì 
					thấy báo thân Phật mới hoàn toàn rốt ráo. 
					
					Nếu Bồ Tát lìa được 
					nghiệp thức (A đà na) thì ngộ được pháp thân Phật, không có 
					sắc tướng gì có thể thấy được; vì pháp thân của chư Phật, 
					không có sắc tướng thế này thế nọ, không có tướng phần (bị 
					phân biệt) và kiến phần (năng phân biệt) nên không thể thấy 
					được.   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn nầy tiếp theo đoạn 
					trước, nói tuỳ theo trình độ của Bồ Tát, thấy thân Phật khác 
					nhau.   
					
					Các vị Bồ Tát ở địa vị 
					Tam hiền, tuy đã ngộ được lý Duy thức và thâm tín chơn như, 
					nhưng vì còn dùng ý thức phân biệt, nên chỉ thấy báo thân 
					Phật được một ít thôi.  
					 
					
					Các vị Bồ Tát đã ngộ 
					nhập chơn như, chứng được pháp thân thanh tịnh, bước lên 
					Thánh vị (Thập địa); càng lên bực trên chừng nào, thì lại 
					càng thấy báo thân Phật tốt đẹp và mầu nhiệm chừng ấy. Đến 
					địa vị cùng tận của Bồ Tát là vị Đẳng giác, mới thấy được 
					rốt ráo Báo thân Phật. 
					
					Đến khi Bồ Tát phá trừ 
					được Nghiệp thức (Vọng thức: A lại da chơn vọng hoà hiệp) 
					tức là phá trừ được vô minh rất vi tế (món Tế thứ nhứt trong 
					ba Tế); lúc bấy giờ mới hoàn toàn nhập Chơn như, chứng Pháp 
					thân thanh tịnh.   
					
					Pháp thân là bản thể 
					của các pháp; vì không có sắc tướng, không có bỉ thử và 
					không tâm cảnh v.v...nên không thể thấy được. Tất cả chư 
					Phật và chúng sanh cũng đồng một bản thể này. 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Hỏi: _ Pháp thân 
					của chư Phật đã không có các sắc tượng, tại sao lại hiện ra 
					có các sắc tướng? (ứng thân và báo thân) 
					
					Đáp: _ Vì pháp 
					thân là bản thể của sắc tướng, cho nên có thể hiện ra các 
					sắc tướng (hoá thân báo thân). Do từ hồi nào đến giờ, Sắc 
					(hiện tượng) Tâm (bản thể) không hai, nên bản thể của Sắc 
					(sắc tánh) tức là Tâm (tức trí). 
					
					Vì bản thể của Sắc vô 
					hình (thuộc về tâm) nên gọi là "Trí thân". Vì tướng của tâm 
					(trí tánh) tức là Sắc, nên gọi là "Pháp thân". 
					
					Vì bản thể (tâm) đã 
					biến khắp tất cả chỗ, nên hiện tượng là Sắc, cũng không có 
					chừng ngằn. Tuỳ nơi tâm mà hiện ra mười phương thế giới, vô 
					lượng Bồ Tát, vô lượng Báo thân, vô lượng món trang nghiêm, 
					mỗi mỗi sai khác, đều không có hạn lượng và đều không ngại 
					nhau. Vì đây là diệu dụng đại tự tại của chơn như, nên hkông 
					thể dùng thức tâm phân biệt mà biết được. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn này Luận chủ đặt 
					ra lời vấn đáp để giải thích sự nghi ngờ. 
					 
					
					Hỏi: _ Pháp thân của 
					chư Phật thanh tịnh, không có các hình tướng, tại sao lại 
					hiện ra có các sắc tướng là Hoá thân và Báo thân? 
					 
					
					Đại ý lời đáp: Do từ 
					hồi nào đến giờ, trong Chơn như Pháp thân, Sắc và Tâm không 
					hai: Bản thể của Sắc tức là Tâm, Hiện tượng của Tâm tức là 
					Sắc. Bởi thế nên Chơn như Pháp thân tuy không có hình sắc, 
					mà có thể hiện ra các hình tướng: Y báo và Chánh báo đầy đủ. 
					Cũng như bản thể của điện, biến khắp tất cả không gian, tuy 
					không có hình tướng, nhưng có thể hiện ra các sắc tướng, 
					(hiện tượng) như sấm sét, chớp, nổ v.v...Trong Tâm kinh 
					chép: "Sắc chẳng khác với Không, Không chẳng khác với Sắc" 
					(Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc; Sắc tức thị Không, 
					Không tức thị Sắc).   
					
					Vì Sắc tức là Tâm, nên 
					các pháp tức là Chơn như Pháp thân. Vì Tâm tức là Sắc, nên 
					chơn như pháp thân tuỳ duyên thành các pháp. Do bản thể đã 
					biến khắp tất cả, nên hiện tượng các Sắc tướng, như mười 
					phương thế giới, vô lượng Bồ Tát, vô lượng món trang nghiêm 
					v.v....cũng biến khắp tất cả, không có hạn lượng; mặc dù các 
					hình sắc đều khác nhau, nhưng không trở ngại nhau. Việc này 
					là diệu dụng của Chơn như Pháp thân, nên chúng phàm phu và 
					hàng Nhị thừa, không thể dùng thức tâm của mình mà phân biệt 
					được. 
					
					Do Chơn như là bản thể 
					của các Pháp, nên gọi là Pháp thân; và nó đủ tất cả trí, nên 
					cũng gọi là Trí thân.  
					 
					
					III. Trở về Tâm 
					Chơn như   
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					Lại nữa, các pháp từ 
					sanh diệt mà trở về Tâm chơn như; nghĩa là suy xét kỹ càng: 
					bên trong thì thân ngũ ấm (Sắc: Sắc ấm: Tâm: bốn ấm sau) bên 
					ngoài thì cảnh giới (6 trần) rốt ráo vô niệm (tức là chơn 
					tâm). Song, vì chúng sanh bị vô minh làm mê, nên chơn tâm 
					(vô niệm) biến thành hữu niệm (có thân và cảnh v.v..), nhưng 
					bản thể chơn tâm không động (vô niệm) 
					
					Cũng như người lầm 
					phương hướng, vì sự mê lầm nên chấp phương Đông làm phương 
					Tây; thật ra phương hướng không thay đổi. 
					
					Bởi thế nên, người quán 
					sát biết được Tâm vô niệm (không khởi vọng niệm) thì đặng 
					tuỳ thuận vào Tâm chơn như. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Luận này có 5 chương, 
					trong chương thứ ba là Phần Giải thích, lại chia làm 3 
					phần:   
					
					1. Nói về nghĩa chánh 
					 
					
					2. Đối trị các chấp sai 
					lầm.   
					
					3. Phân biệt hành tướng 
					phát tâm đến Đạo.   
					
					Trong phần "Nói về 
					nghĩa chánh", lại chia làm 3: 
					 
					
					I. Nói về Tâm Chơn như 
					
					II. Nói về Tâm Sanh 
					diệt 
					
					III. Trở về Tâm Chơn 
					như (tức là quán sát các pháp, sanh tức vô sanh). 
					
					Đoạn văn trên đây nói 
					về phần thứ ba là "Trở về Tâm Chơn như". 
					
					Hành giả hãy quán sát 
					tất cả các pháp: Bên trong là thân ngũ ấm (Sắc và Tâm), bên 
					ngoài là cảnh giới 6 trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) 
					rốt ráo đều vô niệm (không vọng niệm, tức là chơn như). Vì 
					các pháp không rời Thể Chơn tâm (Tâm Chơn như), nên Chơn tâm 
					đã vô niệm (không vọng), thì các pháp cũng vô niệm (không 
					vọng). 
					
					Chơn tâm vì không có 
					hình tướng nên tìm khắp mười phương không thể thấy được nó. 
					Song vì vô minh vọng động, nên Tâm biến ra các pháp hữu hình 
					(hữu niệm) như thân và cảnh v.v...nhưng bản thể Chơn tâm vẫn 
					thanh tịnh không động (vô niệm). Cũng như người bộ hành, vì 
					lầm phương hướng nên chấp phương Đông làm phương tây, thật 
					ra phương hướng không thay đổi. 
					
					Do vọng niệm sanh ra 
					các pháp sanh diệt, nên dứt trừ vọng niệm (quán vô niệm) thì 
					các pháp sanh diệt kia tự trở về Tâm Chơn như (vô niệm). 
					Cũng như vì gió nên có sóng động, nếu gió hết thì sóng kia 
					tự trở lại với tánh nước yên lặng. 
					
					Nếu vô niệm (không vọng 
					niệm) thì toàn vọng là chơn; nên quán vô niệm là con đường 
					tu chứng duy nhứt của các Phật Tổ. 
					
					Trong kinh Lăng nghiêm 
					Phật dạy:" ...Bất tuỳ phân biệt ..." (Không theo trần cảnh 
					khởi vọng niệm phân biệt, tức là quán vô niệm)****** 
					 
					
					Tổ Đạt Ma khi từ Ấn độ 
					mới đến Trung hoa, đức Nhị tổ thỉnh cầu Ngài dạy phương pháp 
					an tâm. 
					
					Tổ Đạt Ma trả lời: _ 
					"Ông hãy đem tâm đến đây, ta sẽ an cho". 
					
					Đức Nhị tổ thưa rằng: _ 
					"Con tìm tâm không thể được". 
					
					Tổ Đạt Ma dạy tiếp: _ 
					"Ta đã an tâm cho ông rồi". Đức Nhị tổ liền tỏ ngộ. 
					
					Đức Lục Tổ Huệ Năng 
					dạy: _" ....Bổn lai vô nhứt vật ...." (từ xưa đến nay, không 
					có một vật)****** 
					
					Đây là những bằng chứng 
					Phật và Tổ đều dạy cái bí quyết tu hành mau được thành Phật 
					là "Vô niệm" (không vọng niệm). 
					 
					
					Bởi thế nên, cũng ở nơi 
					Luận này, về đoạn trước đã nói:" ...Nếu lìa các vọng niệm 
					thì đặng nhập chơn như ..." (nhược ly ư niệm, danh vi đắc 
					nhập). 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI HAI 
					 
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH   
					B. ĐỐI TRỊ CÁC CHẤP SAI LẦM  
					
					MỤC LỤC 
					
					B. Đối trị các chấp sai 
					lầm 
					Chấp sai lầm có 2 thứ:  
					I. Chấp ngã, có 5 thứ:  
					1. Chấp Hư không là Chơn tánh của Như Lai 
					2. Chấp Chơn như hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có 
					chi hết. 
					3. Chấp Như Lai tạng có các hình tướng sai khác như Sắc và 
					Tâm 
					4. Chấp trong Như Lai tạng có đủ các sanh tử nhiễm ô 
					5. Chấp chúng sanh có thỉ, chư Phật có chung tận. 
					II. Chấp pháp: 
					Chấp thật có vũ trụ, vạn hữu 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Tất cả các chấp sai lầm 
					(tà chấp), đều do chấp ngã và chấp pháp mà sanh; nếu rời 
					chấp ngã và chấp pháp thì không còn các chấp sai lầm. 
					
					I. CHẤP NGÃ (chấp bản 
					ngã thật có). 
					
					Chúng phàm phu chấp ngã 
					có 5 thứ:   
					
					1. Chấp "Hư không là 
					chơn tánh của Như Lai". _ Vì phá chấp của chúng sanh nên 
					trong kinh Phật nói:" Pháp thân của Như Lai rốt ráo vắng 
					lặng cũng như hư không". Chúng phàm phu nghe nói như thế, 
					không hiểu, lại lầm chấp: "Hư không là chơn tánh của Như 
					Lai". 
					
					Vì đối trị cái chấp sai 
					lầm này, nên phải giải thích rằng: "Hư không là pháp hư đối, 
					không có thật thể, do đối với sắc tướng mà thấy có hư không; 
					nếu không có sắc tướng thì cũng không có tướng hư không. 
					Nghĩa là từ hồi nào đến giờ, tất cả cảnh giới (sắc pháp) đều 
					do vọng tâm biến hiện, không có pháp nào ngoài tâm; chúng 
					sanh không biết, vọng chấp (biến kế chấp) là thật có. Nếu 
					vọng tâm hết, thì các cảnh giới cũng không còn. Lúc bấy giờ 
					chỉ còn chơn tâm hiện khắp tất cả. Đó là pháp thân quảng đại 
					thuộc về tâm trí (tánh trí) của Như Lai không phải như hư 
					không, không có tri giác. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đối trị chấp tà là phá 
					trừ các sự chấp nhứt sai lầm. Các sự chấp nhứt sai lầm đều 
					do chấp ngã, chấp pháp mà sanh. Nếu phá trừ được chấp ngã, 
					chấp pháp thì các chấp sai lầm không còn. 
					
					Vì quan niệm thân tâm 
					là thật, nên gọi là chấp ngã quan niệm vũ trụ vạn vật là 
					thật, thì gọi là chấp pháp. 
					
					Chúng sanh chấp pháp 
					thân của Phật có hình tướng như thế này, hoặc như thế kia 
					v.v....Vì muốn phá các chấp sai lầm ấy, nên Phật nói: "Pháp 
					thân của Phật rốt ráo vắng lặng, cũng như hư không". 
					
					Nghe trong kinh nói như 
					vậy, chúng sanh trở lại chấp: "Hư không là pháp thân của Như 
					Lai" vì phá cái chấp sai lầm này, nên Ngài Mã Minh giải 
					thích rằng: "Hư không là cái không thật thể, do các sắc 
					tướng mà thấy có hư không. Nếu không có sắc tướng thì cũng 
					không có hư không. Cả sắc tướng và hư không đều do vọng tâm 
					biến hiện; rồi chúng sanh lầm chấp là thật có. Nếu vọng tâm 
					hết thì sắc tướng và hư không cũng không còn. Lúc bấy giờ 
					bản thể chơn tâm hiện ra, rộng lớn bao la và trùm khắp tất 
					cả. Đó là pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Đây thuộc về 
					phần tâm trí, không phải như hư không, không có tri giác. 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					2. Chấp "Chơn như 
					hay Niết bàn, chỉ là không không, chẳng có chi hết". _ 
					Vì phá vọng chấp của chúng sanh, nên trong kinh Phật nói: 
					"các pháp thế gian rốt ráo không có thật thể; cho đến các 
					pháp xuất thế gian, như Chơn như hay Niết bàn rốt ráo, cũng 
					không có thật thể; từ hồi nào đến giờ, nó không có các 
					tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, trở lại 
					chấp: "Chơn như hay Niết bàn là không có chi hết". 
					 
					
					Vì đối trị sự chấp sai 
					lầm này, nên phải giải thích rằng: "Chơn như hay Pháp thân 
					của Phật, chẳng phải không có tự thể; nó sẳn có và đầy đủ vô 
					lượng công đức".   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn trên phá quan niệm 
					sai lầm, chấp "hư không là chơn tánh của Như Lai"; đoạn này 
					phá quan niệm sai lầm, cho rằng "Chơn như hay Niết bàn là 
					cảnh giới hư không ảo tưởng không có chi hết". 
					
