|   | 
			
			
				
					| 
					 Mục 
					Lục Khóa Thứ Tư   
					Duyên Giác và Bồ 
					Tát Thừa Phật Giáo 
					  
					
					
					Lời Chỉ Dẫn Tổng Quát
					 
					
					01 Quán Sổ Tức
					 
					02 Quán Bất Tịnh
					 
					03 Quán Từ Bi
					 
					04 Quán Nhân Duyên
					 
					05 Quán Giới Phân 
					Biệt  
					06 Bố Thí Ba La 
					Mật  
					06B Trì Giới Ba La 
					Mật  
					07 Tinh Tấn Ba La 
					Mật  
					07B Nhẫn Nhục Ba 
					La Mật  
					08 Thiền Ðịnh Ba 
					La Mật  
					08B Trí Huệ Ba La 
					Mật  
					09 Tứ Vô Lượng 
					Tâm  
					10 Ngũ Minh
					 
					  
					
					
					Lời Chỉ 
					Dẫn Tổng Quát  
					 
					(Cho Trọn Khóa Thứ Tư)  
					  
					
					Khóa này cũng như các 
					khóa trước, gồm cả thảy 10 bài giảng chia ra như sau: 
					 
					
					Năm bài giảng về "Ngũ 
					đình tâm quán".   
					Ba bài giảng về 
					"Lục độ" hay "Sáu phép Ba La Mật". 
					 
					Hai bài giảng về 
					"Tứ vô lượng tâm" và "Ngũ minh". 
					 
					
					Trong 10 bài ấy, trừ 
					bài Ngũ minh là bài giảng có tánh cách khái quát về những sự 
					hiểu biết cần thiết mà một Phật tử chân chính cần phải trao 
					dồi và thực hành để làm lợi cho Ðạo và nhân quần xã hội; còn 
					9 bài giảng trước đều nói về các phép tu. 
					 
					
					Các phép tu này sẽ được 
					giảng giải rõ ràng ở các bài sau. Nhưng ngay bây giờ để quí 
					vị có một ý niệm tổng quát về trọn khóa thứ tư, chúng tôi 
					xin trình bày sơ lược hai phần chính yếu của nó. Ðó những 
					bài nói về Ngũ đình tâm quán và Lục độ hay Sáu phép Ba la 
					mật.   
					
					1. Ngũ đình tâm quán 
					là năm phương pháp quán tưởng để dừng vong tâm. Vọng tâm là 
					căn bệnh chính làm cho con người phiền não khổ đau. Nó thúc 
					đẩy người ta chạy theo ngũ dục, nó che lương tri, làm cho 
					cái tâm vốn là sáng suốt trở nên tối tăm, không biết đâu là 
					thật, đâu là giả, đâu là chính, đâu là tà, đâu là hay, đâu 
					là dở.   
					
					Muốn sự nhận định được 
					sáng suốt, muốn cho lòng ta dừng đuổi theo ngũ dục mà phải 
					phiền não khổ đau, ta phải tìm phương pháp chận đứng vọng 
					tâm là quán tưởng. Quán là dùng trí huệ quán sát, phân tích 
					hay suy nghiệm để tìm ra sự thật. Có năm phép quán để chận 
					đứng vọng tâm, để đối trị năm chứng bệnh chính của tâm hồn 
					chúng ta, là:   
					
					a) Quán Sổ tức: để đối 
					trị bệnh tán loạn của tâm trí 
					 
					b) Quán bất 
					tịnh: để đối trị lòng tham sắc dục. 
					 
					c) Quán Từ bi: 
					để đối trị lòng sân hận.   
					d) Quán Nhân 
					duyên: để đói trị lòng si mê. 
					 
					đ) Quán Giới 
					phân biệt: để đối trị chấp ngã. 
					 
					
					Năm phép quán ấy gọi là 
					"Ngũ đình tâm quán". Mỗi phép quán sẽ được trình bày rõ ràng 
					cặn kẽ trong một bài giảng, theo thứ tự như đã trình bày ở 
					trên. Sở dĩ chúng tôi để bài Quán Sổ tức đứng đầu trong năm 
					phép quán, vì muốn đi sâu vào các phép quán, trước tiên, 
					phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một tâm 
					trí định tĩnh, không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên 
					phải tập quán Sổ tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì 
					các thứ quán sau mới dễ có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ 
					diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si, mạn. 
					 
					
					2. Lục độ hay 
					Sáu phép Ba la mật: Sáu phép tu này để đối trị sáu món "tệ" 
					thông thường, nhưng rất nguy hiểm, vì chúng đã làm cho chúng 
					sinh nhiều kiếp sanh tử luân hồi, chịu không biết bao nhiêu 
					điều thống khổ. Ðó là:  
					 
					
					a) Tham lam bỏn sen; b) 
					Sân hận; c) Si mê; d) Biếng nhác, trễ nãi; đ) Hủy phạm giới 
					luật; e) Tán loạn.   
					
					Ðể chúng sanh thoát 
					khỏi nanh vuốt ác độc của sáu món tệ này, đức Phật dạy sáu 
					phép đối trị gọi là "Lục độ". Chữ "Ðộ" có nghĩa là cứu độ 
					hay vượt qua. Lục độ gồm có: 
					 
					
					a) Bố thí: để khỏi cái 
					tệ tham lam bỏn sen   
					b) Nhẫn nhục: để 
					khỏi cái tệ nóng nảy, sân hận 
					 
					c) Trí huệ: để 
					khỏi cái tội si mê   
					d) Tinh tấn: để 
					khỏi cái tệ biếng nhác, giải đãi. 
					 
					đ) Trì giới: để 
					khỏi cái tội hủy phạm giới luật. 
					 
					e) Thiền định: 
					để khỏi cái tệ tán loạn.  
					 
					
					Vì dùng sáu phương pháp 
					này để trừ sáu món tệ, nên kinh nói: "Dĩ lục độ, độ lục tệ". 
					Bồ Tát theo sáu phương pháp này tu hành để vừa độ cho mình, 
					vừa độ cho người, độ cho đến chỗ hoàn toán cứu cánh, nên 
					cũng gọi là "sáu phép Ba la mật". 
					 
					
					Lục độ, hay sáu phép ba 
					la mật được trình bày trong tập sách này: 
					 
					
					Bài thứ sáu, Bố thí và 
					Trì giới   
					Bài thứ bảy, 
					Tinh tấn và Nhẫn nhục   
					Bài thứ tám, 
					Thiền định và trí huệ.  
					 
					
					Xét một cách tổng quát, 
					thì dù là Ngũ đình tâm quán hay Lục độ, cái phần chính yếu 
					của tập "Phật học Phổ thông", khóa thứ tư này, vẫn nhắm đối 
					tượng là diệt trừ bốn món phiền não căn bản của con người là 
					tham, sân, si, mạn. trừ được bốn món phiền não ấy, từ phần 
					thô thiển cho đến phần sâu kín, từ nhành ngọn cho đến cội 
					gốc, trừ bao giờ cho đến khi không thấy bóng dáng của chúng 
					trong tâm ta nữa, thì khi ấy, con đường giải thoát tự nhiên 
					lộ bày ra trước mắt chúng ta. 
					 
					
					Với hoài bão thiết tha 
					ấy, chúng tôi biên soạn tập Phật học Phổ thông này, để trình 
					bày với quý vị Phật tử và độc giảt quý mến những phép tu mầu 
					nhiệm để diệt trừ phiền não và tiến lên dường giải thoát. 
					 
  
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 1
					 
					Quán Sổ 
					Tức 
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Bất luận trong công 
					việc gì, sự định tĩnh của tâm trí là một yếu tố chính yếu để 
					thành công. Nhất là công việc tu hành sự định tĩnh tâm thần 
					lại càng quan trọng hơn nữa. Người tu hành mà tâm trí luôn 
					luôn tán loạn học trước quên sau, học sau quên trước, tư 
					tưởng thiếu tập trung, thì dù có khổ công tu tập, cũng khó 
					được kết quả khả quan, vì thế trong phần nhiều các tôn giáo, 
					người ta thường có những phút "lắng lòng", tập trung tư 
					tưởng vào bên trong để khám phá nội tâm và soi sáng lẽ đạo. 
					Riêng về Ðạo Phật thì có những phép quán và thiện định. Về 
					thiền đinh., chúng ta sẽ tìm hiểu trong các bài nói về Lục 
					độ ở phần sau tập sách này. Trong bài này và bốn bài nối 
					tiếp sau đây chúng tôi sẽ đề cập đến phép quán. 
					 
					
					Phép quán đầu tiên mà 
					chúng tôi muốn nói đến là Sổ tức quán. Sở dĩ chúng tôi để 
					bài quán Sổ tức này đứng đầu trong năm phép quán, trước 
					tiên, phải biết quán là gì, quán như thế nào, và phải có một 
					tâm trí định tỉnh không tán loạn. Muốn được thế, trước tiên 
					phải tập quán Sổ tức. Khi quán Sổ tức đã thuần phục rồi, thì 
					các thứ quán sau mới dễ có kết quả, nghĩa là mới có thể trừ 
					diệt dần các tâm bệnh: tham, sân, si mạn. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Quán Sổ tức là đếm hơi 
					thở. Quán là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích hay 
					suy nghiệm đến một vấn đề. Sổ tức quán là tập trung tâm trí 
					để hơi thở ra vào của mình, mà mục đích là để đình chỉ tâm 
					tán loạn. 
					
					 
					 
					
					II. Vì Sao Phải Ðình 
					Chỉ tâm Tán Loạn   
					 
					
					Tâm trí chúng ta bị 
					muôn việc ở đời chi phối, khi vui khi buồn, khi lo việc này, 
					khi suy nghĩ chuyện khác, khi mừng khi giận, khi thương khi 
					ghét, không bao giờ được định tĩnh. Dù cho ta có ngồi yên 
					một chỗ, khoanh tay lại, tâm trí chúng ta cũng không dừng 
					nghỉ, mà vẫn sống với đời sống lăng xăng rộn ràng của nó. 
					Bao nhiêu hình ảnh phức tạp như một cuốn phim hiện lên trên 
					màn ảnh của trí óc; và mỗi hình ảnh như thế lại mang theo nó 
					một cảm tưởng vui buồn thương ghét, cho nên khi ta ngồi yên, 
					chỉ là để cho thân xác được yên nghỉ, chứ còn tinh thần thì 
					vẫn hoạt động, có nhiềụ khi lại hoạt động nhiều hơn cả lúc 
					làm việc. Hầu hết chúng ta đều khổ tâm, bực tức về sự hoạt 
					động lỗi thời ấy của tâm trí chúng ta: Không muốn nhớ nữa mà 
					vẫn cứ nhớ, không muốn thương nữa mà vẫn cứ thương, không 
					muốn giận nữa mà vẫn cứ giận. Làm chủ thể xác đã là khó, mà 
					làm chủ tinh thần lại càng khó hơn. Nhất là trong thế giới 
					máy móc, phức tạp ngày nay, một thế giới đầy màu sắc rộn 
					ràng, âm thanh chát chúa, hình ảnh kỳ dị một thế giới cuồng 
					loạn trong ấy, trí óc không mạnh mẽ vững vàng thì rất dễ bị 
					rối loạn. Vì thế, theo các bản thống kê của các nhà bác học, 
					số người mắc bệnh điên mỗi ngày mỗi nhiều trong thế giới 
					ngày nay.   
					
					Riêng trong phạm vi nhỏ 
					hẹp, chúng ta cũng nhận thấy có nhiều người học hành chẳng 
					nhớ, gặp việc hay quên, niệm Phật không thành công, tham 
					thiền quán tưởng chẳng kết quả, đều do sự tán loạn của tâm 
					trí mà ra.   
					
					Vậy, muốn học hành mau 
					nhớ, gặp việc không quên, niệm Phật được nhất tâm bất loạn, 
					tham thiền quán tưởng được thành tựu, điều cốt yếu là phải 
					làm sao cho tâm trí được yên định. 
					 
					
					Vì sao tâm trí được yên 
					định, thì dễ đạt được những kết quả như trên? Ta hãy lấy một 
					thí dụ thông thường mà nhiều người đã kinh nghiệm: Khi ta 
					học một bài thuộc lòng hay làm một bài toán vào lúc hoàng 
					hôn hay giữa cảnh náo nhiệt, thì ta thấy vất vả khó khăn vô 
					cùng, vì suốt ngày tâm ta đã mệt mỏi tính toán lăng xăng, 
					phân tán theo trần cảnh. Trái lại, cũng một bài học đó, hay 
					bài toán đó, mà trong buổi khuya thanh vắng, một mình một 
					bóng với ngọn đèn, thì ta lại học bài rất mau thuộc, làm bài 
					rất mau xong, tâm tánh ta hình như thông minh sáng suốt phi 
					thường. Vì sao vậy? Vì buổi khuya mới thức dậy, tâm trí ta 
					yên tịnh, chưa bị trần cảnh chi phối. 
					 
					
					Ta có thể làm một thí 
					dụ thứ hai nữa để vấn đề càng thêm sáng tỏ: Một cây đèn dầu, 
					mặc dù rất lớn ngọn, nhưng khi thắp lên bị gió tứ phía đàn 
					áp phải lung lay, leo lét khi mờ khi tỏ, có nhiều khi gần 
					muốn tắt. Một ngọn đèn như thế chỉ làm hao dầu rất nhiều, 
					chứ không thể soi sáng được gì hết. Nhưng khi chúng ta lấy 
					ống khói chụp lại, gió không đánh bạt được nữa, ngọn đèn 
					đứng thẳng và tỏa ánh sáng khắp gần xa, chiếu phá được một 
					vùng bóng tối trong đêm trường. 
					 
					
					Cũng như ngọn đèn bị 
					gió bạt kia, tâm hành giả bị bát phong xuy động, thất tình 
					lục dục chi phối, lục trần bủa vây làm cho tán loạn, không 
					soi sáng được gì cả. Vậy hành giả, muốn cho tâm được minh 
					mẫn thì phải đừng cho nó tán loạn, nghĩa là phải định tâm, 
					định càng thâm thì tâm càng tỏ, như ngọn đèn càng đứng lặng, 
					thì ánh sáng càng tỏa. Phật dạy: "Tâm có định mới phát sinh 
					trí huệ, có trí huệ mới phá trừ được vô minh để minh tâm 
					kiến tánh". Sở dĩ, các vị Thánh hiền được biết nhiều quá khứ 
					vị lai và có nhiều điều thần diệu, đều do tâm đã định mà 
					phát minh trí huệ sáng suốt, nên mới được như thế. Nên kinh 
					chép: "Chế tâm nhất xứ, vô sự bất biến", nghĩa là ngăn vọng 
					tâm lại được một chỗ, thì không việc gì chẳng thành tựu. 
					Hành giả muốn cho tâm mình hết tán loạn, được yên định, thì 
					phải tu phép quán Sổ tức, một phép quán rất dễ thật hành và 
					rất kiến hiệu, ai cũng có thể làm được. 
					
					 
					 
					
					III. Những Ðiều Cần 
					Biết Trước Khi Quán Sổ Tức  
					 
					
					Trước khi quán Sổ tức 
					cần phải theo đúng những điều sau đây: 
					 
					
					1. Thức ăn: Phải 
					ăn những thức ăn hợp với cơ thể của mình. Nếu ăn đồ nóng nẩy 
					quá, thì than thể sẽ bị bức rức, tâm sanh loạn động. Trái 
					lại, nếu ăn những vật sanh lãnh, không tiêu hóa được , thì 
					thân thể sẽ nặng nề, lừ đừ dễ sanh buồn ngủ. 
					 
					
					2. Ðồ mặc: Phải 
					ăn mặc cho hợp thời tiết. Khi trời nực, mặc đồ mỏng, khi 
					trời lạnh, mặc đồ ấm. Nếu trái lại thân thể mất sự điều hòa, 
					quán lâu có hiệu quả.  
					 
					
					3. Chỗ ở: Phải ở 
					chỗ thanh vắng, thì sự tu quán mới mau được thành công. Nếu 
					ở chỗ ồn ào, đối với người mới tu, không khỏi bị loạn động. 
					 
					
					4. Thời giờ tu: 
					Nên lựa những giờ thanh vắng, như 10 giờ đêm, hay 4 giờ 
					khuya. Nếu ở thành thị thì lựa giờ nào gia đình ngủ hết, 
					chung quanh bớt tiếng động. 
					 