					Chúng sanh thường lầm 
					tưởng:"Các pháp thật có". Vì phá trừ quan niệm sai lầm ấy, 
					nên trong kinh Phật nói: "các pháp thế gian hư giả không 
					thật, cho đến các pháp xuất thế gian như Chơn như, Bồ Đề, 
					Niết bàn v.v...rốt ráo cũng không có thật thể, vì không có 
					các hình tướng". Chúng phàm phu nghe nói như vậy không hiểu, 
					trở lại chấp: "Chơn như hay Niết bàn v.v...là cảnh giới hư 
					vô ảo tưởng, chẳng có chi hết". 
					
					Để đối trị sự chấp sai 
					lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Chơn như, 
					Pháp thân hay Bồ Đề, Niết bàn không phải là cảnh giới ảo 
					tưởng hư vô, không có gì cả, mà nó sẳn có đầy đủ vô lượng 
					đức tánh, nhiều hơn số cát sông Hằng, như: thiện, thường, 
					lạc, ngã, tịnh, giải thoát v.v.... 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					3. Chấp "Như Lai 
					tạng" có các hình tướng sai khác như Sắc và Tâm v.v... _ 
					Nghe trong kinh Phật nói:"Như Lai tạng không tăng không 
					giảm, sẳn đủ tất cả các công đức"; chúng phàm phu vì không 
					hiểu nghiã này, nên trở lại chấp:" Như Lai tạng có đủ các 
					hình tướng sai khác, như sắc và tâm v.v....". 
					
					Để đối trị sự chấp sai 
					lầm này, nên phải giải thích rằng: "Căn cứ về thể Chơn như 
					thì không có các tướng sai khác; còn theo tướng nhiễm ô sanh 
					diệt, thì có các hình tướng sai khác". 
					 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn này phá quan niệm 
					sai lầm cho rằng: "Chơn" đồng với "Vọng". 
					
					Nghe trong kinh Phật 
					nói: "Như Lai tạng không tăng không giảm, sẳn có đủ tất cả 
					đức tánh, chúng phàm phu không hiểu trở lại chấp: "Như Lai 
					tạng cũng có các hình sắc sai khác". 
					 
					
					Để đối trị quan niệm 
					sai lầm này, Ngài Mã Minh giải thích rằng: "Thể Chơn như" 
					(Chơn như môn) thì thanh tịnh không có các hình tướng sai 
					khác, còn về ":tướng sanh diệt" (Sanh diệt môn) thì đủ các 
					hình tướng sai khác". 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					4. Chấp "Trong Như 
					Lai tạng thật có đủ các pháp sanh tử nhiễm ô"._ Nghe 
					trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô của thế gian, 
					đều do Như Lai tạng mà có, tất cả các pháp đều không rời 
					Chơn như", chúng phàm phu không hiểu nghĩa này, lại chấp: 
					"Chính trong bản thể Như Lai tạng, sẳn có tất cả các pháp 
					sanh tử nhiễm ô của thế gian". 
					 
					
					Để đối trị cái chấp sai 
					lầm này, nên giải thích rằng: "Từ vô thỉ tới giờ, trong Như 
					Lai tạng, chỉ có các công đức thanh tịnh, nhiều hơn số cát 
					sông Hằng. Các công đức này không lìa, không đoạn và cũng 
					không khác với Chơn như; còn hằng hà sa số các pháp phiền 
					não nhiễm ô kia, chỉ là hư vọng, vốn không có thật tánh. Bởi 
					thế nên từ hồi nào đến giờ, trong Như Lai tạng chưa từng 
					thật có các pháp nhiễm ô. Nếu trong bản thể Như Lai tạng 
					(chơn) thật có các phiền não nhiễm ô, rồi hành giả phải diệt 
					trừ các phiền não nhiễm ô, mới chứng được chơn như thanh 
					tịnh, thì rất vô lý. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Chúng phàm phu nghe 
					trong kinh Phật nói: "Các pháp sanh tử nhiễm ô đều do Như 
					Lai tạng mà có, các pháp không rời chơn như ": rồi họ chấp 
					"Trong Như Lai tạng hay chơn như, thật có sẳn các pháp sanh 
					tử nhiễm ô".   
					
					Để phá quan niệm sai 
					lầm này, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích rằng: "Từ hồi 
					nào đến giờ, trong Như Lai tạng (chơn) chỉ có hằng hà sa số 
					đức tánh thanh tịnh, các đức tánh này không rời chơn như; 
					còn pháp sanh tử nhiễm ô, vì là hư vọng, không có thật thể, 
					nên từ hồi nào đến giờ, không có ở trong Như Lai tạng". 
					 
					
					Như Lai tạng hay chơn 
					như, dụ như "tâm người đương thức tỉnh": sanh tử nhiễm ô, dụ 
					như "giấc ngủ mà có chiêm bao". Đành rằng "cái ngủ chiêm 
					bao" là nương nơi "tâm người thức tỉnh" mà có; song từ hồi 
					nào đến giờ, trong "tâm người thức tỉnh" không bao giờ thật 
					có chứa sẳn "cái ngủ chiêm bao". Bởi "cái ngủ chiêm bao" hư 
					vọng không thật, nên khi thức giấc rồi thì nó tự mất. Cũng 
					thế, các pháp sanh tử nhiễm ô, vì hư vọng không thật, nên 
					khi giác ngộ rồi, nó không còn. 
					 
					
					Nếu quan niệm rằng: 
					"trong Như Lai tạng thật sẳn có các phiền não nhiễm ô; hành 
					giả phải diệt trừ hết các phiền não nhiễm ô, mới chứng được 
					chơn như thanh tịnh", thì không phải. Cũng như nói " trong 
					tâm người thức tỉnh, thật sẳn có "cái ngủ chiêm bao" phải 
					diệt trừ hết "cái ngủ chiêm bao" rồi, mới được thức tỉnh": 
					nói như thế rất là phi lý. 
					 
					
					Phải biết, các phiền 
					não sanh tử, chỉ là cái mê vọng, không có thật thể. Phật đã 
					dạy rằng: "Biết mình mê thì cái "mê" hết, cái "biết" đó 
					không sanh mê trở lại" (Giác mê mê diệt, giác bất sanh mê). 
					Cũng như người khi biết mình dại, thì không còn dại nữa. Lúc 
					bấy giờ họ trở thành khôn; khi khôn rồi, thì cái "khôn" đó 
					không sanh cái dại trở lại nữa. 
					 
					
					Nếu cái "dại" (mê) này 
					thật có, thì khi biết khôn (giác) rồi, cái "dại" đó trốn núp 
					ở đâu? Cũng như "cái ngủ chiêm bao" nếu thật có, thì khi 
					tỉnh thức rồi nó phải còn. Nhưng vì nó không còn, nên biết 
					"cái ngủ chiêm bao" (mê dại) này không thật có. 
					 
					
					Nếu nói "phải diệt trừ 
					hết các pháp sanh tử nhiễm ô mới chứng được chơn như thanh 
					tịnh" thì cũng như nói "phải phá trừ cho hết "cái ngủ chiêm 
					bao" rồi, mới được sự thức tỉnh"; nói như thế, đều phi lý. 
					 
					
					Bởi thế nên từ hồi nào 
					đến giờ, trong Như Lai tạng hay Chơn như, không bao giờ thật 
					có sanh tử nhiễm ô; cũng như trong "tâm người thức tỉnh", 
					không bao giờ thật có "cái mê ngủ chiêm bao" vậy. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					5. Chấp:
					"Chúng sanh 
					có thỉ, chư Phật có chung tận"._ Chúng phàm phu nghe trong 
					kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai 
					tạng mà đặng Niết bàn". Vì họ không hiểu nên chấp: "Chúng 
					sanh hữu thỉ (có đầu tiên) và chư Phật chứng Niết bàn, sẽ có 
					ngày chung tận, rồi trở lại làm chúng sanh". 
					 
					
					Để đối trị cái chấp sai 
					lầm này, nên giải thích rằng: Như Lai tạng (Chơn như tại 
					triền) và vô minh đều có từ vô thỉ (không có đầu tiên). Nếu 
					nói chúng sanh (có sanh khởi đầu tiên) là kinh của ngoại đạo 
					nói (kinh Đại hữu), không phải kinh Phật. 
					 
					
					Lại nữa, Như Lai tạng 
					không có chung tận: chư Phật chứng Niết bàn là thể nhập 
					(tương ưng) Như Lai tạng, nên cũng không có chung tận. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Chúng sanh nghe trong 
					kinh Phật nói: "Do Như Lai tạng mà có sanh tử, do Như Lai 
					tạng mà chứng Niết bàn"; rồi họ suy luận và chấp rằng: vì do 
					Như Lai tạng mà có sanh tử (Vô minh, chúng sanh); như thế 
					thì chúng sanh (sanh tử, vô minh) tất phải có sự bắt đầu 
					sanh khởi; (hữu thỉ) và do Như Lai tạng mà chứng Niết bàn, 
					vậy thì Niết bàn cũng có sự bắt đầu sanh khởi (hữu thỉ). Do 
					đó người ta kết luận: Chúng sanh đã hữu thỉ nên cũng hữu 
					chung, Niết bàn hữu thỉ nên cũng hữu chung. Bởi thế nên họ 
					chấp chư Phật chứng Niết bàn rồi, có ngày cũng cùng tận, 
					phải trở lại làm chúng sanh. 
					 
					
					Để đối trị với chấp sai 
					lầm này, nên Ngài Mã Minh giải thích, đại ý nói "Chơn như và 
					vô minh đồng thời có từ vô thỉ". Cũng như chất ngọt và chất 
					chát đồng thời có trong trái hồng. Song hành giả khi chuyển 
					phiền não trở lại Bồ Đề, chuyển sanh tử trở lại Niết bàn, 
					thì lúc bấy giờ chúng sanh không còn (chung tận), mà chỉ còn 
					Chơn như hay Phật. Cũng như khi trái hồng lớn chín, đổi hết 
					chất chát chỉ còn chất ngọt. Khi trái hồng đã chín ngọt rồi, 
					thì không bao giờ trở lại chát nữa. Cũng như khi đã thành 
					Phật rồi, không bao giờ trở lại làm chúng sanh nữa. 
					 
					
					Vậy nên biết, vô minh 
					(chúng sanh) vô thỉ mà hữu chung; Chơn như (Phật) vô thỉ và 
					vô chung. 
					
					Kinh Phật thì chép 
					"Chúng sanh vô thỉ"; còn kinh Đại hữu của ngoại đạo lại chép 
					"Chúng sanh hữu thỉ".  
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					II. CHẤP PHÁP (chấp 
					thật có vũ trụ vạn hữu). 
					 
					
					Đối với hàng Nhị thừa, 
					vì độn căn chấp ngã, nên trong kinh Phật nói: "Chỉ có năm ấm 
					sanh diệt, không có thật ngã". Nghe như thế, hạng này trở 
					lại chấp: "Thật có năm ấm sanh diệt" (chấp thật pháp), nên 
					họ rất sợ khổ sanh tử và cầu vui Niết bàn. 
					 
					
					Để đối trị cái chấp sai 
					lầm này, nên phải giải thích rằng: "Tánh của năm ấm, từ hồi 
					nào đến giờ, vốn là Niết bàn, không sanh và cũng không 
					diệt".   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Năm ấm thật sắc, thọ, 
					tưởng, hành và thức. Vì năm đám mây này che khuất vừng trăng 
					chơn như, nên gọi là "Ấm" (che). 
					 
					
					Để phá trừ chấp ngã của 
					hàng Nhị thừa độn căn, nên Phật nói: "chỉ có năm ấm sanh 
					diệt, không có thậ ngã". Lúc bấy giờ hạng này không còn chấp 
					ngã, mà trở lại chấp pháp; nghĩa là chấp thật có năm ấm, 
					thật có khổ sanh tử và vui Niết bàn. Do đó, họ rất sợ sanh 
					tử và thích thú vui ở mãi mơi cảnh Niết bàn. 
					 
					
					Để phá trừ cái chấp 
					thật Pháp của Nhị thừa, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát giải thích, 
					đại ý nói: "Tướng của các pháp không thật, tánh nó là chơn 
					như, là Niết bàn, xưa nay không sanh, nên cũng không diệt". 
					Vì các pháp không thật có, nên Bồ Tát không sợ sanh tử và 
					không yên vui ở mãi nơi Niết bàn". 
					 
					
					Nếu nói một cách đầy 
					đủ, thì phải nói "vô ngã và vô pháp". Nhưng đây vì đối với 
					hàng Nhị thừa, nên Phật chỉ mới nói "năm ấm vô thường", chớ 
					chưa nói đến "sanh tử tức chơn thường". 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, nếu người rốt 
					ráo xa lìa các vọng chấp, thì mới biết rõ các pháp Nhiễm 
					tịnh đều do đối đãi nhau mà thôi, thật ra không có cái tướng 
					gì có thể kêu gọi được. Bởi thế nên, từ hồi nào đến giờ, tất 
					cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí, 
					không phải thức, không phải hữu, không phải vô, rốt ráo 
					không có tướng gì có thể gọi được. Song, sở dĩ Phật có nói 
					năng kêu gọi như thế này hoặc như thế kia, là vì đức Như Lai 
					khôn khéo, phương tiện tạm dùng lời nói để dẫn dắt chúng 
					sanh, mục đích là làm cho chúng sanh xa lìa các vọng niệm 
					(ly niệm) trở vể chơn như; nếu còn vọng niệm thì tâm phải 
					sanh diệt, nên chẳng nhập được trí Phật (thật trí: chơn 
					như)   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Từ hồi nào đến giờ, tất 
					cả các pháp, không phải sắc, không phải tâm, không phải trí, 
					không phải thức v.v...chỉ vì chúng sanh vọng chấp phân biệt, 
					so sánh (biến kế chấp) đối đãi với nhau mà thành thế này 
					hoặc thế kia, như đối với hữu gọi là vô, đối với sắc gọi là 
					tâm, đối với thức gọi là trí, đối với cao gọi là thấp, đối 
					với lớn gọi là nhỏ, đối với tốt gọi là xấu v.v...Nếu chúng 
					sanh rốt ráo xa lìa các vọng chấp thì thật không có một pháp 
					gì có thể kêu gọi được. Lúc bấy giờ hành giả mới thấy rõ các 
					pháp không thể kêu gọi (ly danh tự tướng), không thể nói 
					năng luận bàn (ly ngôn thuyết tướng), hay suy nghĩ được (ly 
					tâm duyên tướng). 
					
					Chư Phật đã hoàn toàn 
					xa lìa các vọng chấp, song còn gọi pháp khổ, pháp vui, nhiễm 
					tịnh, sanh tử, Niết bàn v.v...là vì Phật phương tiện tạm đặt 
					ra những danh từ kêu gọi như thế, mục đích là để dẫn dắt 
					chúng sanh lìa các vọng niệm chấp trước, đặng nhập vào chơn 
					như hay trí Phật. Khi chúng sanh đã nhập vào chơn như hay 
					trí Phật rồi, lúc bấy giờ cũng không còn danh từ gì để kêu 
					gọi được.   
					
					Bài này nói về phần đối 
					trị các chấp sai lầm rồi, đến bài thứ 13, sẽ nói về hành 
					tướng phát tâm đến đạo. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					BA   
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH  
					C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO   
					BA MÓN PHÁT TÂM  
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					C. Phân biệt hành tướng 
					phát tâm đến đạo (bài thứ nhứt)   
					BA MÓN PHÁT TÂM 
					I. Tín hoàn toàn mà phát tâm 
					II. Hiểu biết và làm mà phát tâm 
					III. Chứng nhập chơn như mà phát tâm. 
					1. Nói về Tín hoàn toàn mà phát tâm 
					a. Ba món tâm trong vị Thập tín: 
					1. Trực tâm, 2. Thâm tâm, 3.Đại bi tâm 
					b. Bốn món phương tiện: 
					1. Phương tiện căn bản 
					2. Phương tiện ngăn ngừa các tội ác. 
					3. Phương tiện làm phát sanh các việc lành 
					4. Phương tiện Đại nguyện và Bình đẳng. 
					c. Tám tướng thành đạo: 
					1. Giáng sanh 2. Nhập thai 
					3. Ở trong thai 4. Sanh ra 
					5. Xuất gia 6. Thành đạo 
					7. Thuyết pháp 8. Nhập Niết bàn 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Chữ "Đạo" nói ở đây là 
					chỉ cho đạo quả của chư Phật đã chứng ngộ và cũng là cái chỗ 
					của tất cả các vị Bồ Tát phát tâm tu hành để hướng về. 
					 
					
					Sự phát tâm, lược có 3 
					món: 1. Tín hoàn toàn (Tín thành tựu) mà phát tâm, 2. Hiểu 
					và tu (giải, hạnh) mà phát tâm, 3. Chứng nhập chơn như mà 
					phát tâm. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Luận này có năm chương, 
					trong chương thứ ba, có ba phần: phần đầu giải thích về pháp 
					Đại thừa; phần thứ hai, Ngài Mã Minh đả thông những chấp sai 
					lầm. Sau khi được rữa sạch các chấp sai lầm rồi, hành giả 
					mới phát tâm tu về pháp Đại thừa. Vì thế nên tiếp đến phần 
					thứ ba, Ngài Mã Minh phân biệt hành tướng phát tâm tu về đạo 
					quả Đại thừa.   
					
					Đạo quả Đại thừa là nơi 
					chư Phật đã chứng, mà cũng là chỗ các vị Bồ Tát đang hướng 
					về đó. 
					
					Sự phát tâm tu về đạo 
					quả Đại thừa, lược chia có ba hạng, từ cạn đến sâu: 
					 
					
					1. Mãn địa vị Thập tín 
					(Tín hoàn toàn) phát tâm; 
					
					2. Địa vị Tam hiền 
					(Giải: Hiểu, Hành: tu) phát tâm; 
					
					3. Địa vị Thập thánh đã 
					chứng nhập chơn như phát tâm. 
					
					Chữ "Phát tâm" có hai 
					nghĩa: 1. Lập chí cao rộng, 2. Phát triển tâm tánh, hay phát 
					minh tâm tánh. 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					I. Tín hoàn toàn (thành 
					tựu) mà phát tâm 
					
					Hỏi:_ Phải là 
					người thế nào và nhờ tu hạnh gì để thành tựu vị Thập tín, 
					mới phát tâm được? 
					
					Đáp:_ Những 
					chúng sanh bất định (không nhất định chánh hay tà), nhờ sức 
					căn lành huân tập đời trước, làm cho họ tin nhơn quả, nên 
					nhàm khổ sanh tử, phát tâm tu thập thiện, để cầu đạo vô 
					thượng Bồ Tát. Nhờ được đích thân hầu hạ, cúng dường chư 
					Phật và tu hành trải qua muôn kiếp, nên họ mới đặng thành 
					tựu tím tâm. Do nhơn duyên đó nên được gặp Phật, Bồ Tát dạy 
					mà họ phát tâm; hoặc vì lòng Đại bi, mà họ tự phát tâm; hoặc 
					vì thấy chánh pháp sắp diệt mà muốn duy trì nên họ tự phát 
					tâm. 
					
					Những người như thế, 
					được vào hàng chánh định, trọn không thối chuyển. Vì họ đã 
					hiệp với "Chánh nhơn Phật tánh", nên họ được gọi là "giòng 
					giống của Như Lai".   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn này nói về Tín 
					thành tựu phát tâm._Từ Sơ tín cho đến Thập tín thì tín tâm 
					mới hoàn toàn viên mãn nên gọi là "Tín thành tựu". Do tín 
					tâm vững chắc, lập chí nguyện cầu quả Phật vô thượng và phát 
					minh tâm tánh, nên gọi là "Tín thành tựu phát tâm". 
					 
					
					Hỏi:_ Hạng người nào, 
					tu hạnh gì, mới đặng hoàn toàn viên mãn vị Thập tín, và làm 
					sao phát tâm? 
					
					Đáp:_ Những người bất 
					định chánh tà, hay căn trí chưa nghiêng ngã bên nào (Đại 
					thừa hay Tiểu thừa) nếu gặp Tiểu thừa giáo hoá thì họ thành 
					thinh văn, Duyên giác, nếu gặp Đại thừa giáo hoá thì họ 
					thành Bồ Tát hay Phật. Những người ấy, do nhiều đời có trồng 
					căn lành và bên trong nhờ tánh Phật của họ thúc dục, bên 
					ngoài nhờ chánh pháp huân vào, làm cho họ tin đạo lý nhơn 
					quả, rồi nhàm cảnh trần gian là bể khổ sanh tử, nên phát tâm 
					tu hành cầu đạo giải thoát Niết bàn. 
					 
					
					Phát tâm tu hành, phụng 
					sự chánh pháp, hầu hạ Thiện hữu tri thức và cúng dường chư 
					Phật, làm những việc như thế, trải qua một vạn kiếp, hành 
					giả mới viên mãn địa vị Thập tín. 
					 
					
					Khi tín tâm đã viên mãn 
					thành tựu rồi, hoặc găp Phật hay Bồ Tát dạy họ phát tâm hoặc 
					do lòng Đại bi thúc dục làm cho họ phát tâm, hoặc thấy chánh 
					pháp suy đồi, muốn duy trì chánh pháp nên họ phát tâm. 
					 
					
					Những người được viên 
					mãn vị Thập tín và phát tâm như thế, là đã hiệp với "Chánh 
					nhơn Phật tánh" vào hàng "Chánh định", không còn bất định 
					hay thối chuyển nữa, nên họ cũng được gọi là "giòng giống 
					của Như Lai".   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Có những chúng sanh, từ 
					hồi nào đến giờ, căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy 
					cũng gặp Phật cúng dường, song chỉ cầu phước báo cõi nhơn 
					thiên, hoặc tu theo Nhị thừa, hoặc họ có cầu pháp Đại thừa, 
					nhưng căn tánh chẳng quyết định, tấn thối không chừng; hoặc 
					họ cúng dường chư Phật, mà chưa đầy một vạn kiếp. Những hạng 
					người này cũng gặp nhơn duyên lành để phát tâm (như thấy sắc 
					tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư 
					tăng mà phát tâm, hoặc nhơn gặp hàng Nhị thừa dạy bảo mà họ 
					phát tâm, hoặc học với thầy bạn mà họ phát tâm). Nhưng các 
					loại phát tâm này, đều chẳng nhứt định, nếu gặp hoàn cảnh 
					xấu ngược, thì họ thối tâm, hoặc đoạ vào Nhị thừa. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Đoạn trên nói những 
					người tín tâm đã thành tựu, và phát tâm như vậy, thì được 
					vào hàng chánh định, quyết không thối chuyển, vì họ tu đã 
					được một vạn kiếp.   
					
					Đoạn này nói, những 
					người phát tâm sau đây, vì tu chưa đầy một vạn kiếp, tín tâm 
					chưa thành tựu, hoặc còn thối chuyển, nên chưa được vào hàng 
					Chánh định. Họ cũng gặp duyên lành để phát tâm, hoặc thấy 
					tướng hảo của Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chư 
					Tăng mà phát tâm, hoặc gặp Nhị thừa giáo hoá phát tâm 
					v.v...Nhưng vì căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy gặp 
					phật phát tu hành, song chỉ cầu phước báo thiên nhơn, hoặc 
					tu theo Nhị thừa, và nếu gặp Đại thừa thì tâm họ cũng không 
					quyết định, nên khi bị nghịch cảnh, họ thối tâm hoặc tu theo 
					Tiểu thừa tiêu cực.   
					
					a. BA MÓN TÂM TRONG VỊ 
					THẬP TÍN  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Tóm lại, khi tín tâm đã 
					thành tựu thì phát ba món tâm như sau: 
					 
					
					1. Trực tâm, nghĩa là 
					tâm trực niệm chơn như   
					 
					
					2. Thâm tâm, nghĩa là 
					tâm ưa làm các việc lành  
					 
					
					3. Đại bi tâm, nghĩa là 
					tâm muốn cứu khổ các chúng sanh. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Hành giả tu hành phải 
					trải qua một vạn kiếp mới được thành tựu tín tâm. Lúc bấy 
					giờ hành giả phát ra vô số tâm, nhưng tóm lại có ba thứ: 
					 
					
					1. Trực tâm, quán thẳng 
					Chơn như pháp tánh   
					
					2. Thâm tâm, nguyện làm 
					các việc lành   
					
					3. Đại bi tâm, thệ độ 
					tất cả chúng sanh.   
					
					Quán chơn như là căn 
					bản của hai hạnh: Tự lợi và lợi tha. Vì quán trong bản thể 
					chơn như có đủ vô lượng công đức, cho nên hành giả ưa tu các 
					pháp lành, để hiệp với tánh chơn như của mình. Hành giả tu 
					hành, khi nào thâm nhập đến chỗ không còn thấy tướng tu nữa, 
					gọi đó là "Thâm tâm".  
					 
					
					Vì quán mình và tất cả 
					chúng sanh đồng bản thể chơn như, nên chúng sanh đau khổ tức 
					là mình đau khổ, chúng sanh còn trần luân thì mình chưa được 
					giải thoát an vui nơi cảnh Niết bàn. Vì thế mà hành giả phát 
					tâm Đại bi cứu khổ tất cả chúng sanh. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Chơn như 
					đã là một thể, tại sao không bảo hành giả trực niệm chơn 
					như, mà lại còn tạm dùng các phương tiện, tu các pháp lành? 
					 
					
					Đáp:_ Thí như 
					ngọc ma ni thể chất tuy sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị 
					lẫn lộn trong khoáng nhơ bẩn. Nếu người chỉ nghĩ đến tánh 
					chất trong suốt của ngọc, mà không dùng các phương tiện giũa 
					mài v.v...thì quyết định không thể đặng chất ngọc ma ni 
					thuần tịnh.   
					
					Cũng thế, chúng sanh 
					tuy sẳn có chất chơn như thanh tịnh, song còn bị vô lượng 
					phiền não làm nhiễm ô. Nếu hành giả chỉ niệm chơn như, mà 
					không dùng phương tiện tu các pháp lành, thì cũng không thể 
					đặng chất chơn như thuần tịnh. 
					 
					
					Vì các phiền não nhiễm 
					ô vô lượng, nên hành giả phải tu vô lượng hạnh lành để đối 
					trị. Nếu hành giả tu các pháp lành, thì tự nhiên thuận về 
					với tánh chơn như của mình. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này giải đáp sự 
					thắc mắc của độc giả.  
					 
					
					Hỏi:_ Chúng sanh đã sẳn 
					có chất chơn như thanh tịnh, tại sao người tu hành không 
					niệm thẳng chơn như, mà lại còn dùng vô số phương tiện để 
					dẹp trừ phiền não nhiễm ô và tu các pháp lành làm gì? 
					 
					
					Đáp:_ Chúng sanh tuy 
					sẳn các chất chơn như thanh tịnh, song còn bị vô lượng phiền 
					não làm nhiễm ô; cũng như ngọc ma ni, tuy chất nó sáng suốt 
					trong sạch, nhưng còn bị lẫn lộn trong khoán nhơ bẩn. Nếu 
					hành giả trực chỉ quán chơn như, mà không dùng các phương 
					tiện để trừ phiền não và tu các pháp lành, thì chất chơn như 
					thuần tịnh không bao giờ thật hiện được. Cũng như người chỉ 
					nghĩ đến chất ngọc trong suốt, mà không dùng đến các phương 
					tiện như lọc khoáng, giũa mài v.v...thì quyết định cũng 
					không bao giờ thành ngọc mỹ quan được (ngọc bất trác, bất 
					thành khí).   
					
					Chúng sanh có vô lượng 
					bịnh phiền não, nên Phật cũng có vô lượng thuốc phương tiện 
					để trị. Nếu muốn hết các bịnh phiền não, trở thành người 
					lành mạnh (Bồ Đề, Niết bàn), tất nhiên hành giả phải uống 
					thuốc phương tiện của Phật. Người diệt trừ phiền não tu các 
					pháp lành là đi ngược dòng trần lao, thuận theo tánh chơn 
					như. Bởi thế nên hành giả phải phát minh ba tâm (Trực tâm, 
					Thâm tâm và Đại bi tâm) và thật hành bốn phương tiện sau 
					này.   
					
					b. BỐN MÓN PHƯƠNG TIỆN 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Các phương tiện lược có 
					bốn món:   
					
					1. Phương tiện căn 
					bản: Quán tất cả các pháp, tánh vốn vô sanh (không) để 
					lìa các vọng chấp, và nhờ thế mà không mắc vòng sanh tử; 
					quán các pháp do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp quả chẳng 
					mất (có) để khởi tâm đại bi, tu các hạnh lành, cảm hoá chúng 
					sanh, và nhờ thế nên không trụ Niết bàn. 
					 
					
					Tóm lại, vì tuỳ thuận 
					theo tánh vô trụ của chơn như, nên không dính mắc sanh tử và 
					không an trụ Niết bàn.  
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trong bốn phương tiện 
					tu hành để nhập chơn như, thì món phương tiện này là căn 
					bản.   
					
					Chúng sanh, vọng chấp 
					các pháp thật có, nên tạo ra các nghiệp; rồi bị nghiệp lực 
					kéo dẫn, phải chịu sanh tử luân hồi. Nay hành giả quán "các 
					pháp hư giả, không thật", nên không vọng chấp và không tạo 
					nghiệp; vì nghiệp không tạo, nên không bị sanh tử luân hồi. 
					 
					
					Song, nếu hành giả chỉ 
					một bề quán "Không" như thế, sợ e mắc vào bịnh "chấp không", 
					rồi chẳng cần tu hành và hoá độ chúng sanh; như hàng Thinh 
					văn chấp không, ưa vắng lặng (trầm không thú tịch) thích thú 
					cảnh vui Niết bàn của Tiểu thừa. 
					
					Bởi thế, hành giả phải 
					quán "do nhơn duyên hoà hiệp, nên các pháp chẳng phải không 
					và nghiệp quả chẳng mất", để khởi tâm Đại bi, tu các hạnh 
					lành giáo hoá chúng sanh. Nhờ quán như thế, nên hành giả 
					không còn "chấp không" và say mê cảnh Niết bàn của Tiểu thừa 
					nữa. 
					
					Vì không vướng mắc sanh 
					tử, nên về phần tư lợi hành giả được thành tựu. Và vì không 
					vướng mắc Niết bàn của Tiểu thừa, nên hành giả độ thoát tất 
					cả chúng sanh, hoàn thành hạnh lợi tha. 
					 