					
					5. Tắm rửa: Thân 
					thể phải thường tắm rửa sạch sẽ, để khỏi ngứa ngáy bức rức 
					trong người.   
					
					6. Cách thức ngồi: 
					Phải ngồi kiết gìa (hai chân tréo xếp lại gọn, thúc vào bắp 
					vế cho sát), hoặc ngồi bán già (chân mặt tréo lên chân trái 
					hay chân trái tréo lên chân mặt, thúc sát vào vế cho gọn 
					gàng). Cách ngồi nầy đầu tiên chưa quen, không sao khỏi bị 
					tê chân (chỉ tê chân khi đang ngồi thôi); qua thời gian hết 
					tê rồi thì đau mỏi cả hai chân. Khi hết đau mỏi, về sau ngồi 
					bao lâu cũng được.   
					
					7. Lưng: Lưng 
					phải ngồi thẳng như vách tường, để cho các khớp xương sống 
					ăn chịu đều nhau, như thế ngồi mới lâu được. Hành giả nên 
					xem tấm vách tường kia, như nó đứng thẳng, các viên gạch ăn 
					chịu đồng đều, nên mới đứng lâu được , nếu hơi nghiêng, cố 
					nhiên nó phải ngã.   
					
					8. Hai tay: Hai 
					cánh tay vòng xuôi xuống, hai Bàn tay để trên hai chân, tay 
					mặc gác lên tay trái, cách thức như Phật ngồi (xem hình đức 
					Trung Tôn ngồi trong mỗi chùa). 
					 
					
					9. Cổ và đầu: Cổ 
					phải thẳng, đầu hơi ngã tới, hai mắt chỉ mở một phần tư (nếu 
					mở mắt lớn thì tâm dễ bị loạn động, còn nhắm lại thì sanh 
					hôn trầm). 
					
					 
					 
					
					IV. Phương Pháp Sổ 
					Tức   
					
					Khi đã ngồi yên ổn đúng 
					với như cách thức đã nói trên, hành giả bắt đầu đếm hơi thở. 
					Trước khi đếm, phải thở ra hít vào chín mười hơi thật dài, 
					để cho hơi thở điều hòa và những trược khí, uất kiết, nặng 
					nề trong người đều tuông ra cả, và thay thế vào bằng những 
					thanh khí mát mẻ, trong sạch của thiên nhiên. 
					 
					
					Khi thở ra, hành giả 
					phải tưởng: "những điều phiền não: tham, sân, si, các chất 
					bẩn trược trong người đều bị hơi thở tống ra sạch hết, không 
					còn một mảy may nào". Khi hít vào, hành giả nên tưởng: 
					"Những chất nhẹ nhàng trong sạch sáng suốt của vũ trụ đều 
					theo hời thở thấm vào bủa khắp thân tâm". 
					 
					
					Khi đủ mười hơi rồi, 
					hành giả bắt đầu thở đều đều , không dài không ngắn, không 
					mau không chậm, phải thở nhẹ nhàng như hơi rùa thở. Nếu thở 
					mau và dài thì tâm sanh loạn động, còn thở chậm và ngắn, thì 
					tâm sanh hôn trầm, hoặc bị uất kiết, có khi lại sanh ra giải 
					đãi, rồi tâm dong ruổi duyên theo ngoại cảnh. Nên phải thở 
					cho nhẹ nhàng và đều đặn, không mau không chậm, thì trong 
					người mới được thư thới khỏe khoắn. 
					 
					
					Từ đây mới bắt đầu đếm 
					hơi thở. Phương pháp đếm hơi thở có bốn cách như sau: 
					 
					
					1. Ðếm hơi lẻ. 
					Nghiã là thở hơi ra đếm một, thở hơi vô đếm hai, thở hơi ra 
					đếm ba, thở hơi vô đếm bốn, đếm cho đến mười, không thêm 
					không bớt, rồi bắt đầu đếm từ một cho đến mười lại. Cứ đếm 
					đi đếm lại từ một đến mười, trong khoảng nửa giờ, một giờ 
					hay hai giờ tùy ý.   
					
					2. Ðếm hơi chẵn. 
					Nghĩa là thở vào rồi thở ra đếm một, thở vào rồi thở ra lần 
					nữa đếm hai, cứ tuần tự như thế cho đến mười lại, mãi cho 
					đến khi đi ngủ.   
					
					Phương pháp đếm hơi 
					chẳn này rất thông dụng,, xưa nay người ta vẫn thường dùng, 
					và đếm hơi thở ra dễ hơn, khỏi bịnh tồn khí (chứa hơi lại 
					trong phổi).   
					
					3. Ðếm thuận. 
					Nghĩa là đếm theo hai cách trên, cách nào cũng được , những 
					tuần tự từ một đến mười.  
					 
					
					4. Ðếm nghịch. 
					Nghĩa là cũng dùng hai cách đếm trên, nhưng đếm ngược từ 
					mười đến một.   
					
					Bốn phương pháp này, 
					tùy ý hành giả muốn dùng một phương pháp hay cả bốn phương 
					pháp thay đổi cho nhau cũng được. Miễn sao thuận tiện cho 
					mình và khỏi lộn, là thành công; nghĩa là đối trị được tâm 
					tán loạn. 
					
					 
					 
					
					V. Những Ðiều Lầm 
					Lộn Thưiờng Xảy Ra Trong Khi Ðếm Hơi Thở  
					 
					
					Những điều lầm lộn mà 
					hành giả thường mắc phải trong khi mới bắt đầu tu phép Sổ 
					tức là:   
					
					1. Tăng. Nghiã 
					là thở ít mà đếm nhiều, đếm nhảy vọt, như ba liền đếm đến 
					năm, hoặc mới năm liền nhảy lên đếm tám v.v.. 
					 
					
					2. Giảm. Nghiã 
					là thở nhiều mà đếm ít, đếm thụt lùi, như đến bốn rồi lại 
					đếm ba, hay bảy rồi lại đếm sáu v.v.. 
					 
					
					3. Vô ký. Nghĩa 
					là không nhớ rõ mình đã đếm đến số mấy rồi. 
					 
					
					Mỗi khi lầm lộn như 
					thế, phải bắt đầu đếm lại. Phải tập cho đến khi nào không 
					còn mắc phải những lầm lộn nói trên, thì tâm trí mới được 
					yên tịnh. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận: 
					 
					
					Quán Sổ tức là một 
					phương pháp đối trị tâm tán loạn rất hiệu nghiệm và rất 
					thông dụng trong các môn phái của Phật giáo, từ Tiểu Thừa 
					cho đến Ðại Thừa, từ các nước Á Châu đến Tây phương. Nhất là 
					trong các giới Phật tử Nhật bản và Âu châu, pháp quán này 
					rất được thịnh hành. Người tu hành áp dụng pháp quán này thì 
					tâm hết tán loạn niệm Phật mau được "nhất tâm bất loạn" tham 
					thiền quán tưởng mau được thành công. 
					 
					
					Không những kẻ tu hành, 
					người thế gian cũng nên theo pháp quán này, thì thân thể sẽ 
					được khỏe mạnh, tinh thần sẽ được yên tịnh thư thới, trí tuệ 
					lại sáng suốt,, học hành mau nhớ, suy tính, phán đoán công 
					việc làm ăn được mau lẹ và phân minh. 
					 
					
					Nhưng trong mọi công 
					việc gì cũng vậy, muốn thành công, tất phải kiên nhẫn bền 
					chí. Phương pháp dù hay đẹp bao nhiêu mà thiếu chuyên tâm 
					trì chí, thì cũng không đưa đến kết quả khả quan nào cả. 
					Chúng ta hãy xem người lái đò chèo ngược nước kia, nếu chèo 
					được năm bảy mái chèo lại buông tay ngồi nghỉ, thì không 
					những chẳng đi tới được bến bờ đã định, mà còn thụt lùi còn 
					rất xa nữa. Cổ nhân cũng dạy: "Giả sử có một thứ giống gì dễ 
					trồng, mà một ngày nắng, mười ngày lạnh, thì giống đó cũng 
					khó sinh". Vậy hành giả đừng nên thấy phép quán này dễ mà 
					khinh lờn, giãi đãi, tu một ngày nghỉ mười ngày, làm như thế 
					tất nhiên không bao giờ được thành công. 
					 
					
					Ngoài sự chuyên cần, 
					hành giả còn phải theo đúng lời chỉ dẫn trên này, áp dụng 
					đúng phương pháp thì mới được kết quả mỹ mãn. 
					 
					
					Là Phật tử , phải thực 
					hành pháp môn Sổ tức này để cho tâm trí hết tán loạn, trí 
					huệ dễ phát sinh, vô minh chấm dứt và trở lại với bản tâm 
					thanh tịnh của mình.  
					 
					
					Nói một cách thiết thực 
					hơn nữa, nếu muốn tu các pháp quán trong "Ngũ đình tâm quán 
					", mà chúng tôi sẽ đề cập đến trong những bài sau, trước 
					tiên phải tập quán cho thuần thục phép Sổ tức này. Nếu quán 
					này chưa thành công, nghĩa là tâm đang còn tán loạn, mà đã 
					vội quán những pháp khác, như "Bất tịnh quán , Từ bi quán" 
					v.v...thì chẳng khác chi xây lầu trên cát, thế nào cũng sẽ 
					bị sụp đổ.  
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 2
					 
					Quán 
					Bất Tịnh 
					
					   
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Trong thế gian này, 
					không có ai là không tham sống. Sự tham sống này vô cùng 
					mãnh liệt, vì nó được di truyền, tiếp nối từ muôn vạn thế kỷ 
					cho đến nay. Vì tham sống nên chúng sinh tìm hết mọi cách để 
					được sống, để trau dồi thân mạng, và để di truyền sự sống. 
					Vì tham sống nên người bất chấp cả sự bất công, phi lý và 
					tàn nhẫn, xấu xa mà mình có thể phạm đến đối với những người 
					và vật khác ở chung quanh. Vì tham sống, người ta đã không 
					từ chối hiếp đáp, giành giựt, cướp bóc, chém giết đồng loại, 
					và có khi cả đến đồng bào thân thích nữa. Tóm lại, sự tham 
					sống là một nguyên nhân chính của khổ đau, tán phá và chết 
					chóc.   
					
					Vả lại, càng tham sống 
					bao nhiêu lại càng sợ chết bấy nhiêu. Mà đã sợ thì không bao 
					giờ có thể vui được.  
					 
					
					Hơn nữa, có ai sợ chết 
					mà thoát được chết đâu? Ðã có sống thì tất phải có cái trái 
					lại là chết. Chúng ta thấy đó, lòng tham sống đem lại cho ta 
					biết bao hậu quả tai hại, buồn thảm, xấu xa. 
					 
					
					Nhưng cuộc đời, thân 
					mạng, thật có quý báu, thật có xứng đáng cho chúng ta tham 
					lam, mến chuộng đến thế không. 
					 
					
					Ðể xét đoán đúng đắn 
					giá trị của thân mạng, đức Phật dạy chúng ta thực hành một 
					pháp quán. Pháp quán đó mệnh danh là "quán Bất tịnh". 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					"Bất tịnh" nghĩa là 
					không sạch sẽ, trong lành. Quán Bất tịnh tức là quán sát một 
					cách tỷ mỉ, cùng tột thân con người để nhận thấy rõ rằng nó 
					là không trong sạch, như hầu hết con người đời đều lầm 
					tưởng. 
					
					 
					 
					
					II. Quán Bất Tịnh 
					Như Thế Nào    
					
					Trong bài thứ bảy của 
					tập Phật học Phổ thông khóa III, chúng ta đã được biết sơ 
					qua về pháp quán Bất tịnh như thế nào rồi. Nhưng trong bài 
					đó, chúng ta chỉ mới biết một phần của pháp quán Bất tịnh mà 
					thôi, nghĩa là hành giả, muốn thấy thân xác là Bất tịnh như 
					thế nào, thì vào "thi lâm" (rừng bỏ xác người chết) để quán 
					sát. Nhưng cái quán sát như thế, cũng chỉ mới biết một phần 
					của cái thân Bất tịnh này mà thôi. Hơn nữa, cái phần ấy cũng 
					không phải là phần quan trọng, vì nó thuộc về giai đoạn sau 
					khi chết. Nhất là đối với hạng người có quan niệm: "chết là 
					hết", thì "quán thây ma" như thế chưa phải là phương thuốc 
					mầu nhiệm để họ nhàm chán cái thể xác của mình và của người 
					khác. Muốn cho họ nhàm chán, ghê tởm cái thể xác thì phải 
					chỉ cho họ thấy tận mắt cái "Bất tịnh" của nó, từ khi nó bắt 
					đầu thành hình cho đến khi nó bị hủy hoại, từ trong cho đến 
					ngoài, từ thể cho đến tướng. Ðể sự quán sát được rốt ráo, 
					hành giả phải ra làm năm phần, tuận tự như sau: 
					
					 
					 
					
					Quán chủng tử bất tịnh 
					 
					Quán trụ xứ bất 
					tịnh   
					Quán tự tướng 
					bất tịnh   
					Quán tự thể bất 
					tịnh   
					Quán chung cánh 
					bất tịnh 
					
					 
					 
					
					Dưới đây chúng tôi sẽ 
					lần lượt giải rõ năm phần quán trên 
					 
					
					1. Quán chủng tử bất 
					tịnh. Chủng tử là một hột giống, là yếu tố hay nguyên 
					nhân để phát sinh. Sự vật nào cũng có nguyên nhân của nó. 
					Thân ta vật hữu vi dĩ nhiên cũng phải có chủng tử của nó. 
					 
					
					Chủng tử của thân mạng 
					gồm có hai phần: Phần tinh thần và phần vật chất. Phần tinh 
					thần này cũng gọi là phần thức. Thức này là nơi dung chứa 
					tất cả nghiệp nhân lành, dữ của thân, khẩu, ý trong quá khứ; 
					vì thế nên cũng gọi là tạng thức (tạng hay tàng nghĩa là nơi 
					chứa nhóm). Khi con người chết cái tạng thức ấy vẫn còn, và 
					theo nghiệp lực thiện, ác của nó mà dẫn sanh ở các loài, 
					hoặc trầm luân, hoặc giải thoát. Nó là chủ nhân ông của kiếp 
					sống, là sanh lực của loài hữu tình 
					 
					
					Cái tạng thức hay thần 
					thức này lẽ dĩ nhiên là không bào giờ trong sạch cả, vì nó 
					là kết tinh của những nghiệp nhân phiền não: tham, sân, si. 
					Hễ tham, sân, si..là nhiễm ô, là Bất tịnh. 
					 
					
					Ðã Bất tịnh thì tất 
					phải tìm bạn Bất tịnh mà kết giao (đồng thanh tương ứng, 
					đồng khí tương cầu). Thần thức nầy, để thể hiện một đời sống 
					khác, đã gá vào, hòa mình vào một chất Bất tịnh. Chất ấy tức 
					là cái điểm hòa hiệp của tinh cha, huyết mẹ. Nói cách khác 
					rõ ràng hơn, tức là cái thai mới kết tụ vậy. Mà tinh huyết 
					là gì? Chính là hai chất hôi tanh ở trong con người. Sự Bất 
					tịnh của nó, tưởng không cần nói, ai ai cũng đã rõ. 
					 
					
					Xem thế thì đủ biết cái 
					chủng tử, cái điểm khởi đầu của một thân mạng con người, từ 
					tinh thần cho đến vật chất, đều là nhiễm ô Bất tịnh cả, 
					không có gì đáng để tự hào và quí chuộng. 
					 
					
					Trong khi quán , hành 
					giả phải vận dụng, tập trung ý lực để tưởng tượng một cách 
					rỏ ràng, như thấy trước tất cả sự Bất tịnh của chủng tử, để 
					mà nhàm chán thân người, dẹp lòng tham luyến. 
					 
					
					2. Quán trụ xứ bất 
					tịnh. Trụ xứ là chỗ ở. Như chúng ta đã thấy ở đoạn trên, 
					chủng tử, cái thai hay con người mới cấu thành là một khối 
					hôi tanh, thì nơi ở của nó cũng không sạch. Kẻ xấu xa, dơ 
					bẩn thì tìm hoàn cảnh xấu xa, dơ bẩn mà sống, đó là một lẽ 
					thường, không có gì là khó hiểu. Nói một cách rõ ràng hơn, 
					chỗ ở của cái thai mà chúng tôi muốn nói đây, tức là cái bào 
					thai. Cái bào thai, không nói, ai cũng biết là một cái bọc 
					chứa đầy máu nhớt hôi tanh, dơ bẩn. Cái bào thai nằm lẫn lộn 
					và lớn dần trong cái bọc bé nhỏ dơ bẩn ấy, như trong một cái 
					ngục tối. Nhưng trong ngục, dù sao cũng còn có khoảng trống 
					để xê dịch, còn có cửa thông hơi để ánh sáng và không khí 
					lọt vào. Chứ trong bào thai thì cái thai phải nằm co rút 
					lại, đẫm mình trong những chất nước, máu và nhớt vô cùng 
					tanh hôi, và không có được một chút không khí hay ánh sáng 
					mặt trời lọt vào. Cái thai phải sống trong hoàn cảnh ấy 
					không phải chỉ một ngày, một tuần hay một tháng mà phải đến 
					chín tháng mười ngày mới thoát ra được. Không trách gì, khi 
					mới ra chào đời, nó đã khóc thét lên...Cụ Ôn Như Hầu Nguyễn 
					gia Thiều thì bảo nó...  
					 