					
					Không mắc sanh tử, 
					không trụ Niết bàn là thuận theo đức tánh vô trụ của chơn 
					tâm; như thế gọi là "Trực tâm". Trực tâm là phương tiện căn 
					bản của các hạnh, tự giác và giác tha. Khế kinh chép: "Tâm 
					thắng (không mắc hai bên) là Đạo tàng" (trực tâm thị Đạo 
					tàng).   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					2. phương tiện ngăn 
					ngừa các việc ác: Biết xấu hổ, ăn năn, chừa lỗi, ngăn 
					ngừa tất cả điều ác không cho phát sanh và tăng trưởng. Hành 
					giả phải làm như thế để tuỳ thuận theo đức tánh thanh tịnh 
					của chơn như.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về phương 
					tiện thứ hai là "không làm việc ác". Người biết xấu xa hổ 
					thẹn thì không làm các điều tội lỗi; biết ăn năn hối hận 
					những tôi đã làm, thì tội lỗi ấy không tăng trưởng nữa. Bởi 
					thế nên "hổ thẹn" là yếu tố ngăn chận việc ác phát sanh; còn 
					"ăn năn hối hận" là yếu tố làm cho tội lỗi đã sanh, không 
					tăng trưởng nữa.   
					
					Đoạn văn trước nói 3 
					tâm: 1. Trực tâm, 2. Thâm tâm, 3. Đại bi tâm. Đoạn này nói 
					phương tiện thứ hai, thuộc về Thâm tâm, tức là ưa làm các 
					việc lành. Lành có hai thứ: 1. Bỏ dữ (chỉ thiện) gọi là 
					lành; 2. Làm lành (tác thiện) cũng gọi là lành. 
					 
					
					Món phương tiện thứ hai 
					này thuộc về loại "lành bỏ dữ"; món phương tiện thứ ba sau 
					này, thuộc về loại "lành làm lành". Hai loại lành này đều 
					thuộc về Thâm tâm cả.  
					 
					
					Tóm lại, vì tuỳ thuận 
					theo đức tánh thanh tịnh của Tâm chơn như, nên hành giả phải 
					xa lìa các tội lỗi.   
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					3. Phương tiện làm 
					cho phát sanh hoặc nuôi lớn căn lành: Siêng năng lễ bái 
					và cúng dường Tam bảo, tuỳ hỉ việc lành, tán thán công đức 
					và thỉnh Phật trụ thế chuyển pháp luân. Do tâm kính mên Tam 
					bảo rất thuần hậu, làm cho đức tin được thêm lớn nên hành 
					giả mới dốc chí cầu đạo vô thượng. Lại nhờ sức gia hộ của 
					Tam bảo, nên các nghiệp chướng được tiêu trừ và căn lành 
					không thối chuyển. Vì tuỳ thuận theo đức tánh "vô chướng 
					ngại" của chơn như, nên hành giả phải xa lìa các si mê 
					chướng ngại.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Phương tiện thứ ba này 
					là "làm các việc lành", tức là loại "lành tác thiện" (làm 
					lành). Loại lành này cũng nương nơi thâm tâm mà khởi. Hành 
					giả làm cho phát sanh những việc lành chưa sanh, và nuôi lớn 
					những việc lành đang có. Siêng năng tu hành và cúng dường 
					Tam bảo v.v...là trồng căn lành; còn kính mến Tam bảo 
					v.v...là nuôi lớn đức tin. Hành giả lại nhờ thần lực của Tam 
					bảo gia hộ, nên tiêu trừ được các nghiệp chướng và làm cho 
					đức tin được vững chắc. 
					
					Lễ bái thì xa lìa được 
					cái bịnh ngã mạn, tán thán thì xa lìa được cái bịnh huỷ 
					báng, tuỳ hỷ thì xa lìa được cái bịnh tật đố v.v... 
					 
					
					Tóm lại, vì tuỳ thuận 
					theo đức tánh sáng suốt vô ngại của Tâm chơn như, nên hành 
					giả phải xa lìa các si mê chướng ngại. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					4. Phương tiện đại 
					nguyện và bình đẳng: Hành giả vì tuỳ thuận tánh không 
					đoạn tuyệt của chơn như và bình đẳng không hai, chẳng phân 
					bỉ thử, rốt ráo vắng lặng, rộng lớn phổ biến của chơn như. 
					Nên hành giả phát đại nguyện, cùng tận đời vị lai, hoá độ 
					tất cả chúng sanh, đều được rốt ráo chứng vô dư Niết bàn, 
					không còn sót một chúng sanh nào. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Phương tiện thứ tư là 
					"cứu khổ các chúng sanh". Món phương tiện này do tâm đại bi 
					phát sanh.   
					
					Hành giả tuỳ thuận theo 
					các đức tánh: bất tuyệt, rộng lớn, bình đẳng, cứu cánh tịch 
					diệt của Tâm chơn như, nên lập lời thệ nguyện rộng lớn, hoá 
					độ hết thảy chúng sanh, đều được cứu cánh Niết bàn, không 
					hạn định thời gian và không bao giờ dừng nghỉ. 
					 
					
					Tóm lại, Bồ Tát tuỳ 
					thuận theo các đức tánh tốt của tâm chơn như mà tu các hạnh 
					lành, dẹp trừ các cấu nhiễm, để trở về Tâm chơn như. 
					 
					
					c. TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Bồ Tát nhờ phát tâm 
					này, nên được thấy Pháp thân một phần nào. Do thấy được Pháp 
					thân nên Bồ Tát tuỳ theo nguyện lực của mình, mà hiện ra tám 
					tướng sau đây, để làm lợi ích cho chúng sanh: 
					 
					
					1. Từ cung trời Đâu 
					suất giáng sanh   
					
					2. Nhập thai 3. Ở trong 
					thai   
					
					4. Sanh ra 5. Xuất gia 
					 
					
					6. Thành Đạo 7. Thuyết 
					pháp   
					
					8. Nhập Niết bàn 
					 
					
					Song các vị Bồ Tát này, 
					chưa chứng pháp thân, vì còn các nghiệp hữu lậu từ quá khứ 
					vô lượng kiếp đến nay, chưa có thể đoạn trừ được. Vị Bồ Tát 
					do sức đại nguyện tự tại mà thọ sanh; tuy không phải bị 
					nghiệp lực kéo dẫn, song vẫn còn khổ vi tế. Trong Khế kinh, 
					Phật nói: "Có vị Bồ Tát thối tâm bị đoạ vào ác thú". Nói như 
					vậy, là để cho những vị sơ tâm (chưa phải chính thức Bồ Tát) 
					còn giải đãi trên đường tu hành, lo sợ, mà phát tâm dõng 
					mãnh tiến tu, chứ không phải thật thối đoạ. 
					 
					
					Lại nữa, các vị Bồ Tát 
					này, từ khi phát tâm về sau, mặc dù nghe nói phải trải qua 
					vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp), siêng năng tu 
					hành khổ hạnh, mới chứng được Niết bàn; nhưng cũng không nhu 
					nhược và lo sợ đoạ vào Nhị thừa, vì họ đã hiểu chắc vả tin 
					rằng: Tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, tánh nó vốn là 
					Niết bàn.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Bồ Tát khi đã viên mãn 
					Thập tín, phát ba món tâm trên rồi (Trực tâm, Thâm tâm và 
					Đại bi tâm) thì vào Thập trụ, thấy được Pháp thân thanh 
					tịnh, nên có thể thị hiện tám tướng cao cả, để làm lợi ích 
					cho các chúng sanh, mà tâm không nhu nhược và sợ thối đoạ; 
					bởi vì các vị Bồ Tát này đã biết các pháp từ xưa đến nay vốn 
					là Niết bàn.   
					
					Các vị Bồ Tát Thập trụ 
					này, vì các nghiệp hữu lậu chưa hết, nên sanh ở đâu, cũng 
					còn khổ vi tế về "phần đoạn sanh tử". Nhưng sự thọ sanh cùa 
					các Ngài là do đại nguyện để hoá độ chúng sanh, chứ không 
					phải bị nghiệp lực kéo dẫn mà thọ sanh. 
					 
					
					Lại nữa, các vị Bồ Tát 
					này không bao giờ đoạ vào ác thú, thối thất Bồ Đề. Nhưng 
					trong kinh Bổn nghiệp Phật nói: "các vị Bồ Tát từ Thất trụ 
					về trước còn thối đoạ, nếu từ một kiếp đến mười kiếp không 
					gặp Thiện hữu tri thức". Phật nói như vậy là để khủng bố các 
					vị Sơ tâm Bồ Tát còn giãi đãi trong sự tu hành. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					BỐN   
					CHƯƠNG THỨ BA   
					PHẦN GIẢI THÍCH  
					C. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO (tiếp theo và hết)  
					
					MỤC LỤC   
					
					C. Phân biệt hành tướng 
					phát tâm đến Đạo (bài thứ 2)   
					Ba món phát tâm (tiếp theo và hết)   
					II. Nói về hiểu biết và làm mà phát tâm   
					Bồ Tát biết tâm mình (Phật tánh) không có Lục tệ nên tu pháp 
					lục độ.   
					Lục độ Lục tệ   
					1. Bố thí để trừ tham lam bỏn xẻn   
					2. Trì giới nhiễm ô   
					3. Nhẫn nhục Sân hận   
					4. Tinh tấn Giãi đãi   
					5. Thiền định Tán loạn   
					6. Trí huệ Si mê   
					III. Nói về chứng nhập chơn như mà phát tâm 
					Bồ Tát sau khi nhập chơn như, rồi khởi diệu dụng độ sanh, và 
					có 3 tướng vi tế: 
					1. "Chơn tâm" tức là Thật trí   
					2. "Phương tiện tâm" tức là Quyền trí   
					3. "Nghiệp thức tâm" tức là Dị thục thức 
					 
					  
					 
					
					II. NÓI VỀ HIỂU BIẾT VÀ 
					LÀM   
					(Hạnh, hướng) mà 
					phát tâm 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Phải biết, lối phát tâm 
					này (biết và làm) có phần thắng hơn lối phát tâm trước (Tín 
					phát tâm). Bồ Tát bắt đầu từ Chánh tín (Thập tín) đến đây 
					(Hạnh và Hướng), trải qua gầm mãn một vô số kiếp thứ nhứt, 
					nên đối với Chơn như, các vị này hiện đã hiểu ngộ rất thâm 
					thuý và sự tu hành không còn chấp tướng nữa. 
					 
					
					Bồ Tát biết tánh Phật 
					của mình (tâm minh) không có tham lam bỏn xẻn, nên tuỳ thuận 
					theo tánh Phật tu hạnh Bố thí Ba la mật (Bố thí rốt ráo). Bồ 
					Tát biết tánh Phật của mình không nhiễm ô, xa lìa các tội 
					lỗi ngũ dục, nên tuỳ thuận theo tánh Phật, tu pháp trì giới 
					Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không khổ não, xa 
					lìa các sân hận, nên thuận theo tánh Phật, tu pháp Nhẫn nhục 
					Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình không có tướng 
					thân tâm, xa lìa việc giải đãi, nên tuỳ thuận theo tánh 
					Phật, tu Tinh tấn Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật của mình 
					thường định, không có tan loạn, nên tuỳ thuận theo tánh 
					Phật, tu pháp Thiền định Ba la mật. Bồ Tát biết tánh Phật 
					của mình sáng suốt, không có vô minh, nên tuỳ thuận theo 
					tánh Phật, tu Trí huệ Ba la mật. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trong phần "Phân biệt 
					hành tướng phát tâm đến Đạo", có chia ra ba hạng: 
					 
					
					1. Tín phát tâm, tức là 
					viên mãn địa vị Thập tín mà phát tâm. 
					 
					
					2. Biết và làm phát 
					tâm, tức là ở địa vị Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng) mà phát 
					tâm.   
					
					3. Chứng nhập chơn như 
					phát tâm, tức là ở hàng Thập địa Bồ Tát mà phát tâm. 
					 
					
					Đoạn này nói về hàng 
					Tam hiền phát tâm.   
					
					Hành giả từ khi phát 
					tâm tu hành, cho đến mãn địa vị Tam hiền, đây là đợt thứ 
					nhất, phải trải qua một "vô số kiếp". Sau khi mãn Tam hiền 
					lên đến Thất địa, hành giả phải trải qua một "vô số kiếp" về 
					đợt thứ hai. Từ Bát địa trở lên quả vị Phật, hành giả phải 
					trải qua một "vô số kiếp" nữa, về đợt thứ ba. 
					 
					
					Hành giả phải trải qua 
					ba vô số kiếp như vậy, và trường kỳ kháng chiến với giặc 
					phiền não nội tâm, bao giờ hoàn toàn thắng trận mới được 
					thành Phật. Trong vô số kiếp thứ nhứt, hành giả bị bại trận 
					nhiều mà thắng ít. Đến vô số kiếp thứ hai, là giai đoạn 
					giằng co, hành giả năm ăn năm thua. Bước qua vô số kiếp thứ 
					ba thì hành giả thắng nhiều thua ít. 
					 
					
					Vì hạng thứ hai là 
					"Hiểu vá Làm mà phát tâm" trước. Từ địa vị Thập tín đến địa 
					vị Tam hiền, vì hành giả tu hành trải qua gần mãn một vô số 
					kiếp, nên ngộ được chơn tâm; nhưng chưa chứng nhập. Tuy 
					nhiên, về việc tu hành, hành giả đã cởi mở rất nhiều những 
					sự nặng nề về phần tu hữu hướng (chấp danh, trước tướng) và 
					bắt đầu về vô tướng, để nhập chơn tâm thanh tịnh. 
					 
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình từ bi, hỳ xả, không có tham lam bỏn xẻn, nên tu pháp bố 
					thí Ba la mật, để trừ tâm bỏn xẻn (tu tâm) và nuôi dưỡng 
					tánh từ bi hỷ xả (dưỡng tánh) để trở lại hiệp với chơn tâm 
					của mình. 
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình thanh tịnh, không có các nhiễm ô tội lỗi, nên tu pháp 
					trì giới Ba la mật, để trừ tâm nhiễm ô tội lỗi (tu tâm) và 
					nuôi dưỡng đức tánh thanh tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn 
					tâm của mình.   
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình không có sân hận, nên tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật, để 
					đối trị tâm sân hận (tu tâm) và nuôi lớn đức tánh vô sân 
					(dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm. 
					 
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình không phiền não giải đãi, nên tu pháp Tinh tấn Ba la 
					mật, để trừ tâm giải đãi (tu tâm) và nuôi dưỡng đức tánh 
					siêng năng (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm. 
					 
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình thường định, không tán loạn, nên tu pháp Thiền định Ba 
					la mật, để trừ tâm tán loạn (tu tâm) và nuôi dưỡng tánh tịch 
					tịnh (dưỡng tánh) để hợp với chơn tâm. 
					 
					
					Bồ Tát biết chơn tâm 
					mình sáng suốt, không có si mê, nên tu pháp Trí huệ Ba la 
					mật, để trừ tâm si mê (tu tâm) và nuôi dưỡng trí huệ (dưỡng 
					tánh) để hợp với chơn tâm của mình. 
					 
					
					Tóm lại, Bồ Tát biết 
					tâm mình không có các điều xấu tệ, như tham lam bỏn xẻn, phá 
					giới nhiễm ô, nóng nảy sân hận, biếng nhác trễ nãi, tán loạn 
					và si mê v.v...mà trái lại, có đủ các đức tánh tốt, như từ 
					bi, hỷ xả, thanh tịnh, không sân si, tinh tấn, thường định 
					và trí huệ v.v...nên tu pháp Lục độ, để diệt trừ Lục tệ, 
					nuôi lớn các đức tánh tốt ở nơi tâm mình. Khi các đức tánh 
					tốt (tánh Phật) được hoàn toàn viên mãn, thì Bồ Tát sẽ thành 
					Phật.   
					