					
					"Khóc vì nỗi thiết tha 
					sự thế",   
					
					"Ai bày trò bãi bể 
					nương dâu". 
					 
					
					Nhưng theo chỗ chúng 
					tôi nghĩ, nó khóc vì thiết tha cho sự thế vô thường thì chỉ 
					một phần, mà khóc vì tủi cực, khóc để phản đối sự giam cầm 
					quá lâu lắc quá tàn nhẫn, quá thiếu vệ sinh, quá mất "nhân 
					phẩm" thì đến mười !  
					 
					
					Vậy quán trụ xứ Bất 
					tịnh có nghĩa là vận dụng toàn lực ý niệm để nhận chân một 
					cách rõ ràng như thấy trước mắt cái dơ bẩn, cái bất tịnh của 
					bào thai là chỗ ở chủng tử, hầu dẹp lòng rạo rực ham muốn 
					tham đắm sắc thân người.  
					 
					
					3. Quán tự tướng bất 
					tịnh. Sau khi đã thoát bào thai mà ra chào đời bằng 
					những tiếng khóc, đứa bé bắt đầu sống một đời sống riêng 
					biệt, có đầy đủ giác quan để tiếp xúc với ngoại cảnh, có đủ 
					bộ phận cần thiết để điều hòa cuộc sống thể xác của mình. 
					Những giác quan bên ngoài và bộ phận bên trong ấy, thường 
					bài tiết những chất dơ bẩn, hôi hám; do đó, ta biết rằng cái 
					thân này không trong sạch. Vậy quán tự tướng không sạch sẽ, 
					mà mỗi người đều có thể nhận thấy được , khi nhìn qua cái 
					hình tướng bên ngoài của xác thân... 
					 
					
					Trong mỗi thân xác, 
					ngoài những lỗ chân lông thường bài tiết những mồ hôi là 
					những thứ nước gần giống như nước tiểu, còn có chín lỗ nữa, 
					mỗi ngày cũng tiết ra nhiều chất nhơ nhớp, hôi hám, gớm 
					ghiếc. Chín lỗ ấy là: đường đại, đường tiểu, miệng, hai lỗ 
					tai, hai lỗ mũi và hai con mắt. Chín lỗ này chẳng khác gì 
					chín "cái cống", lớn có, nhỏ có để tải những thứ nhơ nhớp 
					trong ngoài ra. Nói một cách không quá đáng, thì chín lỗ 
					cống này còn dơ hơn cả những lỗ cống ta thường thấy ở các đô 
					thị nữa. Thật thế, một lỗ cống dơ nhất cũng chỉ chứa đựng 
					những thứ như nước tiểu, phần đờm, mũi, dãi, ghèn, nhưng ít 
					ra những thứ ấy cũng còn pha trộn và chảy theo với nước lã; 
					chứ chín lỗ trong người chúng ta, chỉ bài tiết rặt những thứ 
					nguyên chất nói trên, mà không pha trộn với nước lã như ở 
					các lỗ cống.   
					
					Ðấy là mới nói khi thân 
					xác đang còn mạnh khỏe, cường tráng; chứ khi đau ốm, già nua 
					thân xác không tự làm chủ được nữa, thì những lỗ ấy tự động 
					xuất phát, hay tự do để cho các thứ dơ bẩn trong người chảy 
					ra, thì lại càng ghê ghớm hơn nữa. Những lúc ấy thì những 
					"nguyên chất" nói trên lại càng hôi hám, ung độc không khí 
					một cách gay gắt, khó thở hơn nữa. 
					 
					
					Những điều chúng tôi 
					nói trên đây không phải là quá đáng. Nếu bình tâm mà xét, 
					chúng ta sẽ thấy thân của mỗi chúng ta thật đáng ghê tởm. 
					Nhưng ít khi chúng ta thừa nhận như thế, vì từ lâu đời lâu 
					kiếp, với tánh mê chấp, với tâm tham đắm, nhãn quang của 
					chúng ta như có một bức màn nhung lụa phủ ngang, nên chúng 
					ta trông cái gì cũng thấy đẹp. Và cho đến khi bức màn ấy đã 
					bị xé toang rồi, sự thật xấu xa, dù có bày ra lộ liễu trước 
					mắt, chúng ta cũng bàng hoàng, không cho là thật. Vì thế cho 
					nên hành giả muốn thành công và nhàm chán cái thân này, phải 
					quán tưởng nhiều lần, từ ngày này sang ngày khác, cho đến 
					khi nào nhận thấy một cách rõ ràng thân này quả thật là bất 
					tịnh mới thôi.   
					
					4. Quán tự thể bất 
					tịnh. Như chúng ta đã thấy chín lỗ cống trong người, mỗi 
					ngày bài tiết không biết bao là thứ nhơ nhớp. Vậy chắc chắn 
					bên trong thân xác, những chất liệu cấu kết nên thể xác 
					chúng ta, cũng không trong sạch được. Vậy quán tự thể bất 
					tịnh là quán sát cái thể chất của thân người, để nhận thấy 
					nó bất tịnh như thế nào.  
					 
					
					Thể chất của con người 
					đại khái gồm có ba chất:  
					 
					
					Chất cứng: như xương, 
					tóc, lông, móng tay v.v... 
					 
					
					Chất lỏng: như máu, 
					nước miếng, nước mắt v.v... 
					 
					
					Chất sệt: (không cứng 
					mà cũng không lỏng) như mỡ, óc, tủy v.v... 
					 
					
					Trong các chất ấy, dù 
					cứng, hay lỏng cũng chẳng có thứ nào là trong sạch. 
					 
					
					Về chất cứng, như tóc 
					chẳng hạn, là một vật mỹ quan để chưng diện trên đầu. Thế 
					thường ai cũng quý nó. Nhưng nếu không săn sóc nó một cách 
					chu đáo, không sửa soạn nó một cách công phu, nghĩa là không 
					trâm cài, lượt giắt, không chải chuốt, gội rửa, xức ướp nước 
					hoa, mà để bê tha cho nó tự do quét bụi, tự do dầm sương dãi 
					nắng, tự do rối nùi lại để làm ổ chứng cho trứng chí simh 
					nở, thì dù cho không xua đuổi, người ta cũng chạy dài, không 
					dám lại gần. Ðó là chưa nói khi nó bị đốt cháy hay rời da 
					đầu, rơi vào thức ăn hay vào trong miệng, thì thật là nguy 
					hiểm vô cùng. Tóc là thứ ở nơi cao quý của người mà còn bất 
					tịnh như vậy, thì những thứ khác như ruột, gan v.v...lại còn 
					bất tịnh biết chừng nào?  
					 
					
					Về chất lỏng, thì nước 
					miếng là sạch nhất, vì nó được ở trong miệng là nơi hằng 
					ngày được lau chùi súc rửa nhiều nhất. Thế mà lúc ra khỏi 
					miệng, dù là của kẻ khác hay của chính mình, rủi bị dính vào 
					mặt, vào áo, thì ta liền có những cử chỉ tỏ rõ sự nhờm gớm 
					ngay.   
					
					Về chất sệt, thì não là 
					phần quan trọng và được ở trong đầu óc là nơi cao quý nhất. 
					Nhưng thử tưởng tượng, khi chúng ta đi xe hơi chẳng hạn, rủi 
					bị tai nạn, người ngồi bên cạnh ta bị bể đầu, não trắng như 
					đậu hủ tung tóe vào mặt mày chúng ta, thì chắc chắn những 
					người thiếu bình tĩnh sẽ chết giấc vì ghê tởm. 
					 
					
					Chỉ đơn cử một vài ví 
					dụ trên, cũng đủ thấy rõ được cái bất tịnh nhiều nữa, và 
					chắc chắn một số quý vị độc giả sẽ nhờm gớm mà không đọc 
					tiếp nữa.   
					
					5. Quán chung cánh 
					bất tịnh. Chung cánh ở đây là muốn nói cái giai đoạn hư 
					hoại của thân người sau khi trút hơi thở cuối cùng. Vậy quán 
					chung cánh bất tịnh nghĩa là cái bất tịnh của thân người sau 
					khi chết.    
					
					Ðây là thời kỳ chung 
					kết của mấy mươi năm sinh trưởng của thân thể. Trong kinh 
					đức Phật đã bảo: Thân người do tứ đại giả hiệp mà thành, như 
					thế dĩ nhiên khi chết, xác con người phải trả về cho tứ đại. 
					Trước hết, là hơi thở về với phong đại. Kế là hơi ấm trở về 
					với hỏa đại. Tiếp theo là chất lỏng trong người trở về với 
					thủy đại, và cuối cùng chất cứng và sệt như thịt xương...hóa 
					dẫn theo địa đại. Nhất là hai thứ sau này, trong thời kỳ mềm 
					hư, tan rã thì thế gian này không còn thứ gì nhơ nhớp, hôi 
					hám, ghê tởm hơn nữa. Dù cho xác chết trước kia là người 
					thân mến nhất đời, nhưng để năm bảy ngày chưa kịp tẩn liệm, 
					chôn cất thì ta vẫn ghê tởm, không thể đến gần bên cạnh mà 
					không bịt mũi. Sự thật tàn nhẫn này được phơi bày nhan nhản 
					khắp nơi trong những giai đoạn chiến tranh. Nói một cách 
					tổng quát từ kẻ sang đến người hèn, từ kẻ giàu đến người 
					nghèo, từ kẻ già đến người trẻ, từ kẻ đẹp đến người xấu, ai 
					ai đến giai đoạn chung cánh này, cũng chỉ có một mùi giống 
					nhau: mùi hôi; một chất như nhau: chất thúi. Cái bất tịnh 
					của con người trong giai đoạn kết thúc này đã rõ rành rành, 
					tưởng không cần giải bày thêm nữa. Vả lại, trong bài thứ bảy 
					của tập Phật học Phổ thông khóa thứ ba, cũng đã nói một cách 
					tường tận đến cái bất tịnh của thân người trong giai đoạn 
					này rồi. Nếu quý độc giả nào không nhớ, xin hãy đọc lại đoạn 
					ấy.   
					
					Tóm lại, qua năm giai 
					đoạn quán bất tịnh này: chủng tử, trụ xứ, tự thể và chung 
					cánh, chúng ta đã có một quan niệm rõ ràng, chân xác về cái 
					bất tịnh của thân người. Cả một thời gian đằng đẵng, từ lúc 
					đầu thai đến khi bị vùi xuống đất, quả thật thân người không 
					tìm thấy một tí gì thơm sạch. Dầu có tài hùng biện đến đâu, 
					cũng không ai có thể ngụy biện cho cái thân bất tịnh trở 
					thành thanh tịnh được. 
					
					 
					 
					
					III. Mục Ðích Và Lợi 
					Ích Của Quán Bất Tịnh  
					 
					
					Có người hỏi: Tại sao 
					trong khi cuộc đời đã xấu xa, đau khổ, đức Phật lại còn vạch 
					thêm cho người ta thấy cái dơ bẩn nhớp nhúa của thân người 
					làm gì? Tại sao không cho người đời có cái ảo ảnh rằng thân 
					người là đẹp đẽ, trong sạch để họ có thể được an ủi và quên 
					lãng một phần nào cái xấu xa của kiếp người, mà lại làm cho 
					đời thêm chán chường, tuyệt vọng khi nhận rõ cái thân bất 
					tịnh của mình?   
					
					Trước tiên, chúng ta 
					phải nhận định dứt khoát rằng: Ðạo Phật là "Ðạo như thật", 
					đạo của chân lý. Ðức Phật không muốn lừa phĩnh chúng sinh, 
					lấy xấu xa làm tốt, lấy dở làm hay, hoặc trái lại. 
					 
					
					Thứ đến, chúng ta đừng 
					bao giờ quên rằng: chính cái vọng tưởng rằng thân người là 
					thơm sạch, đẹp đẽ đã gây tai họa lớn cho người đời. Vì lầm 
					tưởng thân người có giá trị quý báu, nên đối với chính thân 
					mình thì người ta nâng niu, cưng dưỡng, tìm hiểu mọi cách, 
					không từ một hành vi xấu xa nào để nuôi dưỡng phụng sự nó; 
					đối với thân người khác giống thì say mê, đắm đuối, tìm mọi 
					cách để chinh phục, làm của riêng của mình. Vì sự đánh lầm 
					giá trị, tham đắm sắc thân giả dối ấy mà cuộc đời chung cũng 
					như cuộc đời riêng, đã xấu xa lại càng thêm xấu xa, đã đen 
					tối lại càng thêm đen tối. 
					 
					
					Lại nữa, khi đã đánh 
					lầm giá trị lấy xấu làm đẹp, lấy dở làm hay, lấy thúi làm 
					thơm, thì tất nhiên cái đẹp cái hay, cái thơm chân thật sẽ 
					bị bỏ rơi, không còn được biết và dùng đến. Loài người đã vì 
					tham đắm cai xác thân nhỏ hẹp, xấu xa, ngắn ngủi, mà bỏ mất 
					cái tâm rộng lớn đẹp đẽ trường tồn. 
					 
					
					Vậy đức Phật khi đã xé 
					tan cái màn ảo ảnh bao bọc xác thân và làm lộ nguyên hình 
					cái xác thân bất tịnh là nhắm mục đích hướng tầm mắt và sự 
					hoạt động của kẻ tu hành vào cái giá trị chân thật đẹp đẽ, 
					rộng lớn và trường tồn hơn. 
					 
					
					Nhưng chúng ta cũng 
					đừng nên kết luận một cách sai lầm rằng: cái thân này đã là 
					bất tịnh, thối tha, thì hãy diệt ngay nó đi, như năm chục vị 
					Tỳ kheo đã làm, sau khi nghe Phật thuyết pháp về cái thân 
					bất tịnh. Làm như vậy là đã xét đoán một cách nông nổi, máy 
					móc ! Ðừng khinh trong túi đất dơ không có ngọc, chớ cho 
					trong bể nước mặn không có vàng. Chớ nên tưởng rằng trong 
					thân bất tịnh này không có Phật tánh ở đâu xa. Ðức Phật 
					thường dạy: Mỗi chúng sinh đều có Phật tánh. Trong kinh Lăng 
					nghiêm, Ngài lại phát minh Phật tánh "bất sinh diệt" trong 
					cái sinh diệt. Phật tánh hay tánh bất sinh diệt là căn bản 
					tinh thần của ta đó. Nó thì vô hình những không mất, lẫn lộn 
					trong "bất tịnh" mà thường vẫn thanh tịnh. 
					 
					
					Biết lợi dụng cái thân 
					bất tịnh, vô thường này, mà tìm ra cái "tịnh" cái "thường", 
					ấy chính là bổn ý của đức Phật khi dạy pháp quán tưởng này. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Chơn tâm con người vẫn 
					là tâm thanh tịnh; nó nằm sẵn trong xác thân bất tịnh của 
					mỗi chúng sinh. Nhưng vì con người đời bị phiền não tham, 
					sân, si lôi cuốn, phỉnh gạt nên say mê quay cuồng đeo đuổi 
					theo ngũ trần, lục dục, mà không thấy được bản tâm thanh 
					tịnh.   
					
					Muốn chận đứng sự tham 
					đắm quay cuồng ấy, đức Phật dạy phải quán bất tịnh. 
					 
					
					Vậy quán bất tịnh có 
					mục đích:   
					
					Ðối trị lòng tham sắc 
					dục, chứ không phải để chán đời, tự hủy diệt mình. 
					 
					
					Dứt trừ vọng niệm và 
					giác ngộ Phật tánh, để tiến mạnh trên đường giải thoát cho 
					mình và cho người.   
					
					Nhưng, vàng không tự 
					nhiên nằm sẵn trong tủ, ngọc chẳng phải nằm khơi trên đất. 
					Phật tánh cũng vậy: Nó không tự hiến cho ta khi ta an nhiên 
					ngồi đợi. Vậy kẻ tu hành muốn thành tựu phép quán này để 
					giác ngộ Phật tánh, cần phải gia công tu luyện, và nhất là 
					phải trau giồi ba đức tánh sau đây: 
					 
					
					Sáng suốt (trí huệ):
					Ðừng để cho dục vọng làm mờ mắt, lấy giả làn chơn, lấy 
					xấu là đẹp. Ðừng hời hợt nhìn bên ngoài, mà phải sâu sắc 
					nhìn hẳn vào bên trong.  
					 
					
					Thành thật: Thấy 
					thơm thì nói thơm, thấy thối thì nói thối, đừng tự ái, đừng 
					thiên vị, chỉ một mực tôn thờ sự thật, dù sự ấy làm cho ta 
					đau lòng, buồn tủi.   
					
					Kiên nhẫn: Phải 
					bền tâm, trì chí, đừng thấy khó mà ngả lòng; đừng thấy đường 
					dài mà lùi bước. Ở đời không có công việc gì tốt đẹp mà 
					chẳng gặp khó khăn. Một nửa sự thành công là do ở kiên nhẫn. 
					Nếu chúng ta có đủ ba đức tánh nói trên, nhất định ta sẽ 
					thành tựu tốt đẹp, trong pháp quán bất tịnh này. 
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 3
					 
					
					Quán Từ Bi  
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Trong các nguyên nhân 
					gây ra đau khổ cho mình và cho người, tánh nóng giận là một 
					nguyên nhân lớn, chẳng kém gì lòng tham lam và tánh ngu si. 
					Từ vô thỉ đến nay sự xây dựng của loài Người lớn lao vô kể; 
					những sự phá hoại vì lòng giận dữ của họ, cũng lớn lao vô 
					cùng. Loài người xây rồi phá, phá rồi xây không ngừng, chẳng 
					khác gì những đứa trẻ xây nhà trên cát, xây xong rồi đạp đi, 
					để rồi xây lại. Và nguyên nhân của sự phá hoại ấy là lòng 
					nóng giận. Có những sự nóng giận nho nhỏ trong nhà giữa vợ 
					chồng làm đổ vỡ chén bát; có những sự nóng giận giữa anh em 
					làm u đầu sưng trán; có những sự nòng giận giữa bạn bè làm 
					đoạn tuyệt đường đi lối về; có những sự nóng giận giữa tình 
					địch, hay đồng nghiệp kinh doanh cần phải thanh toán bằng 
					lưỡi dao, mũi súng hay lọ át xít; có những sự nóng giận lớn 
					lao hơn, giữa nước này với nước khác, màu da này với màu da 
					nọ, chủ nghĩa này với chủ nghĩa kia, mà kết liễu là những 
					thấy ma nằm ngổn ngang trên bãi chiến trường, những kẻ tật 
					nguyền trong các bệnh viện, và những chiếc khăn tang trên 
					đầu các cô nhi quả phụ... 
					 
					
					Tất cả những tai họa 
					trên đều do sân hận mà ra. Sân hận nằm sẵn trong lòng mỗi 
					người, như những ngọn lửa âm ỉ cháy, như những ngòi thuốc 
					súng sẵn sàng bùng nổ bất luận lúc nào. Lửa gặp lửa, thuốc 
					súng gặp thuốc súng, không nói, hẳng ai cũng biết tai hại do 
					chúng gây ra lớn lao như thế nào !  
					
					  
					
					B. Chánh Ðề  
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					
					 
					 
					
					Thông thường, người ta 
					có quan niệm sai lầm rằng: Từ bi là bi lụy, mềm yếu, than 
					khóc, tiêu cực...Người ta tưởng rằng hễ đã từ bi , thì ai 
					muốn làm thế nào mình cũng chịu, sống trong hoàn cảnh thế 
					nào mình cũng theo, thiếu tinh thần tiến thủ...Tóm lại, từ 
					bi theo nghĩa thông thường là than khóc và nhu nhược. 
					 
					
					Những thật ra, từ bi 
					theo Ðạo Phật có nghĩa khác xa. Phật dạy: "Từ năng dữ nhứt 
					thiết chúng sinh chi lạc; Bi năng bạt nhứt thiết chúng sinh 
					chi khổ". Nghĩa là Từ cho vui tất cả chúng sinh; Bi là diệt 
					trừ cái khổ cho tất cả mọi loài. Diệt khổ và cho vui đó là 
					tất cả nguyện vọng và hành động lợi tha, cứu đời của người 
					có lòng từ bi. Thế nên, từ bi không phải là thụ động, là 
					trốn đời hay nhu nhược. Cái khổ và cái vui nói ở đây không 
					chỉ là khổ và vui vật chất mà còn cả khổ và vui tinh thần. 
					 
					
					Hết khổ và được vui tức 
					là khía cạnh của cuộc đời, nhưng không thể rời bỏ nhau được. 
					Khi được vui một phần nào, tức là đã bớt khổ một phần nào, 
					ấy là trong Từ có Bi; và trái lại, khi bớt khổ một phần nào, 
					tức là đã được vui một phần ấy như thế là trong Bi có Từ. 
					Cũng như một đứa bé đang khổ sở vì đi lạc đường, bỗng có ai 
					chỉ đường cho nó, nó liền vui mừng và hết khổ. 
					 
					
					Vậy từ bi là một lòng 
					thương rông lớn vô biên, nó xui khiến người ta vận dụng tất 
					cả khả năng, tâm tư, phương tiện để làm cho mọi người, mọi 
					vật thoát khổ được vui.  
					
					  
					
					II. So Sánh Từ bi 
					Với Bác Ái    
					
					Bác ái là tình thương 
					yêu rộng lớn. Như thế thì bác ái và từ bi đều có một tánh 
					chất giống nhau ở chỗ rộng hẹp, sâu cạn mà thôi. Có người 
					cho rằng bác ái rộng hơn từ bi.Cho như thế là vì chưa hiểu 
					rõ hai chữ Từ bi. Như trên đã định nghĩa: Từ là cho vui tất 
					cả chúng sinh; Bi là diệt trừ mọi nỗi khổ cho tất cả mọi 
					loài. Chúng ta đã biết Phật dùng hai chữ chúng sinh là để 
					chỉ cho tất cả mọi sinh vật. Vậy Từ là cho vui tất cả mọi 
					sinh vật, chứ không phải riêng cho loài người. Tất cả mọi 
					vật có sự sống đều được chung hưởng tình thương ấy. Còn Bi 
					là diệt trừ mọi nỗi khổ cho chúng sinh. Chúng ta nên để ý là 
					trong câu định nghĩa chữ Hán, các kinh dùng chữ "bạt" nghĩa 
					là nhổ tận gốc rễ. Vâng, nhổ tận gốc rễ của cái khổ chứ 
					không phải chỉ thoa dịu cái quả khổ trong hiện tại, mà để 
					mặc cho cái nhân gây ra khổ mãi về sau. Người có lòng Bi là 
					vừa thoa dịu vết thương đau khổ trong hiện tại và vừa chữa 
					cho khỏi nguyên nhân hay gây ra đau khổ, như người làm vườn, 
					không phải chỉ phác cho sạch cỏ trên mặt đất, mà còn đào sâu 
					xuống dưới, nhổ cho hết gốc rễ của cỏ nữa. 
					 
					
					Như thế thì Từ bi, về 
					phương diện không gian, bao gồm tất cả mọi loài, còn về 
					phương diện thời gian, bao gồm tất cả quá khứ, hiện tại và 
					tương lai. Còn bác ái thì chỉ chú trọng nhiều về loài người 
					mà ít để ý đến sinh vật; và chỉ lo cứu khổ, cho vui trong 
					hiện tại mà ít nghĩ đến cái quả trong tương lai. 
					 
					
					Nói một cách khác, Từ 
					bi là gồm hết nghĩa bác ái ở trong ,còn bác ái thì chẳng 
					trùm được lý Từ bi. 
					
					 
					 
					
					III. Từ Bi Cứu khổ 
					Và Cho Vui Như Thế Nào  
					 
					
					Trong khi so sánh Từ bi 
					với Bác ái, chúng tôi đã nói, về phương diện không gian, Từ 
					bi bao gồm tất cả mọi loài. Thật thế, tình thường của Ðạo 
					Phật vô cùng rộng lớn. Phật dạy không được sát sinh người mà 
					cả muôn loài vật nữa. Người Phật tử chân chính, triệt để 
					tuân theo lời Phật dạy, không những không giết hại sinh vật 
					để ăn, mà cũng không giết hại sinh vật trong các cuộc săn 
					bắn hay câu cá để mua vui. Ngày xưa, các vị Tỳ kheo trước 
					khi uống nước ao hồ, phải dùng một cái lọc để lọc nước, như 
					thế vừa hợp vệ sinh, vừa tránh khỏi sát sinh những sanh vật 
					nhỏ ở trong nước. Mỗi khi vào cầu, những người tu hành phải 
					gõ xuống đất ba tiếng, để cho những sinh vật dưới cầu biết 
					mà tránh trước. Những cử chỉ ấy mặc dù nhỏ nhặt, những đã 
					thể hiện được một cách chân thành lòng từ bi của người Phật 
					tử chân chính. Chính nhờ lòng từ bi ấy mà cuộc đời bớt tàn 
					khốc, chiến trường được thu hẹp, người và vật không còn sát 
					hại nhau, mà trái lại còn xem nhau như anh em. 
					 
					
					Nhưng nếu chỉ cho vui 
					và diệt khổ trong hiện tiền mà không nghĩ đến cho vui và 
					diệt khổ trong tương lai thì cũng chưa gọi là Từ bi. Bởi 
					thế, cần phải gây nhân vui và diệt nhân khổ. Nhân vui và 
					nhân khổ ở đâu mà có? Trong kinh thường dạy: Khổ do nghiệp, 
					nghiệp do hoặc. Hoặc tức là phiền não. Phiền não đều ở trong 
					tâm mỗi chúng ta. Tâm là nguồn gốc của mọi hành động, của 
					mọi kết quả. Vậy thì quả khổ hay vui chỉ do tâm cả. Tâm 
					chúng sinh đầy dẫy phiền não tật xấu, dung chứa vô số hạt 
					giống cay chua, đắng độc. Dĩ nhiên, những mầm mống ấy sẽ trổ 
					ra những quả khổ gian lao. Bởi thế, Ðạo Phật rất chú trọng 
					vấn đề tu tâm, dưỡng tánh cho chính mình và người. 
					 
					
					Muốn cứu khổ cho thật 
					tình, chẳng những lo cứu khổ quả, mà còn phải trừ nhơn khổ 
					cho sớm. Thế mới đúng như định nghĩa đã nói ở trên về chữ BI 
					(Bạt nhứt thiết chúng sinh chi khổ). Chẳng hạn, muốn một 
					người nào khỏi bị cái khổ tù đày, lao lý, bắt bớ, hành hạ, 
					ta phải dạy họ đừng tham lam, trộm cướp và cần thiết phải 
					biết bố thí, quý trọng của cải của người. Muốn cho người nào 
					khỏi khổ vì sự chia rẻ, sát hại, thù hằn, ta phải dạy cho họ 
					đừng sân mà cần phải biết nhu hòa, nhẫn nhục. Muốn cho người 
					nào khỏi khổ vì sự ngu si cám dỗ, bóc lột, khinh hèn, ta 
					phải dạy cho họ được sáng suốt, giác ngộ cảnh đời. Khi họ 
					hiểu rồi, tất nhiên không bảo họ tránh khỏi, họ vẫn tránh. 
					 
					
					Muốn cho sự nghiệp lợi 
					tha này được hoàn toàn, người tu hạnh Từ bi,còn có bổn phận 
					phải chỉ bảo cho người chung quanh những phương pháp tu hành 
					cho có hiệu quả, như niệm Phật, tham thiền chẳng hạn, để cho 
					tâm địa của họ được tăng trưởng công đức lành. 
					
					 
					 
					
					IV. Phương Pháp Quán 
					Từ Bi    
					
					Trong các đoạn trên, 
					chúng ta đã phân tách ý nghĩa và tác dụng của từ bi.Chúng ta 
					đã thấy được giá trị tốt đẹp và lớn lao của từ bi. Ðến đây 
					chúng ta hãy đề cập đến vấn đề: "làm thế nào để huân tập 
					được lòng từ bi".   
					
					Một trong những phương 
					pháp hiệu nghiệm để huân tập được lòng từ bi là "quán từ 
					bi". Quán Từ bi có ba từng bậc thấp cao, tùy theo căn cơ của 
					ba hạng tu hành:   
					
					1. Chúng sinh duyên 
					từ. Pháp quán này thường dành cho hạng tu Tiểu Thừa thực 
					hành.   
					
					Chúng sinh duyên từ, 
					nghĩa là lòng từ bi do quán sát cảnh khổ của chúng sinh mà 
					phát khởi.   
					
					Chúng sinh tức là muốn 
					nói đến những hạn còn đang say mê, chìm đắm trong bể khổ 
					sanh tử, còn đang trói mình trong vòng phiền não nhiễm ô. 
					Chẳng hạn như loài địa ngục bị hành phạt đủ điều, ngạ quỷ bị 
					đói rách bứt bách, súc sanh bị cảnh dao thớt hành hình, A tu 
					la đấu tranh, chém giết. Ðến như chúng sinh ở cõi trời tuy 
					vui thú, nhưng vẫn còn bị ngũ suy tướng hiện, luân hồi, đọa 
					lạc như thường. Mà vẫn hơn hết là loài người, cũng chịu 
					không biết bao nhiêu là cảnh khổ, từ vật chất đến tinh thần, 
					từ cá nhân đến đoàn thể. Nhất là đối luật vô thường: sanh, 
					già, bịnh, chết, chưa ai thoát khỏi được. Ðã không thoát 
					được mà lại còn vô tình đi gây chuốc thêm lấy khổ, lắm khi 
					cứ quên mất cái tuổi già, mối ngày mỗi chồng chất, thật đáng 
					thương hại !   
					
					Vậy, đứng trước những 
					cảnh khổ của chúng sinh, người Phật tử phải làm như thế nào? 
					Phải phát lòng từ bi !Nhưng làm sao cho lòng từ bi ấy được 
					phát?   
					
					Ðức Phật có dạy chúng 
					ta phải quán sát tất cả chúng sinh trong lục đạo, mười 
					phương đều như bà con thân thuộc. 
					 
					
					Ðây là phương pháp đầu 
					tiên để hòa hợp với mọi chúng sinh. Dùng cảm tình mà tập 
					quán Từ bi. Trước kia, chúng ta có thói quen là cái gì ngoài 
					"ta" thì ít khi quan tâm đến. Giờ đây, quán từ bi tức là 
					chúng ta đã phá bỏ cái vỏ ích kỷ hẹp hòi ấy mà giác ngộ và 
					nhận định rằng:   
					
					Thế giới của loài người 
					chúng ta đang ở đây, tỷ như một cái nhà lớn, nơi sum họp và 
					đoàn kết của đại gìa đình. Vẫn biết rằng nhân loại khác nhau 
					về màu da, chủng tộc; những cái khác đó chẳng qua là khác về 
					bề ngoài, chứ đã là người thì ai ai cũng có một thân hình 
					xương thịt như nhau cũng đồng sợ khổ ưa vui, biết xấu biết 
					tốt v.v...Vì thế đối với người lớn tuổi, ta phải kính trọng 
					như ông bà cha mẹ; người ngang hàng hay tuổi xấp xỉ, xem như 
					anh chị em ruột thịt; người nhỏ tuổi hơn nữa xem như con cái 
					cháu chắt...   
					
					Rộng ra một tầng nữa, 
					đối với chúng sinh trong năm loại, chúng ta hãy xem như 
					những thành phần của đại gia đình là chú, bác, cô, dì...Vẫn 
					biết rằng về hình thức, loài người khác với loài khác, và 
					nhiều khi ta không gặp mặt nữa, nhưng xét cho cùng, đã là 
					chúng sinh, thì tất nhiên đồng chung một nguồn sống, và đã 
					có sống thì tất nhiên đều ham sống sợ chết, đều biết cảm nỗi 
					vui sướng và khổ đau. Gần với chúng ta nhất mà chúng ta có 
					thể thấy, gặp và nhờ cậy được là loài súc sinh. Tuy chúng 
					không biết nói như chúng ta, nhưng nếu chúng ta đối đãi tử 
					tế, chúng cũng biết thương mến và trung thành với ta. Tuy 
					không có học thức, chúng vẫn biết nghe lời ta và giúp đỡ ta 
					trong nhièu công việc nặng nề. Chẳng qua vì nghiệp nặng, nên 
					đời này chúng làm súc vật, nhưng biết đâu đời trước, chúng 
					không phải là anh em của ta? Và sau này, biết đâu chúng lại 
					không sẽ là bà con quyến thuộc của ta? 
					 