					GIẢI DANH TỪ 
					 
					
					Chữ "Ba la mật", Tàu 
					dịch là "Đáo bỉ ngạn" nghĩa là đến bờ bên kia, tức là bờ 
					Giác. Song chữ "ba la mật" này cũng có nghĩa là "rốt ráo 
					cùng tận". Như nói "Bố thí ba la mật", nghĩa là bố thí đến 
					cùng tận. Chúng phàm phu khi bố thí, còn chấp Ta là người 
					năng thí (làm ơn). Kia là kẻ thọ thí (chịu ơn); vì còn dính 
					mắc nơi tướng, chấp có nhơn có ngã, nên bố thí mà không được 
					ba la mật. Trái lại, Bồ Tát khi bố thí, hợp với chơn tâm 
					thanh tịnh, không thấy có nhơn có ngã: ta đây là người làm 
					ơn (năng thí). Kia là kẻ thọ ơn (được thí). Nọ là vật bị 
					thí...Vì không dính mắc nơi tướng nên gọi là "Bố thí ba la 
					mật". Năm món "ba la mật" sau, ý nghĩa cũng như thế. 
					 
					
					III. Chứng nhập chơn 
					như mà phát tâm 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Bồ Tát từ Sơ địa cho 
					đến Đẳng giác, đã chứng được Chơn như, cũng gọi là Chứng 
					pháp thân.   
					
					Các vị Bồ Tát khi đã 
					chứng nhập Chơn như thì từ trên tâm Chơn như này, khởi ra 
					đại dụng: như trong nhứt niệm mà có thể đi hết cả mười 
					phương thế giới, cúng dường chư Phật, thỉnh Phật chuyển pháp 
					luân và mở đường dẫn dắt, làm lợi ích cho các chúng sanh, mà 
					không cần đến ngôn ngữ. Hoặc vì để độ những chúng sanh căn 
					tánh thấp kém, lo sợ phải trải qua nhiếu kiếp tu hành mới 
					thành đạo, nên Bồ Tát thị hiện mau thành quả Phật. Hoặc vì 
					để độ những chúng sanh biếng nhác trễ nãi, nên Bồ Tát nói: 
					"ta tu hành trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp mới được thành 
					Phật". Các vị Bồ Tát mặc dù thị hiện ra vô số phương tiện 
					như vậy, không thể nghĩ bàn được, song thật ra các vị này 
					trình độ như nhau, và đều trải qua vô số kiếp tu hành, không 
					có kẻ mau, người chậm, vị này hơn, vị kia kém. Các vị Bồ Tát 
					tuỳ theo mỗi quốc độ, và trình độ thấy nghe, căn tánh sai 
					khác, dục vọng không đồng của mỗi chúng sanh mà thị hiện ra 
					nhiều hạnh (Bồ Tát đa hạnh), phương tiện độ sanh không giống 
					nhau.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói "Chứng 
					nhập chơn như mà phát tâm", tức là Bồ Tát chứng được thể 
					chơn như, rồi phát ra đại dụng của chơn như. 
					 
					
					Các vị Bồ Tát từ Sơ đại 
					đến Đẳng giác, đã chứng được chơn như, cũng gọi là chứng 
					pháp thân thanh tịnh của Như Lai. Rồi từ nơi thể chơn như 
					này phát khởi ra diệu dụng không thể nghĩ bàn, như trong 
					nhứt niệm Bồ Tát có thể đi hết cả mười phương thế giới, cúng 
					dường chư Phật, hoặc thỉnh Phật chuyển pháp luân. Và cũng từ 
					nơi diệu dụng của chơn như, mà Bồ Tát giáo hoá làm lợi ích 
					cho chúng sanh, hoặc không dùng đến văn tự ngữ ngôn. 
					 
					
					Có vị Bồ Tát vì muốn 
					khuyến khích những chúng sanh thấp kém, lo sợ cho mình không 
					thể đeo đuổi trải qua nhiều kiếp trường kỳ tu tập, nên thị 
					hiện tu mau thành Phật, để cho chúng sanh ấy khỏi lo sợ; như 
					nàng Long nữ trong Pháp hoa, ngài Quảng ngạch trong kinh 
					Niết bàn, ông Thiện tài trong kinh Hoa nghiêm. 
					 
					
					Và có vị Bồ Tát, vì 
					những chúng sanh giải đãi bê tha sự tu hành, nên thị hiện 
					trải qua ba vô số kiếp tu hành, mới được thành Phật, để cho 
					chúng sanh ấy, thấy con đường còn dài, phải siêng năng tu 
					hành; như đức Thích Ca, trải qua ba vô số kiếp mới thành 
					đạo.   
					
					Bồ Tát, tuỳ theo mỗi 
					quốc độ khác nhau, trình độ thấy nghe của chúng sanh không 
					đồng, mà thị hiện ra rất nhiều phương tiện, không thể nghĩ 
					bàn. Bởi thế nên gọi "Bồ Tát đa hạnh". 
					 
					
					Nhưng sự thật, về trình 
					độ của các vị Bồ Tát thì đồng nhau, sự phát tâm, chỗ chứng 
					ngộ cũng đồng nhau, và đều trải qua ba vô số kiếp tu hành, 
					không có sự mau chậm hay hơn kém nhau. 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, Nhị thừa phát 
					tâm, có 3 tướng vi tế:  
					 
					
					1. Chơn tâm, tức là tâm 
					vô phân biệt (thật trí).  
					 
					
					2. Phương tiện tâm, tức 
					là tâm tự nhiên làm lợi ích cho các chúng sanh (quyền trí). 
					 
					
					3. Nghiệp thức tâm, tức 
					là tâm sanh diệt rất vi tế. 
					 
					
					Bồ Tát tu hành đến khi 
					công đức thành tựu viên nãn rồi thì hiện thân cao lớn (báo 
					thân) hơn các thế gian, ở trên cõi trời Sắc cứu cánh Bồ Tát 
					do nhứt niệm tương ưng (hiệp) với huệ, nên vô minh liền hết, 
					gọi là "được nhứt thế chủng trí". Lúc bấy giờ Bồ Tát tự 
					nhiên có diệu dụng không thể nghĩ bàn, hiện thân khắp mười 
					phương thế giới làm cho lơi ích cho tất cả chúng sanh. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Các vị Bồ Tát phát tâm 
					vừa nói trên, đều có 3 tướng vi tế như sau: 
					 
					
					1. Được thật trí, tức 
					là chơn tâm vô phân biệt. 
					
					2. Được quyền trí, tức 
					là Trí phương tiện phân biệt, để làm lợi ích cho các chúng 
					sanh. 
					
					3. Dị thục thức, tức là 
					nghiệp thức, sanh diệt rất vi tế. 
					 
					
					Bồ Tát tuy được quyền 
					trí và thật trí, nhưng chưa rốt ráo như Phật và vì còn Dị 
					thục thức (Kim Cang đạo hâu Dị thục không) nên còn bị biến 
					dịch sanh tử.   
					
					Bồ Tát tu hành, khi 
					công đức được thành tựu viên mãn, đến phút tối hậu, phá sach 
					vô minh vi tế, nhứt niệm hiệp với Bát Nhã huệ, thì được 
					"Nhứt thế chủng trí" gọi là "Chánh biến giác". Lúc bấy giờ 
					Bồ Tát hiện thân Tự thọ dụng (Báo thân) cao lớn ngàn trượng, 
					ở cõi Tự thọ dụng (tự thọ dụng độ), trên đảnh trời sắc giới, 
					chờ đến thời kỳ, sẽ đi bổ xứ làm Phật, như đức Di lặc hiện 
					nay ở cõi trời Đâu suất. Vị Bồ Tát này tự nhiên có diệu 
					dụng, thị hiện mười phương thế giới, làm lợi ích cho các 
					chúng sanh không thể nghĩ bàn. 
					 
					
					Tóm lại, từ khi phát 
					tâm tu hành, cầu quả Phật, đến khi được Nhứt thế chủng trí, 
					thành Chánh biến giác là rốt ráo sự phát tâm vậy. 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					Hỏi:_ Trong hư 
					không, vô biên, có vô tận thế giới, trong mỗi thế giới có vô 
					số chúng sanh; vì chúng sanh vô số, nên tâm niệm và hành vi 
					cũng khác nhau vô cùng; nếu Bồ Tát đoạn vô minh, không còn 
					tâm tưởng, thì lấy gì để biết tất cả pháp, mà gọi là "Nhứt 
					thế chủng trí"?   
					
					Đáp:_ Tất cả 
					cảnh giới vốn là chơn tâm thanh tịnh, không có gì khác. Song 
					vì chúng sanh không như chơn tâm thanh tịnh (xứng tánh) Lại 
					khởi ra các tưởng niệm phân biệt, vọng thấy có các cảnh giới 
					sai khác, nên không thể biết được cảnh giới vô tướng thanh 
					tịnh (chơn tâm) biến khắp tất cả, của chư Phật. 
					 
					
					Chơn tâm này đã là bản 
					thể hiện ra tất cả pháp và Bồ Tát vì đã chứng được bản thể 
					của tất cả pháp, tất nhiên biết được tất cả pháp, nên gọi là 
					"Nhứt thế chủng trí". Nhờ "Nhứt thế chủng trí" này, mà Bồ 
					Tát tuỳ thuận thep trình độ của các chúng sanh, lập ra các 
					pháp phương tiện, giáo hoá vô số chúng sanh. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này ngài Bồ Tát Mã 
					Minh, lập lời vấn đáp, để giải thích những điều thắc mắc của 
					độc giả.   
					
					Thấy đoạn trên nói: Do 
					Bồ Tát trong nhứt niệm tương ưng với Huệ, nên vô minh liền 
					hết, gọi là được "Nhứt thế chủng trí", nên độc giả thắc mắc: 
					Do vô minh mà có tâm tưởng, nhờ tâm tưởng nên mới biết được 
					các sự vật. Nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, thì lấy 
					cái gì để biết tất cả sự vật, mà gọi là "được Nhứt thế chủng 
					trí"?   
					
					Bồ Tát giải đáp, đại ý: 
					Tất cả các pháp nguyên là chơn tâm (đó là định lý của Đại 
					thừa). Nếu còn vô minh và tâm tưởng phân biệt, thì cố nhiên 
					phải có năng sở bỉ thử, nên sự phân biệt bị cuộc hạn, tuy 
					biết mà biết không cùng khắp, cái biết ấy chỉ là tưởng niệm 
					mà thôi. Trái lại, nếu vô minh hết, tâm tưởng không còn, tức 
					là hiệp với chơn tâm, mà chơn tâm là bản thể của các pháp, 
					biến khắp tất cả các pháp; cũng như trời đất non sông, mà bể 
					cả đều bao hàm hết thảy. Bởi thế nên hành giả trừ vô minh, 
					diệt hết loạn tưởng chứng nhập chơn tâm, thì mới biết được 
					các pháp một cách rốt ráo, gọi là được "Nhứt thế trí". 
					 
					
					Từ chơn tâm này phát ra 
					đại trí dụng, biết rõ tất cả pháp, tuỳ theo căn cơ của vô số 
					chúng sanh, dùng vô số phương tiện để dẫn dắt chúng sanh, 
					gọi đó là được "Nhứt thế chủng trí". Chứng được Nhứt thế trí 
					và Nhứt thế chủng trí, gọi là phát minh rốt ráo tâm đại 
					thừa, tức là thành Phật.  
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Hỏi:_ Chư Phật 
					đã nghiệp dụng tự nhiên thị hiện khắp tất cả chỗ, làm lợi 
					ích cho các chúng sanh. Nếu chúng sanh nào thấy được thân 
					Phật, hoặc nghe thuyết pháp, hoặc thấy thần thông biến hoá 
					của Phật, thì đều được lợi ích; tại sao trong thế gian còn 
					có nhiều người không thấy được Phật? 
					 
					
					Đáp:_ Pháp thân 
					của chư Phật bình đẳng và khắp tất cả chỗ, tự nhiên làm lợi 
					ích cho các chúng sanh, không dụng tâm hay cố ý. Song cũng 
					tuỳ theo tâm của chúng sanh mà tự thấy có hiện hay không. 
					Tâm chúng sanh như cái gương, nếu gương bị bụi đóng, thì 
					cảnh vật không hiện; còn tâm chúng sanh bị cấu nhiễm thì 
					Pháp thân không hiện.  
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tiếp theo đoạn vấn đáp 
					trên, nghe nói:   
					
					"Phật có thần thông 
					diệu dụng không thể nghĩ bàn, bình đẳng làm lợi ích cho tất 
					cả chúng sanh, mà không dụng công hay cố ý": nên độc giả 
					nghi: Nếu như thế, tại sao có chúng sanh được tế độ, có 
					chúng sanh không được tế độ. 
					 
					
					Bồ Tát giải thích, đại 
					ý: Phật tuy có Nhứt thế chủng trí và đủ các phương tiện, 
					thần thông diệu dụng, bình đẳng và tự nhiên làm lợi ích cho 
					tất cả chúng sanh, không dụng công hay cố ý, không phân biệt 
					chủng loại nào. Nhưng chúng sanh có tiếp nhận được hay không 
					là do tâm của họ có thanh tịnh hay không. Như cái gương tuy 
					sáng mà bị bụi bám vào, dù cảnh vật tuy sẳn có, cũng không 
					thể hiện gì ra được. Cũng thế, chúng sanh tâm tánh còn cấu 
					nhiễm, thì chư Phật tuy có diệu dụng không thể nghĩ bàn, 
					bình đẳng phổ độ, song họ cũng không thể thấy được Phật. Tuy 
					không thấy Phật tế độ, nhưng Phật vẫn âm thầm gia hộ. Ví như 
					kẻ mù sống dưới mặt trời, tuy họ không thấy được ánh sáng, 
					nhưng mặt trời vẫn chiếu đến, và họ vẫn nhờ ánh sáng mà 
					sống.   
					
					(HẾT PHẦN GIẢI THÍCH) 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					LĂM 
					 
					CHƯƠNG THỨ 
					TƯ   
					
					PHẦM TÍN TÂM, 
					TU HÀNH   
					
					MỤC LỤC   
					
					Chương thứ tư: TÍN TÂM 
					TU HÀNH 
					(2 bài, bài này thứ nhất) 
					A. Bốn món Tín tâm 
					1. Tín căn bản (tin tánh Phật của mình) 
					2. Tín Phật 
					3. Tín Pháp 
					4. Tín Tăng 
					B. Năm món Tu hành (Lục độ): 
					Bố thí 
					Trì giới 
					Nhẫn nhục  
					Tinh tấn   
					5. Chỉ, quán (Định, Huệ)  
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Chương này là căn cứ 
					vào nhóm chúng sanh chưa vào chánh định mà nói về việc tín 
					tâm tu hành._ Về tín tâm thì ước lược có bốn món, còn tu 
					hành lại có năm món. 
					
					A. NÓI VỀ BỐN MÓN TÍN 
					TÂM 
					 
					
					1. Tin căn bản, tức là 
					ưa nghĩ nhớ pháp chơn như. 
					 
					
					2. Tin Phật có vô lượng 
					công đức; hành giả thường phải nghĩ tưởng, gần gũi, cung 
					kính và cúng dường chư Phật, để pháp khởi căn lành và nguyện 
					cầu đặng "Nhứt thế trí".  
					 