					
					Phương pháp tu tập của 
					Tiểu Thừa này tuy chưa phá được ngã chấp, những cũng đã mở 
					rộng được phạm vi hẹp hòi của cái ngã nhỏ và thể nhập vào 
					cái ngã to hơn là đại gia đình; rồi từ cái ngã to tình cảm 
					ấy, sẽ chuyển dần sang giai đoạn lý trí cao siêu hơn, bằng 
					phép quán "Pháp duyên từ" sau đây. 
					 
					
					2. Pháp duyên từ. 
					Pháp duyên từ là lòng từ bi do duyên "Pháp tánh" mà phát 
					khởi. Ðây là pháp quán dành cho các bậc Trung thừa. 
					 
					
					Hành giả trong khi tu 
					pháp môn này, quán sát thấy tất cả chúng sinh, cùng mình đều 
					đồng một "pháp giới tánh", nên chúng sinh đau khổ là mình 
					đau khổ; vì vậy hành giả khởi lòng từ bi cứu khổ ban vui cho 
					tất cả chúng sinh. Ðến địa vị này, các Ngài không còn phân 
					biệt là nam hay nữ, không còn quan niệm mình khác với người, 
					không nghĩ rằng đó là bà con quyến thuộc, chỉ thấy mình cùng 
					người đồng một "pháp giới tánh" mà thôi. Bồ Tát đã nhận 
					chúng sinh và mình đồng một bản thể, nên khi cứu khổ, không 
					cần biết đó là ai, và khi làm, không chấp mình đã làm. Chúng 
					sinh có khổ thì Bồ Tát có Bi. Sự thông cảm tự nhiên ấy như 
					tình thiêng liêng giữa mẹ và con, hễ có cảm là có ứng, như 
					tánh sốt sắng của vị y sĩ có lương tâm nhà nghề, hễ thấy 
					bịnh thì liền trị. Với ý nghĩa này, trong kinh Trung A Hàm 
					có tỷ dụ: Trước một nạn nhân bị trúng tên độc, lấy ra lập 
					tức. Ông không cần phải hỏi người ấy tên gì, ở đâu, con ai, 
					cũng không cần coi cây tên ấy làm bằng gì, ai bắn v.v... 
					 
					
					Sự cứu khổ cho chúng 
					sinh, đối với các vị Bồ Tát đã chứng được "pháp duyên từ" 
					này cũng như thế, chỉ nhằm mục đích làm sao cho kẻ khác hết 
					khổ được vui mà thôi.  
					 
					
					3. Vô duyên từ. 
					Trong phạm vi bài này, chúng ta chỉ nên học qua hai hạng từ 
					bi trên mà thôi, là: Lòng từ bi do duyên mình với chúng sinh 
					khổ sở mà phát ra, hay do duyên mình và chúng sinh đống một 
					thể tánh mà phát khởi. Còn loại từ bi thứ ba tức là "Vô 
					duyên từ" là một loại cao siêu đặc biệt của Ðại Thừa, chúng 
					ta chưa đủ căn cơ, trình độ tu tập. Tuy nhiên, để có một ý 
					niệm đầy đủ về lòng từ bi , chúng ta cũng nên biết qua về 
					loại này.   
					
					Vô duyên từ, là lòng từ 
					bi không có tâm năng duyên và cảnh bị duyên, không còn dụng 
					công, không còn quan sát, đối đãi giữa mình với người, mình 
					và vật như hai thứ từ bi trước. Lòng từ bi này xứng theo thể 
					tánh chơn tâm mà tự khởi ra bao la, trùm khắp, không thiên 
					lệch một nơi nào. Cũng như ánh sáng mặt trời chiếu khắp cả 
					gần xa, không phân biệt thấp cao, không chú ý một nơi nào, 
					chiếu soi tất cả một cách vô tư và không dụng công. 
					
					 
					 
					
					V. Lợi Ích Của Pháp 
					Quán Từ Bi    
					
					Có người lo rằng nếu ai 
					cũng từ bi thì sẽ trở thành nhu nhược, dân tộc sẽ yếu hèn, 
					và sự tham tàn bóc lột sẽ lừng lẫy v.v... 
					 
					
					Lo như thế là quá lo xa 
					mà thành ra không thực tế. Từ xưa đến nay, loài người không 
					phải khổ sở vì quá từ bi, xã hội không phải yếu hèn, đảo 
					điên vì tình thương quá rộng lớn. Trái lại, sự đau khổ của 
					cá nhân cũng như của đoàn thể, một phần rất lớn là do lòng 
					người còn độc ác. Một nhận xét không ai có thể chối cãi được 
					là một xã hội càng văn minh thì lòng ác độc càng bớt, tình 
					thương càng tăng thêm, hay ngược lại, tình thương càng tăng, 
					hay ác độc càng giảm, thì xã hội càng văn minh, hạnh phúc. 
					Hãy khoan lo sợ từ bi làm cho con người mềm yếu, mà chỉ nên 
					lo sợ, nếu sự thù hằn, độc ác không giảm, thì loài người 
					chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. 
					 
					
					Khái lược theo kinh 
					Tăng Nhất A Hàm thì quán Từ bi sẽ được những lợi ích như 
					sau:   
					
					a) Khi thức hay ngủ đều 
					được an vui   
					
					b) Hiện tại được nhiều 
					người thương   
					
					c) Sống trong đời 
					không bị tai nạn trộm cướp 
					 
					
					Nhưng thực hành pháp 
					quán từ bi , không phải chỉ để cho chúng ta cầu những quả 
					báo lợi ích riêng cho mình, và có bấy nhiêu đó. Mục đích 
					chúng ta tu là cốt làm sao chúng ta và mọi chúng sinh trong 
					lục đạo đều khỏi khổ được vui. Lẽ tất nhiên, trong khi tu 
					chúng ta sẽ:   
					
					Trừ được lòng sân hận 
					độc ác   
					
					Dẹp được ngã chấp hẹp 
					hòi   
					
					Ðoàn kết được với mọi 
					người   
					
					Ðời sống cá nhân và 
					đoàn thể nhờ thế được vui vẻ, có ý nghĩa.  
					
					  
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Từ bi là một phương 
					thuốc trị tâm sân hận. Sân hận là đầu mối sát hại ghê gớm, 
					là cái chìa khóa của tất cả kho tội lỗi. trừ được nó tức là 
					trừ được chết chóc, và dập tắt được cái ngòi biến loạn. Bao 
					nhiêu súng đạn và nhất là bom nguyên tử sẽ trở thành vô 
					dụng. Trong nhân loại, không còn ai là cừu địch không còn có 
					giai cấp bóc lột, đấu tranh. Ai cũng là người đáng thương, 
					đáng giúp đỡ. Giữa người và người, giữa người và vật sẽ có 
					một sự liên lạc, đoàn kết mật thiết. Con người sẽ vô cùng 
					sung sướng khi thấy xung quanh mình đều là bà con quyến 
					thuộc, bốn biển đều là anh em và cùng chan hòa trong Phật 
					tánh.  
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 4
					 
					Quán 
					Nhân Duyên 
					
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Người đời, vì không 
					hiểu sự vật trong vũ trụ này từ đâu mà có, cho nên sanh ra 
					nhiều quan niệm sai lầm. Có người nghĩ rằng vũ trụ do tự 
					nhiên sanh. Có người lại nghĩ vũ trụ do một vị thần toàn 
					trí, toàn năng tạo ra v.v... 
					 
					
					Theo Ðạo Phật thì vũ 
					trụ là vô thỉ, nghĩa là không có điểm khởi đầu, và mọi sự 
					mọi vật trong vũ trụ không thể đứng riêng một mình mà có 
					được; trái lại, phải nương nhờ nhau mà thành. Nói một cách 
					khác, từ vật lớn cho đến vật nhỏ, từ vât hữu hình cho đến vô 
					hình, đều không ngoài nhân duyên mà có. Vì thế, trong kinh 
					Phật thường nói: "Chư pháp tùng duyên". 
					 
					
					Sự hiện hữu của loài 
					hữu hình, hay nói riêng của loài người, cũng không ngoài 
					công lệ ấy được. Muốn hiểu rõ một cách tường tận cái guồng 
					máy của sự sanh tử luân hồi của kiếp người trong bể khổ trần 
					gian, chúng ta cần phải học lý "Thập nhị nhân duyên". Sau 
					khi hiểu rõ lý thập nhị nhân duyên, chúng ta lại còn phải 
					tìm hiểu phương pháp để dứt trừ cái vòng lẩn quẩn sanh tử 
					luân hồi nữa.   
					
					Muốn hiểu và dứt trừ 
					cái vòng sanh tử luân hồi, chúng ta phải học và thực hành 
					pháp quán nhân duyên, mà chúng tôi xin trình bày trong bài 
					giảng này. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Sao gọi là "Nhân 
					duyên"? Nhân là nguyên nhân, chỉ cho những sự vật chính đó 
					là nhân, trực tiếp sanh ra một vật khác, như hạt lúa làm 
					nhân sanh ra cây lúa. Duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật 
					gì có tánh cách trợ gíup trực tiếp hay gián tiếp cho vật 
					khác được thành. Như phân, nước, ánh sáng, nhân công...là 
					trợ duyên giúp cho hạt lúa được thành cây lúa. Vậy nhân 
					duyên là chỉ cho các vật làm nhân cho nó mà cũng vừa là trợ 
					duyên cho tất cả vật chung quanh nó. 
					 
					
					Chữ "Nhân duyên" lại có 
					nghĩa thứ hai: Các vật đều là "nhân", các "nhân" đó "duyên" 
					với nhau mà thành ra các vật khác. Như vôi, gạch, ngói, gỗ 
					v.v...là nhân, các nhân này duyên nhau (nương giúp) mà thành 
					ra cái nhà. Vì các pháp trùng điệp nhiều lớp làm duyên cho 
					nhau, mà thành ra vật thế này hay thế khác, nên trong kinh 
					chép: "Chư pháp trùng trùng duyên khởi". 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Của 
					Nhân Duyên    
					
					Ðoạn trên đã nói: "Các 
					pháp do nhân duyên hòa hợp sanh". Vậy những nhân duyên gì 
					sanh ra loài hữu tình", là những nhân duyên sau đây: 
					 
					
					1. Vô minh, 2. Hành, 3. 
					Thức, 4. Danh sắc, 5. Lục nhập, 6. Xúc, 7. Thọ, 8. Ái, 9. 
					Thủ, 10. Hữu, 11. Sanh, 12. Lão tử. 
					 
					
					1. Vô minh có nhiều 
					nghĩa và nhiều loại:  
					 
					
					a) Theo Ðại Thừa giải 
					thích: "Không tỏ ngộ chân tâm gọi là vô minh" (Bất giác đệ 
					nhất nghĩa đế, vị chi vô minh). 
					 
					
					b) Thông cả Ðại Thừa và 
					Tiểu Thừa giải thích: "Hiểu biết các pháp không đúng như 
					thật (hiểu sai lầm), nên gọi là vô minh" (Bất như thật tri 
					chư đế lý, vị chi vô minh); như vô ngã mà chấp thật ngã, vô 
					pháp mà chấp thật pháp v.v... 
					 
					
					c) Ngoài ra, còn những 
					nghĩa thông thường như: vô minh là không sáng, tối tăm, mờ 
					ám, si mê v.v...   
					
					Vô minh, lại có khi để 
					chỉ các phiền não như tham, sân, si. Xưa có người đến chùa 
					hỏi:   
					
					Thế nào là vô minh? 
					 
					
					Tổ sư trả lời: 
					 
					
					Quê mùa dốt nát đến 
					thế, cũng đến chùa hỏi đạo lý ! 
					 
					
					Ông khách nổi giận, mặt 
					mày đỏ bừng...Tổ sư nói tiếp: 
					 
					
					Vô minh là đó (chỉ cái 
					sân), đó là vô minh.  
					 
					
					Vô minh có khi chỉ 
					riêng cho Si tâm sở. Như nói "độc hành vô minh" hay "tương 
					ưng vô minh" là đều chỉ riêng cho "si tâm sở": Khi nó khởi 
					riêng một mình, hoặc chung cùng với phiền não, tham, sân 
					v.v...   
					
					Vô minh lại phân ra hai 
					loại: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Như trong mười hai 
					nhân duyên, cái "vô minh" đầu là căn bản, vì nó là gốc sanh 
					ra các vô minh sau; còn "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. 
					Trong tứ hoặc, thì kiến hoặc, tư hoặc, trần sa hoặc là chi 
					mạt vô minh; còn vô minh hoặc là căn bản vô minh. Trong ngũ 
					trụ địa, thì kiến nhất xứ trụ địa, dục ái trụ địa , sắc ái 
					trụ địa và hữu ái trụ địa là chi mạt vô minh, còn vô minh 
					trụ địa là căn bản vô minh. 
					 
					
					Nói chung lạu, tất cả 
					phiền não, hoặc thô, hoặc tế của Ðại Thừa hay Tiểu Thừa, có 
					tánh cách làm cho chân tâm bị ẩn, gương trí tuệ lu mờ thì 
					gọi là vô minh.   
					
					2. Hành là hành động 
					, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, 
					khẩu, ý, tạo tác ra các nghiệp lành hay dữ nên gọi là 
					"hành".   
					
					3. Thức là thần 
					thức, chỉ cho phần tinh thần. Do thân, khẩu, ý, ba 
					nghiệp tạo tác những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, 
					các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo (thân) khổ 
					hay vui ở đời sau.   
					
					4. Danh sắc là thân 
					thể. Trong thân thể người có hai phần: 
					 
					
					a) Phần tinh thần (tâm) 
					chỉ có tên kêu gọi, chứ không có hình sắc nên gọi là 
					"danh".   
					
					b) Phần thể chất có 
					hình sắc, nên gọi là "sắc". 
					 
					
					5. Lúc nhập, gọi nôm 
					na là sáu chỗ vào. Khi đã có thân thể rồi, cố nhiên phải 
					có sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) là chỗ của sáu 
					trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) phản ảnh vào, nên 
					gọi là "lục nhập".   
					
					6. Xúc là tiếp xúc. 
					Trong sáu căn, ngoài sáu trần thường gặp gỡ tiếp xúc với 
					nhau, như mắt tiếp xúc với sắc, tai tiếp xúc với tiếng, mũi 
					tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp xúc với ấm 
					lạnh, trơn nhám, ý tiếp xúc với pháp trần. 
					 
					
					7. Thọ là lãnh thọ. 
					Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, rồi lãnh thọ những cảnh 
					vui hay buồn, sướng hay khổ, hay cảnh bình thường. 
					 
					
					8. Ái là ưa muốn. 
					Khi lãnh thọ cảnh vui thì sinh lòng tham, muốn làm sao cho 
					được, khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu, muốn 
					xa lìa, gặp cảnh binh thường thời si mê. Ðây là cái động cơ 
					thúc đẩy thân, khẩu, ý, tạo tác các nghiệp. 
					 
					
					9. Thủ là giữ lấy, 
					tìm cầu; nói rộng ra là các hành động tạo tác. Do gặp 
					cảnh thuận thì tham cầu, gặp cảnh nghịch lại sân, si muốn xa 
					lìa; mục đích là muốn tìm phương này kế nọ để bảo thủ cho 
					được bản ngã của mình. Do đó mà tạo ra các nghiệp sanh tử. 
					 
					
					10. Hữu là có. 
					Vì đời này đã có nhân lành hay dữ do mình tạo ra, thì đời 
					sau quyết định phải "có" quả khổ hay vui mà mình phải thọ 
					nhận.   
					
					11. Sanh. Là sanh 
					ra. Do "ái, thủ, hữu" làm nhân hiện tại tạo ra các 
					nghiệp, cho nên qia đời sau, phải sanh ra đời để thọ quả 
					báo.   
					
					12. Lão, tử. Là 
					già, chết. Ðã có sanh ra, tất nhiên phải chịu các khổ già và 
					chết v.v...   
					
					Mười hai nhân duyên này 
					liên quan mật thiết với nhau, vừa làm quả cho nhân trước, 
					vừa làm nhân cho quả sau, nối tiếp không dứt trong thời gian 
					và làm cho chúng sinh phải mãi mãi xoay tròn trong vòng sanh 
					tử. 
					
					 
					 
					
					III. Phương Pháp 
					Quán    
					
					Phương pháp quán mười 
					hai nhân duyên có thể chia làm hai phần là: quán Lưu chuyển 
					và quán Hoàn diệt.   
					
					1. Quán lưu chuyển. 
					Là quán sát trạng thái sanh khởi và luân lưu của mười hai 
					nhân duyên. Sự quán sát này có ba loại: 
					 
					
					a) Quán sát, trạng thái 
					sanh khởi của mười hai nhân duyên trong quá khứ xa xôi, từ 
					vô thỉ. Từ vô thỉ, vì vô minh vọng động, làm cho bản tâm 
					thanh tịnh phản uẩn khuất, như mây áng nên trăng mờ (vô 
					minh), do đó, các vọng động từ từ sanh khởi (hành), thành ra 
					có tâm (thức) và cảnh, đủ cả thế giới và chúng sinh (danh 
					sắc); trong thân chúng sinh có sáu căn là chỗ của sáu trần 
					thường pảhn ảnh vào (lục nhập), rồi căn, trần thường tiếp 
					xúc (xúc) nhau sanh ra cảm thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa 
					(ái), vì ưa mới giữ (thủ); do đó mà có (hữu) sanh (sanh) và 
					già, chêt (lão, tử).  
					 
					
					Ðây là nói về trạng 
					thái của mười hai nhân duyên từ vô thỉ, do vô minh vọng 
					động, tạo tác mà có thế giới và chúng sinh, rồi cứ như thế, 
					tiếp tục sanh khởi cho đến ngày nay, và mãi mãi về sau 
					v.v...   
					
					b) Quán sát trạng thái 
					lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong ba đời: quá khứ, 
					hiện tại, vị lai. Ðây là quán sát sự xoay vần của mười hai 
					nhân duyên trong thời gian từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện 
					tại đến vị lai. Mười hai nhân duyên cũng như sợi dây chuyền 
					có mười hai vòng, vòng này móc vào vòng kia, vòng kia móc 
					vào vòng nọ, nối tiếp nhau không có mối manh, và liên quan 
					cả ba đời: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng trong quá khứ vô 
					minh và hành (căn bản vô minh) làm nhân, sinh ra quả hiện 
					tại (thân đời này) là "thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ"; 
					quả hiện tại (thân đời này) trở lại tạo nhân (trong hiện 
					tại) là "ái, thủ, hữu" (chi mạt vô minh); nhân hiện tại lại 
					sẽ thành quả vị lai (thân đời sau) là "sanh, lão, tử). Nói 
					tóm lại, do mê hoặc (vô minh) nên tạo nghiệp (hành), vì tạo 
					nghiệp nên chịu quả khổ, nhân chịu quả khổ, rồi lại mê hoặc 
					tạo nghiệp v.v...nhân sanh quả, quả lại sanh nhân, nối tiếp 
					trong ba đời, quanh quẩn trong sáu đường sanh tử luân hồi, 
					như cái bánh xe lăn tròn trên sợi dây. Chỉ có khác là bánh 
					xe thật thì chỉ có một cái và biến đổi rất chậm chạp; còn 
					bánh xe mười hai nhân duyên thì vừa chạy tới mà vừa biến 
					đổi, luôn luôn hoại và thành, thành và hoại...liên tiếp 
					trong ba đời; quá khứ, hiện tại và tương lai. 
					 
					
					c) Quán sát sự sanh 
					khởi và lưu chuyển của mười hai nhân duyên trong một niệm 
					của hiện tại. Nếu lấy một khoảng thời gian ngắn trong hiện 
					tại để quán sát, hành giả cũng có thể thấy được sự sanh khởi 
					và lưu chuyển của mười hai nhân duyên, chứ không cần phải 
					quán sát ba đời. Nhưng khi đối cảnh, không rõ các pháp đều 
					là lưu chuyển (vô minh) mà khởi vọng niệm (hành) phân biệt 
					(thức) các cảnh vật (sắc); rồi trần cảnh lại phản ảnh vào 
					căn (lục nhập), căn lại tiếp xúc (xúc) với trần, sanh ra 
					lãnh thọ (thọ), nhân thọ sanh ra ưa muốn (ái), tím cầu 
					(thủ), do đó tạo ra các nghiệp (hữu) rồi theo nghiệp thọ quả 
					báo (sanh, lão, tử).  
					 
					
					Phân tách ba pháp quán 
					trên, hành giả sẽ rút ra những nhận xét sau đây: 
					 
					
					Trong mười hai nhân 
					duyên, có hai nhóm làm nhơn và hai nhóm làm quả: Một nhóm 
					nhân quá khứ (gồm có vô minh và hành) và một nhóm nhân hiện 
					tại (gồm có sanh, lão, hữu). 
					 
					
					Về phía quả, thì có một 
					nhóm quả hiện tại (gồm có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, 
					thọ) và một nhóm quả vị lai (gồm có sanh, lão tử). 
					 
					
					"Vô minh, hành" là căn 
					bản vô minh, "ái, thủ, hữu" là chi mạt vô minh. Có thể nói 
					"vô minh, hành" là cái biệt hiệu của "ái, thủ, hữu", còn 
					"thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ" là cái dị danh của 
					"sanh, lão, tử". Nói như thế là vì, nếu ta đổi qua tráo lại, 
					sẽ thấy rõ: trong "ái, thủ, hữu", có "vô minh và hành", còn 
					trong "sanh, lão, tử" có "thức, danh sắc, lục nhập, xúc, 
					thọ".   
					
					Vô minh thuộc về 
					"hoặc"; 
					hành thuộc về 
					"nghiệp"; thức, 
					danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thuộc về 
					"khổ"; 
					ái thuộc về 
					"hoặc"; thủ, hữu 
					thuộc về 
					"nghiệp"; sanh, 
					lão, tử thuộc về 
					"khổ". 
					
					 
					 
					
					HOẶC 
					 
					  
					Khổ Nghiệp 
					 
					
					Xem bản đồ: 
					 
					
					12 nhơn duyên liên quan 
					3 đời nhơn quả   
					
					1. NHƠN (quá khứ) 
					 
					1. Vô minh 
					(hoặc)   
					2. Hành (nghiệp 
					 
					
					Căn bản vô minh (có ái 
					thủ, hữu)   
					
					2. QUẢ (hiện tại) 
					 
					
					1. Thức 
					 
					2. Danh sắc 
					 
					3. Lục nhập 
					 
					4. Xúc 
					 
					5. Thọ 
					 
					
					(khổ) Thân hiện tại 
					 
					
					3. NHƠN (quá khứ) 
					 
					
					1. Ái (hoặc) 
					 
					2. Thủ (nghiệp) 
					 
					3. Hữu 
					 
					
					Chi mạt vô minh (có vô 
					minh, hành)   
					
					2. QUẢ (vị lai) 
					 
					
					1. Sanh 
					 
					2. Lão, tử 
					(khổ)   
					
					Thân vị lai 
					 
					
					2. Quán hoàn diệt. 
					Là quán sát sự tiêu diệt của mười hai nhân duyên. Có hai 
					cách quán:   
					
					a) Diệt vô minh gốc rễ 
					(căn bản vô minh). Trong phần quán sát trên, hành giả đã 
					thấy rõ: do vô minh mà có hành, do hành mà có thức v.v...Vậy 
					thì bây giờ, nếu ta diệt vô minh, thì hành sẽ bị diệt, hành 
					bị diệt thì thức cũng không có v.v...Hay nói một cách khác: 
					do "mê hoặc" nên tạo "nghiệp", do tạo nghiệp nên mới chịu 
					quả "khổ". Vậy muốn hết khổ, lẽ tất nhiên là phải diệt 
					nghiệp, muốn dứt nghiệp trước phải trừ vô minh. 
					 
					
					Trừ căn bản vô minh có 
					hai cách:   
					
					Ðối với các bậc Ðại 
					Thừa Bồ Tát, vì thấy rõ thể tánh chân tâm do vô minh vọng 
					động mà có thế giới chúng sinh, ngã và pháp, nên các Ngài 
					dùng trí Bát nhã phá trừ "sinh tướng vô minh", để trở lại 
					với bản thể chân tâm. Khi đã ngộ được chân tâm rồi, thì tất 
					cả sanh tử luân hồi đều hết. Như trong Bát nhã Tâm kinh có 
					chép: "Ngài Quán tự tại Bồ Tát khi đi sâu vào trí Bát nhã Ba 
					la mật đa rồi, thì thấy tất cả năm uẩn đều không, nên khỏi 
					các điều khổ ách...". Hay như trong kinh Lăng Nghiêm có 
					chép: "Ðối với người tỏ ngộ được chơn tâm, thì mười phương 
					thế giới đều tiêu hết".  
					 
					
					Ðối với người không thể 
					phá trừ ngay được căn bản vô minh để trực ngộ chân tâm, thì 
					phải lần hồi trải qua vô số kiếp tu hành, khi đến địa vị 
					Ðẳng giác, dùng trí Kim cang phá trừ được "sanh tướng vô 
					minh", mới chứng quả Diệu giác (Phật ). 
					 
					
					b) Diệt vô minh ngành 
					ngọn (chi mạt vô minh). Ðối với hàng phàm phu và Tiểu Thừa, 
					căn cơ thấp hẹp, thì không thể trực tiếp phá trừ vô minh gốc 
					rễ như hai bậc trên, mà chỉ có thể phá trừ vô minh ngành 
					ngọn là "ái, thủ, hữu". Khi ngành ngọn đã bị chặt rồi, thì 
					gốc rễ dần dần bị tiêu diệt, như bụi tre mà bị xắn hết cả 
					măng, thì sẽ phải tàn rụi. 
					 
					
					Diệt trừ vô minh ngành 
					ngọn cũng gồm hai phương diện. 
					 
					
					Quán lý: Là dùng lý lẽ 
					để nhận thấy rằng các pháp chỉ do nhân duyên hòa hợp mà sanh 
					ra, chứ không có thật (không hữu); bởi không có thật, nên 
					không nên tìm cầu chấp thủ (không thủ). Ðã không chấp thủ, 
					thì cũng không tham muốn (không ái). Nghĩa là bắt đầu quán 
					"hữu", rồi đến "thủ", rồi cuối cùng là "ái". Nếu ba cái nhân 
					này không có, thì cái quả "sanh, lão, tử" cũng chẳng có. 
					 
					
					Quán sự: Là y theo sự 
					tướng mà quán sát rồi thực hành. Hành giả bắt đầu quán "ái" 
					trước, rồi đến "thủ" và "hữu". Kinh chép: "Hữu ái sinh 
					ưu, hữu ái sinh úy, vô sở ái nhạo hà ưu hà úy?". nghãi 
					là: Bởi có tham muốn thì có lo sợ. Vì khi đối cảnh, sanh tâm 
					tham muốn (ái), nên mới tạo tác ra các nghiệp (thủ), do đó 
					phải chịu sanh tử luân hồi (hữu). Bấy giờ, nếu đối cảnh 
					không tham ưa (không ái), thì chẳng tìm cầu chấp thủ ( không 
					thủ), vì không chấp thủ nên chẳng có sanh tử luân hồi (không 
					hữu). Cũng như trong kinh Lăng nghiêm Phật dạy: "..Chỉ khi 
					các ông đối cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt, thì tham, 
					sân, si chẳng khởi; tham, sân, si không khởi thì sát, đạo, 
					dâm, vọng không sanh...". 
					 
					
					Tóm lại, mê hoặc hết 
					(ái) thì nghiệp chẳng có (thủ), nghiệp không thì khổ chẳng 
					còn (hữu).   
					
					Trong bốn cách trừ vô 
					minh, chỉ có pháp "quán sự" này dễ dàng và thiết thật nhất, 
					lại hợp với căn cơ của người tu hành hiện tại. 
					
					 
					 
					
					IV. Hiệu Quả Của 
					Pháp 12 Nhân Duyên   
					 
					
					Hành giả sau khi thành 
					tựu pháp quán mười hai nhân duyên này, thì sẽ trừ được tâm 
					si mê là nguyên nhân chính của khổ đau và luân hồi của chúng 
					sinh. Ðức Phật thường bảo: "Sự khổ ở tam đồ chưa hẳn là khổ, 
					chỉ có người thiếu trí huệ mới là khổ thôi". Xem thế thì đủ 
					biết trừ được tâm si mê và làm cho trí huệ được phát chiếu 
					là một điều quan trọng bậc nhất của kẻ tu hành. 
					 
					
					Hơn nữa, hành giả còn 
					nhờ pháp quán mười hai nhân duyên này mà sẽ chứng được quả 
					Duyên giác. Khi Phật chưa giáng sinh, cũng có nhiều vị tu 
					hành nhờ quán sát sự sanh hóa của vũ trụ mà được ngộ đạo. 
					Những vị ấy người ta thường gọi là Ðộc giả, nghĩa là tự 
					nghiên cứu một mình mà được giác ngộ. Ðến khi Phật giáng 
					sinh, chỉ dạy pháp quán nhân duyên nhiều người y theo pháp 
					quán này tu hành mà được giác ngộ, nên gọi là "Duyên giác" 
					(nghĩa là những vị giác ngộ nhờ quán mười hai nhân duyên). 
					 
					
					Chỗ giải thoát của quả 
					vị Duyên gíac và A La Hán đều giống nhau, nhưng về trí huệ 
					và thần thông thì quả Duyên giác cao hơn quả A La Hán. 
					 
					
					Sau đây là một thí dụ 
					về sự thành tựu pháp quán mười hai nhân duyên của hai vị đại 
					Ðệ tử của đức Phật Thích Ca , là Ngài Xá Lợi Phất và Ngài 
					Mục Kiền Liên, lượt thuật theo kinh Nhân quả: 
					 
					
					Ở thành Vương xá, có 
					hai người Bà la môn rấy thông minh trí huệ, một người tên là 
					Xá Lợi Phất và một người tên là Mục Kiền Liên. Hai người đều 
					tu theo ngoại đạo, có trên một trăm Ðệ tử , và có hứa hẹn 
					với nhau rằng, nếu ai nghe được pháp mầu trước, thì phải chỉ 
					dạy lại cho người kia.  
					 
					
					Một hôm, ông Xá Lợi 
					Phất đi đường, được nghe một vị Ðệ tử của Phật là Tỳ kheo A 
					Xá Bà Kỳ, giảng giải về đạo lý nhân duyên và tóm tắt lại 
					trong một bài kệ như sau: "Cội gốc của tất cả pháp là nhân 
					duyên sinh, không ai làm chủ, nếu ai hiểu được pháp này, thì 
					chứng được đạo chân thật" 1. 
					 
					
					Khi nghe xong, ông Xá 
					Lợi Phất liền xa lià trần cấu, chứng được đạo quả thanh 
					tịnh.   
					
					Lức trở về, ông Xá Lợi 
					Phất giảng nói lại cho ông Mục Kiền Liên nghe. Ông này nghe 
					xong, cũng chứng được đạo quả. Hai ông này liền đem 200 Ðệ 
					tử của mình, đến xin Phật cho xuất gia làm Ðệ tử. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Ðể độc giả có một ý 
					niệm chung về bài giảng này và dễ nhớ, chúng tôi xin tóm tắt 
					những yếu điểm sau đây:  
					 
					
					A. Tất cả sự vật không 
					một vật nào riêng biệt mà tồn tại được. Chúng phải nương tựa 
					vào nhau mới thành vật này hay vật khác. Ðó là lý nhân duyên 
					sanh, hay trùng trùng duyên khởi. Riêng về loài hữu tình như 
					kiếp người chẳng hạn, thì do mười hai nhân duyên nương nhau 
					mà thành một chuỗi sanh tử dài vô hạn, nối tiếp từ quá khứ 
					đến hiện tại và vị lai. Tùy theo cái tác dụng của nó mà mười 
					hai nhân duyên ấy có thể chia làm ba nhóm là: hoặc (mê mờ), 
					nghiệp (tạo tác) và khổ (kết qủa). 
					 
					
					B. Muốn dứt trừ chuỗi 
					sanh tử dài trong biển khổ đau của cõi tục, phải quán mười 
					hai nhân duyên. Pháp quán này có hai phần là quán lưu 
					chuyển và quán hoàn diệt: 
					 
					
					1. Quán lưu chuyển. 
					là quán hiện tượng sanh khởi và tiến triển của mười hai nhân 
					duyên từ vô minh, hành, thức..đến lão, tử. trong khi quán 
					lưu chuyển hành giả có thể chỉ quán sát sự sanh khởi và tiến 
					triển của mười hai nhân duyên trong quá khứ, trong hiện tại 
					hay cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai. 
					 
					
					2. Quán hoàn diệt. 
					Là quán theo phương pháp làm cho mười hai nhân duyên phải 
					tiêu diệt. Có hai pháp quán hoàn diệt: 
					 
					
					a) Một pháp dành cho 
					những bậc đại căn trí, như hạng Ðại Thừa Bồ Tát, đó là pháp 
					"diệt căn bản vô minh".  
					 
					
					b) Một pháp dành cho 
					những người căn cơ thấp thỏi như chúng ta, đó là pháp "diệt 
					chi mạt vô minh".   
					