					
					3. Tin Pháp của Phật có 
					lợi ích lớn; hành giả phải thường nhớ tu hành các pháp Ba la 
					mật.   
					
					4. Tin Tăng là người 
					chơn chánh tu hành, tự lợi lợi tha, và hành giả thường ưa 
					thân cận các vị Bồ Tát để cầu học cái hạnh chơn thật. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Luận này có năm chương, 
					ba chương đầu là phần lý thuyết, chương thứ tư nói về thật 
					hành, tức là việc khởi tín tâm tu hành, nên chương này rất 
					cần thiết cho hành giả.  
					 
					
					Vậy người nào mới có 
					thể khởi tín tâm tu hành?_ Bồ Tát Mã Minh nói: "Phải chúng 
					sanh chưa vào chánh định, mới có thể khởi tín tâm tu hành". 
					Tại sao thế?_ Vì những người tà định (ngoại đạo) không thể 
					khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa; còn những người đã vào 
					chánh định rồi, thì không cần phải nói nữa; duy có người bất 
					định (không nhứt định Đại thừa hay Tiểu thừa) chưa vào chánh 
					định, mới có thể khởi tín tâm tu hành theo Đại thừa được. 
					 
					
					Vậy hành giả phải tin 
					cái gì?_ Có bốn món: Trước nhứt hành giả phải tự tin nơi bản 
					tánh chơn như của mình, tức là tin mình sẳn có tánh Phật 
					(khả năng thành phật), cũng gọi là tin tâm Đại thừa. Tin như 
					thế nào?_ Phải luôn luôn tin tưởng và nghĩ nhớ tâm chơn như 
					của mình, Thể nó lớn, Tín nó to, Dụng nó đại. Đó là điều tin 
					căn bản, còn ba điều tin sau này, cũng do tin căn bản mà ra, 
					tức là tin tam bảo_Tin Phật là người đã chứng được chơn như; 
					tin Pháp là phương pháp để thực hiện chơn như; tin Tăng là 
					người đang thật hành theo chơn như. 
					 
					
					Hành giả tin Phật để 
					cầu được nhứt thế trí; tin Pháp để tu hành theo các pháp Ba 
					la mật; tin Tăng để học theo hạnh chơn thật. 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					B. NÓI VỀ NĂM MÔN TU 
					HÀNH 
					 
					
					1, Bố thí 
					 
					
					2. Trì giới 
					 
					
					3. Nhẫn nhục 
					 
					
					4. Tinh tấn 
					 
					
					5, Chỉ, quán (Định, 
					Huệ)   
					
					Thế nào là tu Bố thí?_ 
					Nếu thấy có người đến xin, hành giả có những tài vật gì tuỳ 
					theo sức mình, đem bố thí cho người, thì sẽ được hai điều 
					lợi ích: tự mình bỏ được lòng tham lam bỏn xẻn, và người thọ 
					thí được vui mừng._ Nếu thấy người bị tai nạn, sợ hãi lo 
					buồn, hành giả tận khả năng của mình cứu giúp, làm cho họ 
					hết lo sợ; gọi là thí vô uý (bố thí cái không sợ)._ Nếu có 
					người đến cầu nghe Phật pháp, hành giả tuỳ theo sự hiểu biết 
					của mình, phương tiện thuyết pháp; thuyết pháp với tâm niệm 
					tốt đẹp là nghĩ vì tự lợi lợi tha và hồi hướng về đạo Bồ Đề, 
					không vì danh lợi hoặc cầu người cung kính. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Về việc tu hành, hành 
					giả chỉ tu pháp Lục độ thì những hạnh tự lợi và lợi tha đều 
					được đầy đủ.   
					
					Bố thí có ba thứ; thí 
					tài, thí pháp và thí không sợ. 
					 
					
					1. Thí tài, tức là thí 
					của, có hai thứ của: a) Đem tiền bạc của cải của mình giúp 
					cho người, gọi là thí ngoại tài (của ngoài thân); b) Hy sinh 
					thân mạng để cứu người, như cho máu những người thiếu máu 
					v.v...gọi là thí nội tài (của trong thân). Thí ngoại tài thì 
					hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về tiền của. Thí nội tài 
					thì hành giả sẽ bớt được tâm chấp ngã và tự ái. 
					 
					
					2. Thí pháp, tức là thí 
					phương pháp, có hai phần: a) Chỉ dạy cho người những phương 
					pháp (nghề nghiệp) chơn chánh để tự nuôi sống, gọi là thí về 
					pháp thế gian; b) Dạy người những phương pháp tu hành để 
					giải thoát sanh tử luân hồi, gọi là thí về pháp xuất thế 
					gian. Thí pháp, hành giả sẽ trừ được tâm bỏn xẻn về pháp. 
					 
					
					3. Thí không sợ, tức là 
					thí cái không lo sợ, cũng có hai phần: a) về phần tiêu cực, 
					mình không làm cho người lo sợ, gọi là thí không sợ, b) Về 
					phần tic cực, thấy người bị hoạn nạn, đang lo sợ, mình tận 
					lực cứu giúp, làm cho người hết lo sợ, cũng gọi là thí không 
					sợ. Bố thí không sợ, hành giả sẽ nuôi lớn được lòng từ bi. 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Thế nào là tu Trì 
					giới?_ Không sát sanh, trộm cắp, dâm dục, không nói lời dâm 
					thọc, nói lời độc ác, không nói dối, nói thêu dệt, không 
					tham sân si, tật đố, dua nịnh, dối trá và tà kiến. Nếu là 
					người xuất gia thì, vì còn dẹp trừ phiền não, nên phải xa 
					lánh chỗ ồn ào, thường ở chỗ thanh vắng, tu hạnh thiểu dục 
					tri túc, hoặc tu hạnh đầu đà v.v...Cho đến một lỗi nhỏ, hành 
					giả cũng phải sanh tâm hổ thẹn, ăn năn sám hối và kiêng sợ; 
					không dám khinh giới luật của Phật. Hành giả phải giữ gìn, 
					đừng để cho người chê bai khinh hiềm, tại mình mà họ tạo tội 
					lỗi.   
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Giới luật của Phật chế 
					ra, tổng quát có ba phần, gọi là "Tam tu tịnh giới" (ba phần 
					giới thanh tịnh):   
					
					1. Bỏ các điều tội lỗi, 
					gọi là "Nhiếp luật nghi giới"; 
					 
					
					2. Làm các việc lành, 
					gọi là "Nhiếp thiện pháp giới"; 
					 
					
					3. Làm lợi ích chúng 
					sanh, gọi là "Nhiêu ích hữu tình giới". 
					 
					
					Hành giả tu theo Đại 
					thừa, một mặt là phải giữ ba phần giới này cho thanh tịnh; 
					một mặt nữa là đừng làm những điều sái quấy, để cho thế gian 
					đàm tiếu, mà họ mang lấy tội lỗi. 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Thế nào là tu Nhẫn 
					nhục?_ Nhẫn chịu những điều người ta làm cho mình khổ não 
					trong tâm hành giả cũng không nghĩ tưởng đến việc trả thù; 
					và nhẫn chịu tám hướng gió của trần gian thổi đến: 1. Thạnh 
					lợi, 2. Suy bại, 3. Huỷ báng, 4. Danh dự, 5. Khen, 6. Chê, 
					7. Khổ, 8. Vui.   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tất cả những hoàn cảnh, 
					làm cho hành giả tạo các tội lỗi, không ngoài tám điều, gọi 
					là "Bát phong" (tám ngọn gió); nhưng tóm lại thì có hai 
					cảnh: thuận và nghịch.  
					 
					
					Tài lợi, danh vọng, 
					khen ngợi và vui là bốn ngọn gió thuận cảnh, nó thổi vào 
					biển tâm của hành giả, làm cho nổi lên vô lượng sóng tham 
					lam._ Suy bại, huỷ báng (công kích lỗi người) chê bai (nói 
					xấu) và khổ là bốn ngọn gió nghịch cảnh, nó thổi vào biển 
					tâm của hành giả, làm cho nổi lên không biết bao nhiêu sóng 
					sân hận. 
					
					Hành giả khi gặp các 
					thứ gió, dù thuận hay nghịch, cũng đều phải giữ gìn biển tâm 
					mình cho yên lặng, đừng để các sóng phiền não như tham lam 
					hay sân si v.v...nổi lên. Như thế gọi là tu pháp Nhẫn nhục 
					Ba la mật.   
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Thế nào lá tu Tinh 
					tấn?_ Lập chí kiên nhẫn, tu các việc lành, tâm không trễ nãi 
					và không khiếp nhược. Hành giả phải thường nhớ rằng, từ quá 
					khứ nhiều kiếp lâu xa đến nay đã thọ không biết bao nhiêu 
					thân tâm hư giả và chịu không biết bao nỗi khổ lớn lao, đều 
					không có lợi ích gì cả. Bởi thế nên đời nay, ta siêng năng 
					tu các công đức, làm những việc tự lợi lợi tha, để mau xa 
					lìa các khổ. 
					
					Lại nữa, nếu người tín 
					tâm tu hành mà bị các nghiệp chướng đời trước làm chướng 
					ngại, hoặc bị các tà ma ác quỉ nhiễu hại, hay bị việc đời 
					ràng buộc, hoặc bị bịnh khổ làm não bức v.v...thì hành giả 
					phải tinh tấn dõng mãnh, ngày đêm sáu thời lễ Phật tụng 
					kinh, thành tâm sám hối, thường hành không bỏ phế; khuyên 
					thỉnh Phật trụ thế và tuỳ hỷ các việc công đức, để hồi hướng 
					về đạo quả Bồ Đề. Phải làn như thế, hành giả mới khỏi các 
					điều chướng ngại và căn lành tăng trưởng. 
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Tinh tấn là một yếu tố 
					để thành công trên đường đời cũng như trên đường Đạo. Người 
					tu hành nếu thiếu tinh tấn thì không bao giờ thành đạo chứng 
					quả được. Tinh là tinh chuyên một việc; Tấn là tiến tới 
					không dừng. 
					
					Hành giả lập chí dõng 
					mãnh, chuyên tu các pháp lành, tâm không khiếp nhược, phải 
					thường nhớ rằng: Từ vô lượng kiếp đến nay ta thọ biết bao 
					nhiêu thân, chịu biết bao nhiêu khổ, nhưng không làm được 
					điều lợi ích gì cả ! Vậy đời này ta phải tu các công đức, để 
					xa lìa các tội khổ. Nếu người bị nghiệp chướng đời trước 
					nặng nề, hoặc tà ma ác quỉ nhiễu loạn, hay việc đời ràng 
					buộc, bịnh hoạn làm khổ não, v.v...khó hành đạo được, hành 
					giả phải ngày đêm 6 thời, tụng kinh sám hối, không nên bê 
					trễ, thì các chướng ngại sẽ hết và căn lành tăng trưởng. 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Thế nào là tu Chỉ, 
					Quán?_ "Chỉ" nghĩa là đình chỉ tất cả các vọng tưởng (định), 
					để tuỳ thuận theo quán không (xa ma tha); "Quán" nghĩa là 
					quán sát các tướng nhơn duyên sanh diệt (huệ) để tuỳ thuận 
					theo quán giả (tỳ bác xa na). 
					
					Sao gọi là tuỳ thuận?_ 
					Do hành giả từ từ tu tập, một lần cả Chỉ và Quán, đều không 
					rời nhau, nên gọi là tuỳ thuận. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Tu Chỉ, Quán tức là tu 
					Thiền định và trí huệ. "Chỉ" là đình chỉ các vọng tưởng, tức 
					là Định; "Quán" là quán sát để thấu rõ chơn lý của các pháp, 
					tức là Huệ. Tu Chỉ, Quán sẽ được Định, Huệ; vì Chỉ, Quán là 
					Nhơn, mà Định, Huệ là Quả.
					 
					
					Trong Lục độ, chia 
					riêng ra Thiền định và Trí huệ, là muốn cho hành giả thấy rõ 
					hành tướng, công dụng và kết quả của hai pháp môn khác nhau. 
					Trong Luận này về chương "Tín tâm tu hành", Bồ Tát Mã Minh 
					cũng dạy tu Lục độ, nhưng hai độ sau lại chung làm một và 
					không gọi tu Định, Huệ mà lại gọi là tu Chỉ, Quán?_ Vì Bồ 
					Tát muốn cho hành giả phải hiểu rằng: Về phần tu nhơn thì 
					hai pháp này rất liên quan với nhau; nghĩa là hành giả phải 
					đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Trong Chỉ có Quán, trong Quán 
					có Chỉ. 
					
					Thế nào là trong Chỉ có 
					quán?_ Nghĩa là muốn ngăn ngừa đình chỉ không cho các vọng 
					tưởng nổi lên, thì hành giả phải quán sát các pháp là không; 
					bởi các pháp là không, nên hành giả chẳng chấp có, và không 
					khởi tâm tham sân v.v...  
					 
					
					Thế nào là trong Quán 
					có Chỉ?_ Nghĩa là hành giả quán sát các pháp đều do nhơn 
					duyên hoà hiệp, sanh không phải thật sanh, mà diệt cũng 
					không phải thật diệt. Vì các pháp do nhơn duyên hoà hiệp giả 
					có, nên hành giả chẳng chấp không, và chẳng sanh các phiền 
					não.   
					
					NÓI VỀ TU CHỉ (ĐỊNH) 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nếu tu "Chỉ" (định) 
					hành giả phải ở chỗ thanh vắng, ngồi ngay thẳng, tâm chơn 
					chánh, chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc và hư 
					không, chẳng nương đất, nước, gió, lữa; chẳng nương thấy, 
					nghe, hay biết, cho đến các tưởng niệm đều diệt trừ, rồi 
					hành giả dẹp luôn cái "tâm niệm" trừ tưởng niệm nữa. 
					
					Do tất cả các pháp từ 
					hồi nào đến giờ, mỗi niệm không sanh, mỗi niệm không diệt, 
					nên hành giả phải không các tưởng niệm và cũng không tưởng 
					cảnh giới ngoài tâm, rốt sau rồi lấy tâm trừ tâm. Nếu tâm 
					vọng tưởng rong ruỗi, thì hành giả phải liền đem trở lại 
					chánh niệm._ Phải biết "Chánh niệm" đây, tức là "Duy tâm", 
					không có ngoại cảnh. Và cái tâm này cũng không hình tướng gì 
					có thể tưởng niệm được. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Hành giả tu Định (Chỉ), 
					phải ở chỗ thanh vắng, tránh xa nơi ồn ào náo nhiệt; thân 
					ngồi ngay thẳng, không ngước không cúi; tâm phải chơn chánh, 
					tỉnh táo sáng suốt và tịch tịnh, không phù không trầm; phải 
					thoát ly thân, nghĩa là không nương hơi thở (không sổ tức); 
					không nương hình sắc; phải thoát ly thế giới, không nương hư 
					không, tứ đại; và phải thoát ly tâm, không nương thấy nghe 
					hay biết. 
					