					Pháp quán sau đây lại 
					chia ra làm hai là quán lý và quán sự: 
					 
					
					Quán lý: là quán các 
					pháp không thật có (hữu) nên không chấp thủ (thủ); bởi không 
					chấp thủ nên không tham ái (ái). 
					 
					
					Quán sự: là áp dụng cái 
					lý đã quán ở trên trong hoàn cảnh thực tại: Hành giả phải cố 
					gắng thực hiện sao cho khi đối cảnh không khởi tâm tham ái 
					(ái), nhờ không tham ái mới không tạo ác tìm cầu (thủ); do 
					không tìm cầu nên không có (hữu) thọ quả sanh tử về sau. 
					 
					
					Hành giả thành tựu được 
					pháp quán mười hai nhân duyên này thì sẽ dứt trừ được vô 
					minh, thoát khỏi sanh tử và chứng được quả vị Duyên giác. 
					 
					
					Cầu mong cho quí vị độc 
					gỉa thấu hiêu được chân giá trị của pháp quán này và tinh 
					tấn tu hành để đạt được quả vị qúy báu nói trên. 
					 
					
					Ghi Chú: Có chỗ nói bài 
					kệ như vầy:   
					
					"Chư pháp tùng duyên 
					sanh, diệc tùng nhân-duyên diệt, 
					 
					Ngã- Phật Ðại 
					Sa-Môn, thường tác như thị thuyết". 
					 
					
					Dịch nghĩa: 
					 
					
					Các pháp do nhân-duyên, 
					cũng do nhân-duyên diệt,   
					Ðức Phật của 
					chúng ta, thường dạy nói như vậy. 
					 
					
					Theo Ðại Thừa thì bài 
					kệ về nhân-duyên như vậy  
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 5
					 
					Quán 
					Giới Phân Biệt 
					
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Hầu hết người đời đều 
					tin rằng, mỗi người từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến chết và 
					cả sau khi chết nữa, đều có một linh hồn duy nhứt, bất biến 
					làm chủ tất cả ý nghĩa, hành động của mình. Nói theo thuật 
					ngữ Phật giáo thì tin như thế gọi là "ngã chấp", nghĩa là 
					tin có một ngã riêng biệt, tồn tại bất biến...Từ cái ngã 
					chấp ấy, mà sinh ra "ngã ái", nghĩa là thương yêu, chăm sóc, 
					gìn giữ cái ngã, bất chấp phải trái, hay dỡ; ngã mạn, nghĩa 
					là ngạo mạn, cho "cái ta" của mình là cao quý, tốt đẹp hơn 
					bao nhiêu "cái" khác, đối lập với tất cả những gì không phải 
					là ta hay trái ý với ta.  
					 
					
					Do sự chấp ngã ấy mà 
					cuộc sống đáng lẽ phải rộng rãi vô biên, trường tồn bất 
					diệt, lại bị ngăn cách chia xẻ, giam hãm trong những cái vỏ 
					cứng là "cái ta" riêng biệt; và người đời, hay nói rộng hơn, 
					tất cả chúng sinh đều phải sống, chết, quay cuồng, điêu 
					cứng, khổ đau vì cái ta riêng biệt mà họ tưởng là thuần 
					nhất, bất biến ấy.   
					
					Nhưng thật ra, có một 
					cái "Ta" như thế không? Nếu có, thì cái Ta ấy ở đâu? Trong 
					sáu căn hay trong sáu trần, hay trong sáu thức? Muốn hiểu rõ 
					vấn đề này một cách tường tận, chúng ta phải quán Giới phân 
					biệt là một trong Ngũ đình tâm quán. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Quán Giới phân biệt: 
					Giới có ý nghĩa là giới hạn, là phạm vi phân chia phần này 
					với phần khác, bộ phận này với bộ phận khác. Chẳng hạn như 
					trong vật chất người ta phân chia ra nhiều loại: loại màu 
					sắc, loại âm thanh, loại mùi vị v.v...Hay trong con người, 
					các bộ phận tiếp xúc với ngoại cảnh, như mắt, tai, mũi, 
					lưỡi...là những Giới riêng biệt. 
					 
					
					Trong thế giới Ta Bà 
					gồm những vật hữu hình và vô hình này, mặc dù có thiên hình 
					vạn trạng, nhưng theo triết lý của đạo Phật, thì có thể chia 
					ra làm mười tám giới (loại, phạm vi). Vận dụng trí tuệ để 
					quan sát, nhận định từng phạm vi, từng giới một trong mười 
					tám giới ấy, để xét xem thử có một cái ngã trường tồn bất 
					biến, duy nhất hay không, đó tức là quán Giới phân biệt. 
					
					 
					 
					
					II Phân Giải 18 
					Giới:   
					
					Mười tám giới có thể 
					phân ra ba loại lớn: Sáu căn, sáu trần và sáu thức. 
					
					 
					 
					
					1. Sáu căn: Căn 
					tức là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẩy nở, 
					phát sinh. Sáu căn ở đây tức là: nhãn căn, nhĩ căn, tỹ căn, 
					thiệt căn, thân căn và ý căn. 
					 
					
					a) Nhãn căn: tức là hai 
					con mắt, bộ phận để làm chỗ nương tựa cho sự nhận thấy của 
					người được rõ ràng, khi tiếp xúc với cảnh vật chung quanh. 
					 
					
					b) Nhĩ căn: tức là hai 
					lỗ tai, bộ phận làm chỗ phát sinh cho sự nghe biết của người 
					được rõ ràng, khi tiếp xúc với tiếng động ở chung quanh. 
					 
					
					c) Tỹ căn: tức là lỗ 
					mũi, bộ phận làm chỗ nương tựa cho sự ngửi biết được xác 
					thực, khi tiếp xúc với các mùi như thơm, thúi...ở chung 
					quanh.   
					
					d) Thiệt căn: tức là 
					cái lưỡi, bộ phận làm chỗ nương tựa của sự nếm biết của 
					người được rõ ràng khi tiếp xúc với các chất như chua, mặn 
					v.v...ở ngoại cảnh.   
					
					đ) Thân căn: tức là da 
					bao bọc thân người, bộ phận làm cho nhận biết được cảm giác, 
					nóng, lạnh, cứng, mềm của các vật chung quanh. 
					 
					
					Năm căn nay là năm bộ 
					phận thuộc về thể chất nằm ở bên ngoài, dễ tiếp xúc với 
					ngoại vật. Chúng có hình tướng do tứ đại hợp thành, có thể 
					thấy được, chỉ được, rờ mó được. Duy thức học liệt chúng về 
					nội căn sắc pháp. Nội căn sắc pháp này có thể phân tách ra 
					làm hai phần: phù trần căn và tịnh sắc căn. Phù trần 
					căn là chỉ cho hình tướng thô phù hiện ra bên ngòai, như 
					tròng mắt, vành tai, lưỡi đỏ v.v...Còn tịnh sắc căn là chỉ 
					cho phần ẩn phục của năm căn, tức là phần ứng dụng, phần 
					hoạt động, phần sống của năm căn. Nói một cách rõ ràng đơn 
					giản hơn, tức là những dây thần kinh hệ của con người vậy. 
					Phù trần thì thô thiển, tinh sắc lại tế ẩn. Nếu hai phần này 
					rời nhau, năm căn sẽ vô dụng. 
					 
					
					e) Ý căn: tức là bộ 
					phận để cho sự phân biệt phát sinh, tức là thức thứ Bảy. 
					Phần này rất tinh tế thuộc về phần tinh thần. Cho nên không 
					có hình sắc như năm căn trước. 
					
					 
					 
					
					2. Sáu trần. 
					Trần, nghĩa đen là bụi. Bụi thì nhơ nhớp luôn luôn dời đổi 
					lăng xăng, tụ tán không chừng. Nghĩa bóng, trần tức là chỉ 
					cho phần vật chất, cảnh vật chung quanh con người. Sáu trần 
					là: sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và 
					pháp trần.   
					
					a) Sắc trần: là sáu 
					sắc, đường nét hình dáng, những gì mà mắt có thể thấy được. 
					 
					
					b) Thanh trần: là tiếng 
					do vật hữu hình hay vô hình phát ra, nghĩa là những tiếng mà 
					tai nghe được.   
					
					c) Hương trần: là mùi 
					do vật hữu hình hay vô hình bốc lên, tỏa ra, vật mà mùi ngửi 
					được.   
					
					d) Vị trần: là chất 
					trong vật hữu tình hay vô tình, vậy mà lưỡi nếm được. 
					 
					
					đ) Xúc trần: là những 
					thứ mềm, cứng, trơn, nhám...của vật hữu tình hay vô tình, 
					những vật mà thân tiếp xúc được. 
					 
					
					e) Pháp trần: là những 
					hình ảnh, màu sắc, hương vị.. trừu tượng của năm trần lưu 
					lại sau khi đã năm căn duyên, chính là cảnh bị duyên của ý 
					căn. Màu sắc tiếng tăm, hương vị ở đây không phải là vật 
					thật của ngoại cảnh mà chỉ là những hình bóng, âm vang...của 
					ngoại cảnh sau khi đã lọt qua năm giác quan, và đang bị ý 
					căn duyên.   
					
					Chúng ta có thể làm một 
					thí dụ tho thiển sau đây cho dễ hiểu: 
					 
					
					Sắc trần dụ như cảnh 
					vật bên ngoài.   
					
					Nhãn trần dụ như cái 
					máy quay phim.   
					
					Pháp trần dụ như những 
					hình ảnh đã giữ được trong cuốn phim. 
					 
					
					Ý căn dụ như người xem 
					hình trong cuốn phim chiếu lên. Có thể làm một thí dụ thứ 
					hai sau đây:   
					
					Thanh trần dụ như các 
					tiếng hát của một ca sĩ.  
					 
					
					Nhĩ căn dụ như cái máy 
					ghi âm.   
					
					Pháp trần dụ như cuốn 
					băng nhựa đã ghi âm.  
					 
					
					Ý căn dụ như người nghe 
					tiếng do cái máy phát ra. 
					
					 
					 
					
					3. Sáu thức. 
					thức là sự phân biệt, hiểu biết, phán đoán do sáu căn tiếp 
					xúc với sáu trần mà phát sinh. Nó thuộc về tâm pháp (vô 
					hình). Sáu thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt 
					thức, thân thức và ý thức. 
					 
					
					a) Nhãn thức: là sự 
					phân biệt, hiểu biết do nhãn căn tiếp xúc với sắc trần mà 
					phát sinh.   
					
					b) Nhĩ thức là sự phân 
					biệt hiểu biết do nhĩ căn tiếp xúc với thanh trần phát 
					sinh.   
					
					c) Tỹ thức là sự phân 
					biệt hiểu biết do tỹ căn tiếp xúc với hương trần mà phát 
					sinh.   
					
					d) Thiệt thức là sự 
					phân biệt do thiệt căn tiếp xúc với vị trần mà pháp sinh. 
					 
					
					đ) Thân thức là sự phân 
					biệt, hiểu biết do thân căn tiếp xúc với xúc trần mà phát 
					sinh.   
					
					e) Ý thức là sự phân 
					biệt, hiểu biết, phê phán do ý căn tiếp xúc với pháp trần mà 
					phát sinh.   
					
					Chúng ta có thể làm một 
					thí dụ cụ thể sau đây cho dễ nhận: 
					 
					
					Sáu thức như một hội 
					đồng giám khảo của cuộc thi thì về văn nghệ, nữ công và gia 
					chánh. Hội đồng này gồm có sáu người: Một ông chủ tịch và 
					năm hội viên chuyên môn về năm ngành: 
					 
					
					Một người chuyên về màu 
					sắc và hình ảnh   
					
					Một người chuyên về âm 
					thanh   
					
					Một người chuyên về mùi 
					hương   
					
					Một người chuyên về 
					chất vị   
					
					Một người chuyên về xúc 
					giác   
					
					Năm hội hiên này sau 
					khi lấy khả năng chuyên môn của mình ra phân tách, phê phán 
					rồi, liền trình sự nhận xét của mình lên ông chủ tịch, ông 
					này thu góp tất cả những nhận xét của năm hội viên, làm tông 
					kết và tuyên bố kết quả của cuộn thi ấy. Ông chủ tịch này 
					chính là ý thức hay là thức thứ sáu. 
					
					 
					 
					
					III. Phương Pháp 
					Quán    
					
					Sau khi chúng ta đã 
					biết được rõ ràng phạm vi và công năng của mỗi giới trong 
					mười tám giới rồi, đến đây, chúng ta có thể bắt đầu tập 
					phương pháp quán. Pháp quán này gồm có hai phần: Quán sát sự 
					liên hệ giữa căn, trần và thức; và quán sát sự giả dối của 
					căn, trần và thức.   
					
					1. Quán sát sự liên 
					hệ giữa căn, trần và thức. Vẫn biết căn là một nội sắc, 
					nhưng chúng ta rất quan hệ mật thiết. Căn là phần chủ động, 
					có khả năng duyên được với trần, còn trần là phần bị động 
					"được duyên" với căn. Nhờ có căn phù trần và tịnh sắc, nên 
					con người mới có thể nhận biết các cảnh vật chung quanh 
					trong sự sống hằng ngày.  
					 
					
					Nếu không có căn, dĩ 
					nhiên không có thức, thì con người không phải là con người. 
					Họ không sáng tác, xây dựng, cải cách, tiến hóa, và thế giới 
					này phải là thế giới "chết", mờ mịt không có ý nghĩa. 
					 
					
					Nếu không có trần, con 
					người cũng không sống nổi. Ngoại cảnh là trường hoạt động 
					của con người. Nó dạy khôn dạy khéo cho con người trong cuộc 
					sinh hoạt và làm cho con người có ý thức về cuộc sống của 
					mình.   
					
					Thức lại tác động vào 
					căn và trần làm cho cuộc sống càng thêm tiến bộ, sung túc 
					thịnh vượng.   
					
					Ba thứ này ảnh hưởng 
					lẫn nhau như cây quẹt, chất diệm và đốm lửa. Sự liên quan 
					này chứng minh một cách hùng hồn sự không độc lập của sắc 
					pháp và tâm pháp, cả về phương diện cá thể lần phương diện 
					tổng thể.   
					
					Mười tám giới này, như 
					đoạn đầu đã nói, gồm cả thế giới và nhân sinh, cả vật vô 
					tình và vật hưũ tình. Một khi chúng đã không tự lập, thì 
					trong vũ trụ này, không có một vật gì, kể cả con người, cả 
					cái ngã, do chúng cấu tạo ra lại có thể biệt lập, thuần nhất 
					được. 
					
					 
					 
					
					2. Quán sát sự giả 
					dối của căn, trần và thức. Phần trên, chúng ta thấy cái 
					ngã không thể do tổng hợp của căn, trần và thức mà có được 
					một cách thuần nhứt. Ðến đây, chúng ta sẽ đi sâu vào một 
					tầng nữa, quán sát xem cái ngã có thể có trong một phần nào 
					của căn, trần và thức chăng? 
					 
					
					a) Sáu căn là ngã 
					chăng? Trước tiên, chúng ta hãy xét bản chất của sáu căn là 
					gì? Chính là một khối xương da máu thịt, hợp lại có trật tự, 
					có tổ chức, chứ không gì khác. Mà đã là thịt da, xương máu 
					thì không có gì là bền bỉ, thuần nhất. Từ "khi trắng răng 
					đến thuở bạc đầu", thử xem con người đã mấy lần thay đổi. Và 
					sau một trăm năm, thử hỏi thể xác ấy sẽ còn lại gì, ngoài 
					"nắm cỏ khâu xanh rì"?  
					 
					
					Giả sử có một cái ngã ở 
					sáu căn, thì thử hỏi:  
					 
					
					Nếu cái ngã ở nơi mắt, 
					thì năm căn kia không phải là ngã. Nếu cái ngã ở nơi tai, 
					thì năm căn kia không phải là ngã. Lần lượt xét cả sáu căn, 
					chúng ta không thể nói được cái ngã ở một phần nào trong sáu 
					căn.   
					
					Nếu cho rằng sáu căn 
					đều là ngã, thì thành ra con người có đến sáu cái ngã. Nói 
					thế chắc không ai công nhận được. 
					 
					
					Còn nếu bảo rằng: Do 
					sáu căn hòa hợp mà có cái ngã, thì với trái với định nghĩa 
					về cái ngã, là thuận nhất, bất biến. vả lại khi đã cho rằng 
					cái ngã do nhiều thứ hợp lại, thì cũng phải công nhận luôn 
					là cái ngã ấy là không thật, là giả hợp. 
					 