					Hành giả phải trừ hết 
					các tưởng niệm rồi cái tâm niệm trừ các tưởng đó cũng dứt 
					luôn; phải biết các pháp từ hồi nào đến giờ, chỉ là nhứt tâm 
					(Duy tâm), không sanh không diệt, không có cảnh giới ngoài 
					tâm. Bởi thế nên tâm vừa vọng động rong rủi theo trần cảnh, 
					thì hành giả phải thâu lại đem về chánh niệm tức là nhứt 
					tâm, gọi là "dùng nhứt tâm diệt các vọng tưởng"; rốt sau cái 
					"tâm" này (nhứt tâm) cũng không còn, gọi là "dùng tâm trừ 
					tâm".   
					
					Các vị Cổ đức dạy rằng: 
					"Người tham thiền, trong phải thoát ly thân tâm, ngoài xa 
					lìa cảnh giới; nghĩa là phải rời tâm, ý, thức mà tham cứu, 
					phải ra khỏi con đường thánh phàm mà tu học, phải viễn ly 
					các cảnh giới vọng tưởng mà cầu đạo". Tóm lại, là phải phóng 
					xả tất cả.   
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Lại nữa, trong tất cả 
					thì giờ, khi đi đứng nằm ngồi, tới lui qua lại, làm tất cả 
					việc, hành giả phải thường nhớ phương tiện (phương tiện tuỳ 
					duyên chỉ), nghĩa là tuỳ thuận quán sát. Hành giả tu tập như 
					vậy lâu ngày thuần thục, thì tâm được an trụ; do tâm an trụ 
					lần lần mạnh mẽ, nên dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, 
					đặng tuỳ thuận vào chơn như tam muội, mau thành vị Bất thối. 
					Chỉ trừ những người nghiệp chướng sâu dày, nghi ngờ bài báng 
					không tin, hoặc ngã mạn biếng nhát, thì không thể nhập Chơn 
					như tam muội được. 
					
					Và hành giả nhờ nương 
					pháp Chơn như tam muội này mà biết được pháp giới duy nhứt; 
					nghĩa là nhận rõ Pháp thân của chư Phật và thân chúng sanh 
					bình đẳng không hai, nên cũng gọi là Nhứt hạnh tam muội. 
					
					Phải biết Chơn như là 
					căn bản của các pháp tam muội; nếu hành giả tu pháp tam muội 
					này, thì lần lần sẽ được vô lượng pháp tam muội. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Đoạn này nói về "Phương 
					tiện tuỳ duyên Chỉ"; nghĩa là tu Thiền định không những 
					thường ngổi, mà còn phải phương tiện tuỳ duyên tu tập, không 
					cho gián đoạn. Khi đi đứng nằm ngồi làm các việc, hành giả 
					cũng phải luôn luôn quán sát tu tập; như thế lâu ngày tâm 
					được an trụ, nhơn đó định lực lần lần mạnh mẽ nên tín tâm 
					tăng tấn, dẹp sâu phiền não, được tuỳ thuận vào Chơn như tam 
					muội, thành bực Bất thối. Chỉ trừ những người huỷ báng không 
					tin, thì không được vào Chơn như tam muội. 
					
					Hành giả được Chơn như 
					tam muội rồi, thì biết pháp giới là một, chúng sanh và chư 
					Phật bình đẳng không hai, mê ngộ đồng một tánh, nên cũng gọi 
					là Nhứt hạnh tam muội (Tam muội đồng nhứt thể). 
					
					Chơn như tam muội là 
					căn bản của các pháp tam muội, nên người ngộ được Chơn như 
					tam muội rồi thì sẽ được các pháp tam muội khác. 
					
					Chữ "Tam muội", Tàu 
					dịch là Chánh định hay Chánh thọ; Nghĩa là tu Định đã đến 
					lúc thuần thục hay đúng mức. 
					
					(Đã nói tu thiền định 
					rồi, tiếp sau đây sẽ nói các việc ma) 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					 
					BÀI THỨ MƯỜI 
					SÁU   
					CHƯƠNG THỨ TƯ   
					PHẦN TÍN TÂM TU HÀNH   
					(tiếp theo và hết) 
					
					MỤC LỤC 
					 
					
					Chương thứ tư: TÍN TÂM 
					TU HÀNH (Tiếp theo và hết)   
					C. Các thứ ma chướng khi tu thiền:   
					1. Ma hiện Phật, Bồ Tát v.v...   
					2. Ma nói pháp Lục độ và ba môn giải thoát v.v... 
					 
					3. Ma làm cho hành giả mất tánh thường hoặc điên v.v... 
					Đối trị các ma: 
					1. Quán duy tâm 
					2. Không móng tâm chấp trước. 
					D. Mười điều lợi ích tu thiền 
					E. Bảy pháp quán 
					G. Chỉ và quán đồng thời tu 
					H. Lợi ích chỉ quán 
					I. Pháp môn niệm Phật 
					Chương thứ năm: Nói về LỢI ÍCH và KHUYẾN TU 
					Học và tu theo Luận này sẽ được lơi ích vô cùng 
					Khuyên hành giả tu theo Luận Đại thừa này 
					Hồi hướng 
					HẾT 
   
					
					C. NÓI VỀ CÁC THỨ MA 
					CHƯỚNG TRONG KHI TU THIỀN 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nếu chúng sanh nào căn 
					lành mỏng ít, bị các tà ma ngoại đạo, hoặc quỷ thần làm não 
					loạn, trong khi hành giả tham thiền, chúng hiện các hình 
					tướng ghê sợ, hoặc hiện kẻ trai người gái xinh đẹp v.v...thì 
					phải quán Duy tâm, lúc bấy giờ các ma này tiêu diệt, không 
					còn làm gì nữa được.  
					 
					
					Hoặc chúng hiện hình 
					chư Thiên, Bồ Tát, Phật, cũng đủ các tướng tốt; hoặc nói 
					thần chú, nói pháp bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, 
					thiền định, trí huệ; hoặc nói pháp bình đẳng, không, vô 
					tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhơn, không 
					quả, rốt ráo trống không vắng lặng, gọi đó là Niết bàn. Hoặc 
					chúng làm cho hành giả biết được đời trước của mình (túc 
					mạng thông) hoặc biết những việc quá khứ vị lai, biết đặng 
					tâm người (tha tâm thông) biện tài vô ngại. Chúng làm cho 
					hành giả tham luyến danh lợi ở thế gian v.v...Hoặc ma làm 
					cho hành giả tánh không chừng đỗi, hay giận, hay cười, ưa 
					ngủ, nhiều bịnh, hoặc nhiều thương xót, tâm hay giải đãi; 
					hoặc có khi rất tinh tấn, có lúc lại bê tha hoặc sinh tâm 
					nghi ngờ không tin, và nhiều lo nghĩ; hoặc bỏ pháp tu căn 
					bản, trở lại tu các tạp hạnh; hoặc đắm nhiễm các việc triền 
					phược ở thế gian; hoặc làm cho hành giả đặng chút ít phần 
					tương tợ như các pháp tam muội, song đó là cảnh bị chứng của 
					ngoại đạo, không phải thật tam muội; hoặc làm cho hành giả ở 
					trong Định, từ một ngày hoặc đến bảy ngày, tự nhiện đặng món 
					ăn thơm ngon, thân tâm vui thích, không biết đói khát; khiến 
					cho hành giả rất ưa thích. Hoặc làm cho hành giả ăn không 
					chừng đỗi, khi nhiều khi ít, sắc mặt biến đổi luôn. Khi gặp 
					những cảnh như vậy, hành giả phải thường dùng trí huệ quán 
					sát, siêng năng giữ gìn Chánh niệm, không nên chấp thủ, chớ 
					để cho tâm mình đoạ vào lưới tà. Phải như thế hành giả mới 
					xa lìa được các ma chướng. 
					
					LƯỢC GIẢI 
					
					Người tu thiền định, 
					khi phá trừ ngũ ấm, sẽ bị trên năm chục món ma, biến hiện đủ 
					cách để thử thách và não hại người tu Thiền. 
					
					Khi gặp các cảnh ma ấy, 
					hành giả phải dụng tâm như thế nào, và dùng những phương 
					pháp gì để diệt trừ, thì trong kinh Lăng nghiêm Phật đã dạy 
					rất rõ ràng và kỹ lưỡng, (quí vị nên đọc đoạn Ngũ ấm ma 
					trong quyển Đại cương Lăng nghiêm). 
					 
					
					Trong Luận này, Ngài Mã 
					Minh Bồ Tát chỉ nói sơ lược về ma; Hoặc chúng hiện thân 
					Phật, thân Bồ Tát ; hoặc nói kinh thuyết pháp thông suốt; 
					hoặc làm cho người tu thiền biết được việc quá khứ, vi lai; 
					hoặc đặng túc mạng thông, tha tâm thông, biện tài vô ngại; 
					hoặc làm cho người tu thiền tham lam danh lợi v.v... 
					
					Khi gặp các cảnh ma như 
					vậy, hành giả phải đừng quyến luyến, nhiễm trước và đừng 
					sanh tâm vui mừng hay lo buồn, mà phải luôn luôn quán Duy 
					tâm; nghĩa là quán do dụng công tu thiền, nên tâm hiện ra 
					các cảnh như vậy, chứ không có gì lạ và cũng không phải 
					chứng chi cả. Kinh Lăng nghiêm, Phật nói: " ...Nếu hành giả 
					không chấp mình được Thiền hay chứng Thánh thì tốt, còn chấp 
					mình Thiền hay chứng Thánh thì đoạ vào tà đạo" (Bất tác 
					Thánh tâm danh thiện cảnh giới, nhược tác thánh giải tức thọ 
					quần tà). Phải dụng tâm như thế thì các cảnh ma kia tự nhiên 
					tiêu diệt. Nếu hành giả vui mừng, cho mình được Thiền hay 
					chứng Đạo v.v...thì bị ma ám ảnh nhiễu hại; vì các việc ma 
					là hiện thân của sự tham luyến vui buồn chấp thủ. 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					
					Phải biết, các pháp 
					thiền định (tam muội) của ngoại đạo tu tập, đều không rời 
					phiền não hữu lậu vì tâm còn ngã mạn, chấp ngã tham lam danh 
					lợi ở thế gian và cầu người cung kính. 
					 
					
					Còn tu pháp Chơn như 
					tam muội (thiền định) này thì không có tướng gì để được, lại 
					có công năng làm cho các phiền não lần lần mỏng ít; cho đến 
					khi xuất định hành giả cũng không giãi đãi. Nếu người tu 
					hành mà không tu pháp Chơn như tam muội này, thì không thể 
					nhập được dòng giống của Như Lai. 
					
					Tu các pháp thiền định 
					tam muội của thế gian, cũng như thiền định của ngoại đạo, 
					đều thuộc trong Tam giới, vì còn các phiền não chấp ngã và 
					say đắm nhiễm trước nơi cảnh thiền. Bởi thế nên người tu 
					thiền định, nếu không có Thiện tri thức dẫn dắt, thì quyết 
					định sẽ lạc vào ngoại đạo. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Trong kinh Lăng nghiêm, 
					khi Phật sắp chỉ dạy phương pháp tu hành thì Phật đã khuyên 
					bảo dặn dò ông A Nam và đại chúng rằng "Phải phân biệt rành 
					rõ hai món căn bản: 1. Vọng tâm phiền não là căn bản của 
					sanh tử luân hồi và 2. Chơn tâm thanh tịnh là căn bản của Bồ 
					Đề Niết bàn. Nếu các ông nhận lầm là căn bản của sanh tử 
					luân hồi làm nhơn tu hành, thì không bao giờ thành Phật 
					được; và cũng như người nhận giặc làm con, chỉ bị nó phá hại 
					mà thôi". Bởi thế nên, đoạn này Bồ Tát Mã Minh phân tách 
					rành rõ tà định và chánh định, để cho hành giả khỏi lầm 
					lạc.   
					
					Thiền định của ngoại 
					đạo và thế giam là do phiền não hữu lậu làm động cơ thúc 
					đẩy, như vì lợi dưỡng, cầu người cung kính v.v...mà tu. Khi 
					tu thiền, thấy được một vài thắng cảnh thì họ ngã mạn cống 
					cao và tham ái nơi cảnh thiền v.v... Bởi thế nên tu chừng 
					nào, thì họ lại tăng trưởng bản ngã, thêm nhiều phiền não, 
					đào sâu hố tà, luân hồi mãi trong tam giới. 
					 
					
					Còn thiền định của chư 
					Phật là do chơn như thanh tịnh (chơn như) làm động cơ, nên 
					không vì lợi dưỡng hay cầu người cung kính, khi thấy thắng 
					cảnh, chỉ quán là Duy tâm, không móng tâm tham luyến, không 
					ngã mạn cống cao, không nuôi lớn bản ngã. Bởi thế nên hành 
					giả tu chừng nào thì phiền não càng tiêu, được vào cảnh giới 
					của chư Phật. 
					
					Tóm lại, người tu thiền 
					định, nếu không có Thiện hữu tri thức (Minh sư chỉ giáo) để 
					dẫn dắt, thì dễ lạc vào tà kiến ngoại đạo. 
					
					D. MƯỜI ĐIỀU LỢI ÍCH 
					THIỀN ĐỊNH 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Người chuyên tâm tinh 
					tấn tu pháp tam muội này (Chơn như tam muội) thì hiện dời sẽ 
					được mười điều lợi ích: 
					
					1. Được mười phương chư 
					Phật và Bồ Tát thường hộ niệm. 
					 
					
					2. Không bị các ma quỉ 
					khủng bố.   
					
					3. Không bị chín mươi 
					lăm thứ thiên ma ngoại đạo làm mê hoặc. 
					 
					
					4. Xa lìa những việc 
					huỷ báng Chánh pháp và các tội chướng nặng nề dần dần mỏng 
					ít.   
					
					5. Diệt hết các nghi 
					ngờ và những sự thấy nghe tội lỗi. 
					 
					
					6. Đối với các cảnh 
					giới của chư Phật, lòng tin tăng trưởng. 
					 
					
					7. Xa lìa các điều ăn 
					năn lo lắng và đối với việc sanh tử, tâm không khiếp sợ. 
					 
					
					8. Tâm được nhu hoà, bỏ 
					tánh kiêu mạn, chẳng bị người làm não hại. 
					 
					
					9. Dù chưa chứng Định, 
					song trong tất cả thời gian, tất cả cảnh giới, hành giả có 
					thể làm cho các phiền não tổn giảm và không tham vui ở thế 
					gian.   
					
					10. Nếu được Tam muội 
					thì không bị các âm thinh của trần gian và các ngoại duyên 
					làm chao động. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					Người tu hành là 
					một vị Tướng soái cùng với các ma quân trường kỳ kháng 
					chiến, không phải kháng chiến một năm một tháng, mà phải 
					nhiều đời nhiều kiếp, không phải một ngày một buổi, mà phải 
					đánh từng giờ từng phút với giặc nội tâm (phiền não). Cố 
					nhiên hành giả phải trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ 
					nhất là tự vệ, phải trải qua một a tăng kỳ kiếp (một vô số 
					kiếp), hành giả thua nhiều thắng ít; giai đoạn thứ hai là 
					cẩm cự, trải qua một a tăng kỳ kiếp thứ hai, hành giả năm ăn 
					năm thua; giai đoạn thứ ba là phản công, cũng trải qua một a 
					tăng kỳ kiếp nữa, hành giả thắng nhiều mà thua ít. 
					Tuy nhiên, nếu 
					hành giả thành tâm chuyên nhứt, tinh tấn tu học pháp "chơn 
					như tam muội" này, thì sẽ được mười điều lợi ích như trên; 
					mà điều lợi ích thứ nhứt là được chư Phật và Bồ Tát thường 
					hộ niệm; như vậy, lo chi chẳng được thành đạo chứng quả. 
					 
					
					(Trên đã nói tu Chỉ, 
					tiếp theo đây sẽ nói tu Quán) 
					
					E. BẢY PHÁP QUÁN 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					Nếu người tu Chỉ (Định) 
					mà tâm bị trầm một (chìm lặng) sanh ra giãi đãi, hoặc chẳng 
					ưa làm việc lành, xa lìa tâm Đại bi, thì phải tu Quán. 
					
					1. Quán vô thường: 
					Quán tất cả các pháp hữu vi trong thế gian, không có lâu 
					dài, giây phút biến hoại. 
					
					2. Quán khổ: 
					Quán tất cả tâm hạnh là khổ, vì mỗi niệm sanh diệt không 
					dừng.   
					
					3. Quán vô ngã: 
					Quán các pháp quá khứ như chiêm bao, các pháp hiện tại như 
					chớp nhoáng, các pháp vị lai như mây tụ tán. 
					
					4. Quán bất tịnh: 
					Quán tất cả thân hình nam, nữ trong trần gian đều bất tịnh, 
					đủ các thứ ô uế, không có một chút gì sạch sẽ đáng ưa. 
					
					5. Quán Đại bị: 
					Hành giả phải thường nhớ tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến 
					giờ, đều bởi vô minh huân tập, làm cho tâm sanh diệt, và đã 
					thọ không biết bao nhiêu thân hình khổ não; hiện tại đây vẫn 
					bị vô lượng sự khổ sở đang áp bức, cho đến vị lai cũng còn 
					chịu các điều khổ não, không biết chừng nào cùng tận. Chúng 
					sanh bị các khổ sở như thế, không thể lìa bỏ được, thế mà 
					không hay không biết, thật đáng thương xót. 
					 
					
					6. Quán Đại nguyện: 
					Hành giả thường suy nghĩ chúng sanh khổ sở như thế, nên phát 
					tâm dõng mãnh, tu tất cả công đức lành, lập lời thệ nguyện 
					rộng lớn: "Nguyện cho tâm tôi không còn phân biệt thân sơ 
					(đồng thể) để dùng vô lượng phương tiện cứu độ tất cả chúng 
					sanh khổ não khắp cả mười phương, cùng tận vi lai, đều được 
					an vui Niết bàn". 
					
					7. Quán Tinh tấn: 
					Do hành giả đã phát nguyện rộng lớn như vậy, nên trong tất 
					cả thời gian và tất cả mọi nơi, phải siêng năng tu học, tuỳ 
					theo khả năng của mình mà làm các việc lành, tâm không giãi 
					đãi. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Hành giả nếu tu "Chỉ" 
					mà không tu "Quán" thì có thể sanh ra những tai hại là xa 
					lìa tâm Đại bi, không ưa làm các việc lành. Bởi thế nên muốn 
					tránh những tai hại ấy, hành giả phải tu "Quán". 
					 
					Trước nhứt, hành 
					giả phải quán"Tứ niệm xứ" để thấy rõ thâm tâm và thế giới 
					đều là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh". Tiếp đó hành giả 
					dùng quán Đại bi cứu độ. Rồi tiếp dùng quán Đại nguyện, 
					nghĩa là khi đã thấy chúng sanh khổ quá, nên hành giả tự 
					phát lời thệ nguyện rộng lớn và dũng mãnh độ sanh với tâm 
					bình đẳng, không phân biệt thời gian và không gian. Hành giả 
					đã lập Đại nguyện rồi thì phải dùng quán Tinh tấn, nghĩa là 
					phải tận lực của mình làm các điều lợi ích cho chúng sanh 
					trong mười phương, không khi nào rảnh việc. 
					
					G. CHỉ VÀ QUÁN ĐỔNG 
					THỜI TU 
					 
					
					CHÁNH VĂN 
					 
					
					Chỉ trừ những lúc ngồi 
					chuyên tu pháp "Chỉ" còn ngoài ra tất cả thì giờ khác, hành 
					giả đều phải quan sát những việc gì nên làm, việc gì không 
					nên làm.   
					
					Khi đi, đứng, nằm, ngồi 
					hành giả phải đồng thời tu cả Chỉ và Quán. Nghĩa là hành giả 
					tuy trong khi quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ), 
					nhưng cũng quán do nhơn duyên hoà hiệp, nên nghiệp lành dữ 
					và quả báo khổ vui không mất (Quán)_ Tuy trong lúc quán do 
					nhơn duyên hoà hiệp nghiệp báo không mất (Quán), nhưng hành 
					giả cũng quán tự tánh của các pháp không sanh (Chỉ). 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Bồ Tát Mã Minh dạy hành 
					giả trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi đều phải tu cả 
					Chỉ và Quán. Trong khi quán các pháp vô sanh, để trừ tâm 
					tham lam ái trước v.v...thì hành giả cũng quán nhơn duyên 
					hoà hiệp, nhơn quả lành dữ không mất, để rộng tu các việc 
					lành và giáo hoá chúng sanh. Tuy "quán không" mà chẳng bỏ 
					môn hạnh lành; "quán có" mà tâm tánh vẫn thanh tịnh, không 
					nhiễm trước, ái luyến một cảnh nào. Đó là lợi ích của Chỉ và 
					Quán đồng thời tu vậy.  
					 
					
					H. LỢI ÍCH TU CHỉ QUÁN 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Phàm phu tu "Chỉ" thì 
					trừ được tâm nhiễm trước thế gian; Nhị thừa tu "Chỉ" thì bỏ 
					được tâm khiếp nhược. Phàm phu tu "Quán", xa lìa được cái 
					bịnh chẳng ưa tu pháp lành; Nhị thừa tu "Quán", đối trị được 
					tâm hẹp hòi ích kỹ, chẳng khởi Đại bi. Bởi thế nên phải tu 
					cả Chỉ và Quán, giúp nhau mới thành, không thể rời nhau 
					được. Nếu hành giả không tu cả Chỉ và Quán thì sẽ không thể 
					vào đạo Bồ Đề. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Nhờ tu "Chỉ" nên hành 
					giả ngăn được sự tham trước và khiếp nhược. Nhờ tu "Quán" 
					nên hành giả phát khởi tâm Đại bi và làm lợi ích cho chúng 
					hữu tình. Bởi thế nên pháp Chỉ, Quán, (Định, Huệ) là con 
					đường lớn của hành giả để về cõi Phật. 
					
					I. PHÁP MÔN NIỆM PHẬT 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Lại nữa, nếu có chúng 
					sanh mới tu pháp này, tâm còn khiếp sợ, muốn được Chánh tín, 
					nhưng lo sợ "ở cõi ta bà không thường găp Phật, nghe pháp và 
					cúng dường, e sợ lòng tin của mìnhkhông thành tựu", muốn 
					thối chí, thì những chúng sanh ấy biết rằng: Phật còn có 
					phương tiện thù thắng, bảo đảm tín tâm của hành giả được 
					thành tựu. Phương tiện ấy là "Nhơn duyên chuyên tâm niệm 
					Phật, cầu sanh về cõi Phật ở phương khác, để thường được 
					thấy Phật, nghe pháp", thì chắc chắn xa lìa được ác đạo. 
					
					Trong Khế kinh, Phật 
					dạy: "nếu người chuyên tâm niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực 
					lạc phương tây, và đem công đức tu hành hồi hướng phát 
					nguyện cầu sanh về đó, thì quyết định sẽ sanh về thế giới 
					Cực lạc, được thường thấy Phật và nghe pháp, không bao giờ 
					thối chuyển".   
					
					Nếu hành giả quán chơn 
					như Pháp thân của Phật A Di Đà và thường siêng năng tu tập, 
					thì rốt ráo sẽ được sanh vào hàng ngũ chánh định. 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Hành giả muốn hái quả 
					Phật, tất nhiên phải leo lên cây Bồ Đề cao 6 thước, là Bố 
					thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ. 
					Quan trọng nhứt là hai thước sau; trong Luận này gọi là Chỉ 
					và Quán. Đó là điều duy nhứt của các vị Bồ Tát đã và sẽ 
					chứng quả Phật.   
					
					Nhưng, có người lo 
					ngại: "Chúng phàm phu đến quả Phật, phải tu nhiều kiếp và 
					trải qua thời gian lâu xa là ba vô số kiếp; hơn nữa, ở cõi 
					Ta bà này có rất nhiều chướng ngại, và không thường gặp 
					Phật, sự tu khó thành công". Muốn cho những người ấy hết lo 
					ngại, bảo đảm sự tu hành chắc chắn được kết quả, nên Bồ Tát 
					Mã Minh chỉ thêm một phương tiện thù thắng của Phật, là dạy 
					người "Nhứt tâm niệm Phật, hồi hướng cầu sanh về cõi nước 
					của Phật A Di Đà, để thường găp Phật và làm bạn với các vị 
					Bồ Tát, ngày đêm sáu thời thường nghe tiếng pháp; cho đến 
					gió thổi, cây rung, suối reo, chim hót, cũng đều diễn ra 
					những pháp: Ngũ căn, Ngũ lực, Thất Bồ Đề, Bát chánh đạo 
					v.v..."; như trong kinh Di Đà đã nói. 
					 
					
					Hành giả găp hoàn cảnh 
					thuận tiện, tốt đẹp như thế, thì lo gì chẳng thành đạo chứng 
					quả. Bởi thế nên pháp "Nhứt tâm niệm Phật" là phương tiện 
					thù thắng nhứt của đức Đại bi Thế tôn 
					 
					
					(Đã hết chương thứ tư 
					là Tín tâm, Tu hành)  
					 
					
					*** 
					 
					
					CHƯƠNG THỨ NĂM 
					 
					
					LỢI ÍCH VÀ KHUYẾN TU 
					 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Pháp Đại thừa bí mật 
					của chư Phật, tôi đã nói một cách tổng quát rồi. Nếu có 
					người nào đối với pháp Đại thừa của Như Lai (thậm thâm cảnh 
					giới) đã không nghi ngờ hay bài báng, lại còn sanh tâm chánh 
					tín muốn vào Đại thừa, nên họ thọ trì (văn) suy nghĩ (tư) và 
					tu tập (tu) theo Luận này, thì người ấy sẽ được đạo vô 
					thượng Bồ Đề. Nếu người nào nghe đến Pháp Đại thừa này mà 
					tâm không nghi sợ thì người ấy sẽ được chư Phật thọ ký và 
					quyết định sẽ nối dòng Phật. 
					 
					
					Giả sử có người giáo 
					hoá chúng sanh cả Đại thiên thế giới (một nghìn triệu thế 
					giới nhỏ) đều tu thập thiện, công đức của người này tuy 
					nhiều, nhưng không bằng có người chỉ ở thời gian ngắn như 
					trong bữa ăn, tu pháp Đại thừa này, thì công đức lại nhiều 
					hơn người trước không thể so sánh được. 
					 
					
					Lại nữa, nếu có người, 
					hoặc trong một ngày đêm, thọ trì, quán sát và tu hành theo 
					Luận này, thì người ấy sẽ được công đức vô lượng vô biên, 
					không thể nói hết. Dầu cho mười phương chư Phật ở trong vô 
					lượng vô biên, a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp) tán thán công đức 
					của người đó cũng không hết. Tại sao vậy?_ Bởi vì pháp Đại 
					thừa (Phật tánh) có công đức không cùng tận; Luận này nói về 
					pháp Đại thừa nên người thọ trì và tu tập, theo luận này, 
					cũng được công đức vô lượng vô biên như vậy. 
					 
					
					Nếu chúng sanh nào đối 
					với Luận này mà huỷ báng, không tin, thì chúng sanh đó sẽ bị 
					tội báo lớn, trải qua vô lượng kiếp thọ khổ não. Vì thế nên 
					chúng sanh phải tin tưởng không nên huỷ báng Luận này, bởi 
					có hại cho mình và người, đoạn tuyệt giống Tam bảo. 
					 
					
					Tất cả chư Phật đều do 
					pháp Đại thừa này mà được Niết bàn; các vị Bồ Tát cũng nhờ 
					tu pháp Đại thừa này mà đặng vào trí Phật. Các vị Bồ Tát quá 
					khứ, hiện tại và vi lai đều tu theo pháp Đại thừa này mà 
					được thành tựu đức tin thanh tịnh. Bởi thế nên chúng sanh 
					phải siêng năng tu học.  
					 
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Chương thứ năm này nói 
					về sự lợi ích và khuyên người tu hành. Bộ Luận này nói về 
					pháp Đại thừa, tức là tâm chúng sanh hay Phật tánh, hoặc gọi 
					chơn như hay Pháp thân v.v...Chư Phật, Bồ Tát quá khứ, hiện 
					tại và vị lai đều tu theo pháp Đại thừa mà được thành đạo 
					chứng quả. Bởi thế nên người tu theo pháp Đại thừa chỉ trong 
					thời gian ngắn, như trong bữa ăn hay một ngày đêm, công đức 
					người này nhiều hơn người dạy chúng sanh trong Đại thiên thế 
					giới tu Thập thiện; vì tu Thập thiện chỉ hưởng phước hữu lậu 
					ở cõi trời; và mười phương chư Phật tán dương công đức của 
					người tu theo Đại thừa cũng không hết lời, vì công đức này 
					thuộc về chơn tâm thanh tịnh vô lậu, biến khắp tất cả. 
					 
					
					Trái lại nếu chúng sanh 
					nào huỷ báng không tin Luận này, tức là huỷ báng không tin 
					pháp Đại thừa hay không tin tánh Phật, tâm chơn như 
					v.v...của mình thì chúng sanh đó tự đoạn pháp thân huệ mạng 
					của mình, làm mất giống Phật pháp của mình nên nhiều kiếp 
					phải chịu sanh tử luân hồi trầm luân trong biển khổ. 
					 
					
					Vì thế nên chúng sanh 
					không nên nghi ngờ huỷ báng, mà phải tin tưởng và tu theo 
					Luận này.   
					
					BÀI KỆ HỔI HƯỚNG 
					
					CHÁNH VĂN
					 
					
					Nghĩa lý rộng sâu của 
					chư Phật   
					
					Tôi nay tổng quát nói 
					đã rồi   
					
					Nguyện đem công đức về 
					Pháp tánh   
					
					Tất cả chúng sanh đều 
					được lợi   
					
					LƯỢC GIẢI
					 
					
					Theo lệ thường, các vị 
					Bồ Tát khi tạo luận, trước nhứt nói bài kệ quy kính Tam bảo, 
					để cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình được khế lý và 
					hợp cơ; rốt sau nói bài kệ hồi hướng, để hồi hướng cho tất 
					cả chúng sanh đều nhờ công đức này mà được lợi lạc. Đây là 
					bài kệ hồi hướng.   
					  
					 
					
					Dịch chánh văn xong 
					ngày 27 tháng Giêng Tân Sữu 
					 
					Lược giải và 
					tu chỉnh, xong ngày 28 tháng Chạp năm Tân Sữu (1961) 
					 
					In xong giữa 
					mùa Sen nỡ, năm Nhâm Dần (1962) 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
			
			 |