					
					Do đó, Duy thức học bảo 
					"nhân vô ngã".   
					
					b) Sáu trần là ngã 
					chăng? Trần với căn không khác gì mấy. Căn đã không tự tại 
					trong cuộc sinh tồn, thì trần làm sao đứng vững, còn hoài. 
					 
					
					Giả sử, "ngã" nằm trong 
					sắc, thì trên thế giới này phải không có sự đổi trắng, thay 
					đen. Như hoa nở rồi tàn, hết ngày rồi đêm, bãi bể biến thành 
					vườn dâu, cuộc đổi thay đã bày rành rành ra trước mắt. 
					 
					
					Vậy "ngã" nằm trong 
					thanh chăng? Cũng không có lý. Thanh không bao giờ tự nhiên 
					mà có. Nếu có không do vật hữu tình phát ra, thì cũng do sự 
					va chạm của những vật vô tình mà có. Như thế, thanh rõ ràng 
					là một pháp hữu vi, có tạo tác. Mà đã là hữu vi, thì thế nào 
					cũng vô thường. Vả lại, vật sinh ra nó là sắc kia đã là vô 
					ngã, vô thường, thì nó không thể nào thường, là ngã được. 
					 
					
					Cho đến hương, vị, xúc, 
					pháp cũng đều là vô thường, vô ngã như sắc, thanh cả. Chúng 
					chỉ như làn gió thoảng qua, như màn sương phảng phất, đã vô 
					hình lại bất định, nên sự vô ngã của chúng lại càng rõ rệt 
					hơn sắc, thanh nhiều.  
					 
					
					c) Sáu thức là ngã 
					chăng? Như đoạn trên đã nói, thức là sự nhận biết do căn và 
					trần đối nhau mà có. Ðiều ấy đã chứng minh rằng thức không 
					thật có. Nói một cách đơn giản thì thức là do căn và trần 
					đối nhau mà thành, nhưng nếu chia chẽ một cách rốt ráo theo 
					duy thức học, thì thức sỡ dĩ có được còn là nhờ nhiều nhân 
					duyên khác nữa. Chẳng hạn như nhãn thức, sanh khởi được là 
					nhờ chín duyên sau đây:  
					 
					
					Không: là khoảng trống 
					không, cách biệt giữa căn và cảnh vật. 
					 
					
					Minh: là ánh sáng soi 
					chiếu bởi mặt trời, trăng, sao, hay đèn đóm. 
					 
					
					Căn: là chỗ nương tựa 
					của thức.   
					
					Cảnh: là các sự vật mà 
					căn duyên được.   
					
					Tác ý: là sự mong muốn 
					được thấy.   
					
					Phân biệt y: là chỗ 
					nương để phân biệt, tức là ý thức, hay thức thứ sáu. 
					 
					
					Nhiễm tịnh y: là thức 
					thứ bảy hay là tiềm thức. 
					 
					
					Căn bản y: là thức thứ 
					tám.   
					
					Chủng tử: bản năng sẽ 
					được phát sinh.   
					
					Ðể có một ý niệm rõ 
					ràng hơn về nhãn thức, chúng tôi xin giảng giải chín duyên 
					trên ra như sau:   
					
					Khi mắt ta thấy một vật 
					gì, nó phải ở cách vật ấy gần hay xa (không ), khi thấy là 
					ban ngày, hay ban đêm có trăng, sao, hoặc pha đèn (minh). Sự 
					thấy ây dĩ nhiên là phải từ con mắt mà có (căn) và đồng 
					thời, lúc đó phải có vật gì mới thành sự thấy (cảnh). trước 
					lúc thấy, ta đã có ý muốn ngó rồi (tác ý). Tác ý đây lại do 
					ý thức đã khởi động trước (phân biệt y). ý thức lại phải 
					nương thức thứ bảy, vì là căn của nó (nhiễm tịnh y). Thức 
					thứ bảy lại luôn luôn và chấp thức thứ tám là ngã (căn bản 
					y). Thức này lại là nơi dung chứa các thức chủng tử. Chủng 
					tử là cái nhơn chánh để có ra sự vật. 
					 
					
					Xét từ trong đến ngoài, 
					từ duyên đầu đến duyên chót, nhãn thức đã không có mảy may 
					gì là chơn thật cả. Các thứ kia như nhĩ thức, tỹ thức, thiệt 
					thức cũng như vậy cả; nhưng ít duyên hơn, như nhĩ thức thì 
					chỉ có tám duyên (vì không có Minh: nghe không cần có ánh 
					sáng). Còn tỹ, thiệt và thân thức, thì chỉ bảy duyên (vì 
					không cần có Minh và Không). Ý thức thì chỉ có năm duyên, 
					là: căn, cảnh, tác ý, căn bản y, chủng tử. 
					 
					
					Xem thế thì đủ rõ sáu 
					thức đều là không thật, nghĩa là cũng vô ngã như sáu căn và 
					sáu trần.   
					
					Tóm lại, từ căn thân 
					cho đến thế giới, gồm trong mười tám giới, đều không thật 
					có, không thật ngã. Hành tướng do nhân duyên hòa hợp thì có, 
					những thật thể thì hoàn toàn không. 
					
					 
					 
					
					IV. Hiệu Quả của 
					Pháp Quán Giới Phân Biệt  
					 
					
					Pháp quán giới phân 
					biệt có công năng phá tan cái ngã không còn manh giáp. Cái 
					ngã đã bị tấn công đủ mọi mặt, từ ngoài vào cho đến tận sào 
					huyệt, và cuối cùng, bị phân tán, chia xẻ, phanh phui cho 
					đến mảy mún. Từ trước đến nay, cái ngã chấp sỡ dĩ hoành hành 
					được là nhờ núp vào bóng tối của si mê. Từ nay phán quán 
					giới phân biệt như là một ngọn đèn pha chiếu sáng cả vòm 
					trời u tối làm cho cái hình bóng giả dối là cái ngã cũng tan 
					biến như mây khói. Ngã chấp đã không còn, thì ngã ái, ngã 
					mạn cũng không biết nương tựa vào đâu để tồn tại. Nói một 
					cách khác, phiền não, ác nghiệp, khổ đau, do ngã chấp mà 
					sanh. Nay ngã chấp đã bị diệt, thì phiền não khổ đau cũng sẽ 
					hết. Phiền não, khổ hết thì an vui, tự tại tức thời hiện ra. 
					Ðó là cái kết quả chắc chắn thật đầu tiên của pháp quán giới 
					phân biệt.   
					
					Rồi từ sự an vui, tự 
					tại tương đối ấy, hành giả sẽ cố gắng tiến dần trên đường 
					đạo. Càng tiến, hành giả càng sáng suốt thêm, càng nhận rõ 
					thêm chân lý. Hành giả sẽ dần dần chứng được các quả vị Tu 
					đà hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A La Hán. Nhưng hành giả cũng 
					không dừng lại ở các quả vị ấy. Hành giả không cố chấp ở quả 
					vị đã chứng được của mình, do đó sẽ giải thoát được tam 
					giới, làm bực Thanh văn, Duyên giác. 
					 
					
					Nếu hành giả cố gắng tu 
					thêm, đến khi không còn chấp trước các pháp mình tu, mà chỉ 
					coi đó như là ngón tay chỉ mặt trăng, như liều thuốc trị 
					bệnh, chỉ cần trong lúc đau, nếu cố gắng tu được như thế, 
					thì hành giả sẽ đến bực "Vô trí, vô đắc", tức là chứng được 
					đạo quả vô thượng Bồ đề.  
					
					  
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Chúng ta đã thấy rõ 
					công năng, diệu dụng và hiệu quả tốt đẹp của pháp giới phân 
					biệt. Những thấy được ,mặc dù dã là quý, mà làm được mới 
					thật là quý hơn. Trong trên, chúng tôi đã hai ba lần nhấn 
					mạnh ở những chữ "nếu cố gắng..."Thật thế, nếu không cố gắng 
					thì đâu sẽ hoàn đó, và cái ngã, mặc dù giả dối, vẫn còn tồn 
					tại mãnh liệt và tác oai, tác quái như thường. Cái chấp ngã 
					được tạo dựng và củng cố từ muôn ngàn kiếp, mối khi một ít, 
					những lâu ngày trở thành rắn chắc, như những vỏ nghêu, vỏ ốc 
					bám vào mõm đá. Ngày nay chúng ta được may mắn đức Bổn sư 
					chỉ bày pháp quán giới phân biệt, để cho chúng ta thấy được 
					cái giả tướng của nó. Những đâu phải chỉ quán năm bảy lần, 
					hay vài ba chục lần là thành tựu? Cái ngã được bồi đắp lâu 
					đời lâu kiếp, thì công phu tu luyện để phá trừ nó cũng cần 
					phải nhiều thời gian. Lý trí có thể chấp nhận dễ dàng không 
					có thật ngã, nhưng tình cảm đâu có chấp nhận dễ dàng như 
					thế? Từ trước đến nay ta đang tin tưởng quí chuộng, cưng 
					dưỡng cái ngã, bỗng hôm nay có người bảo rằng nó không có, 
					nó không thật, thì thế nào tình cảm cũng nổi dậy phản dối, 
					bịt tai không muốn nghe, bịt mắt không muốn thấy. Ta phải 
					cần nhiều kiên nhẫn lắm, may ra mới thuyết phục được tình 
					cảm. Những trận giặc chiến đấu với cái ngã, đến giai đoạn 
					này, đâu phải đã chấm dứt ! Cái ngã chưa đầu hàng mà lui vào 
					sào huyệt sâu kín nhất, vào "mật khu" nguy hiểm nhất là tiềm 
					thức hay nói theo danh từ Duy thức học là thức thứ bảy. Sự 
					chấp ngã ở đây có một hình thức toàn diện, vô cùng bén nhậy, 
					như trong mật khu của mỗi người dân, từ trẻ đến già, từ đàn 
					ông, đàn bà đến con nít, là một chiến sĩ; và khoảng đất, mỗi 
					lùm cây mỗi cành lá là một cạm bẫy làm trở ngại rất lớn cho 
					sự chiến đấu chống cái ngã. Sự chấp ngã của tiền thức hay vô 
					thức diễn ra trong mỗi cử chỉ mỗi hành động, trong thức cũng 
					như trong khi ngủ, trong khi lành mạnh cũng như trong khi mê 
					sảng, trong khi sống cũng như trong khi chết (theo thần thức 
					và đi đầu thai). Lực lượng của địch (chấp ngã) mạnh mẽ và 
					hùng hậu như thế đấy. Chúng ta cần phải hiểu rõ trước khi 
					chiến đấu. Biết mình, biết người, trăm trận trăm thắng. 
					 
					
					Chúng ta không bao giờ 
					được phép khinh địch. Phải chuẩn bị đầy đủ trước khi chiến 
					đấu. Và trong khi chiến đấu phải quyết tâm và kiên nhẫn. Với 
					hai điều kiện căn bản ấy, chắc chắn hành giả sẽ thành công 
					trong cuộc chiến đấu, dẹp tan cái ngã tên giặc nguy hiểm 
					nhất trong mỗi chúng ta, và cầm đầu các tên giặc khác là: 
					tham, sân, si. Trừ được tên đầu đảng này là hành giả đã hoàn 
					toàn thành công trong trận giặc chống phiền não, khổ đau và 
					bắt đầu bước lên đài giải thoát. 
					
					
					▲ Trở Lên
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 6
					 
					Lục Ðộ 
					
					 
					 
					
					Ðộ thứ nhất: Bố Thí Ba La Mật 
					
					   
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Ðạo Phật thường được 
					gọi là Ðạo Từ bi, vì tình thương trong Ðạo Phật rất bao la, 
					sâu rộng. Ðức Phật tổ vì từ bi mà xuất gia để tìm đạo cứu 
					khổ cho chúng sinh. Vậy người Phật tử, khi noi theo dấu chân 
					Phật, cũng phải lấy từ bi làm động tác chính cho sự tu hành 
					của mình.   
					
					Nhưng làm thế nào để 
					thể hiện được lòng từ bi và làm cho nó tăng trưởng? Phương 
					pháp mầu nhiệm nhất là thực hành pháp môn Bố thí Ba la mật, 
					một trong sáu pháp môn (lục độ) mà đức Phật đã chế ra cho kẻ 
					tu hành có tâm trí rộng lớn thực hành để độ mình và độ người 
					ra khỏi biển sanh tử luân hồi và đến bờ giác ngộ. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Bố thí là cùng khắp: 
					Thí là cho, là trao tặng. Bố thí là cho cùng khắp, cho tất 
					cả mọi người, mọi vật, mọi nơi. 
					 
					
					Ba la mật nguyên âm 
					tiếng Phạn là Paramita. Người Trung hoa dịch nghĩa là "Bỉ 
					ngạn đáo", nói theo tiếng Việt là "đến bờ bên kia". 
					 
					
					Bố thí Ba la mật, tức 
					là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí, có công năng như 
					một chiếc thuyền, đưa mình và người từ bờ mê lầm của chúng 
					sinh sang bờ giác ngộ của chư Phật. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Của 
					Bố Thí Ba La Mật   
					 
					
					Bố thí Ba la mật gồm 
					các loại sau đây: Tài thí, Vô úy thí. Dưới đây chúng ta lần 
					lượt tìm hiểu ý nghĩa của các loại bố thí ấy: 
					 
					
					1. Tài thí. 
					Tài thí tức là đem tiền bạc, của cải, vật thực của mình ra 
					cho. Tài thí có hai loại: 
					 
					
					a) Nội tài. Là 
					những vật chí thân quí báu nhất của mình như thân mạng, đời 
					sống của mình. Thí nội tài ở đây tức là hy sinh thân mạng để 
					cứu vớt kẻ khác ra khỏi nguy nan. Trong các chuyện tiền thân 
					của đức Phật Thích Ca, chúng ta đã thấy nhiều gương thí nội 
					tài, như cấu chuyện Ngài lái buôn kia, trong khi đi biển bị 
					thuyền chìm đã tự hy sinh thân mạng bằng cách buông tay khỏi 
					cột buồm mà mình đang bám vào, để nhường chỗ cho những hành 
					khách xấu số khác khỏi chết đuối. 
					 
					
					Thí nội tài là một cử 
					chỉ hy sinh cao đẹp nhất mà chỉ những người giàu lòng từ bi, 
					bác ái mới làm được. Nếu còn xem thân mạng mình là quý, là 
					trọng hơn thân mạng kẻ khác thì chắc chắn không bao giờ thực 
					hiện được loại bố thí này. 
					 
					
					b) Ngoài tài. 
					Ngoại tài là những vật thường dùng của mình như thức ăn đồ 
					mặc, tiền bạc, xe cộ, ruộng vườn, nhà cửa v.v...Ðem những 
					vật ấy ra cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là 
					thí ngoại tài.   
					
					2. Pháp thí. 
					Ðem lời hay, lẽ phải, những chân lý đúng đắn, những lời dạy 
					quí báu của đức Phật để chỉ bày, khuyên bảo người khác; hoặc 
					y theo giới luật của Phật tu hành thành thật để làm khuôn 
					mẫu cho người bắt chước, bỏ dữ theo lành, cải tà quy chánh 
					đều là pháp thí. Pháp thí có một giá trị rất lớn lao hơn cả 
					tài thí, và tài thí chỉ giúp người khác đở túng thiếu về 
					phương diện vật chất trong một thời gian, hay nhiều nhất là 
					cứu giúp một đời người. Nhưng pháp thí giúp đỡ người rất 
					nhiều về phương diện tinh thần, không riêng gì đối với người 
					nghèo khó, mà cả người giàu sang, chức tước; không phải chỉ 
					có ảnh hưởng tốt trong một giai đoạn, mà gieo nhân lành cho 
					nhiều đời kiếp về sau. Vì những lẽ đó, nên người Phật tử 
					chân chính, không bao giờ bỏ mất một dịp nào mà không làm 
					pháp thí, cả về phương diện khẩu giáo (dùng lời lẽ đúng Phật 
					pháp để chỉ dạy, lẫn phương diện thân giáo (dùng đời sống 
					chân chính hợp đạo để chỉ dạy). 
					 
					
					3. Vô úy thí. 
					Vô úy nghĩa là không sợ. Vô úy thí là làm cho người khác 
					không sợ, hết sợ. Phép thí này mới nghe thì tưởng như là 
					không quan trọng gì cả. Nhữnh nếu suy nghĩ một cách chín 
					chắn, chúng ta sẽ thấy đức Phật thật vô cùng thâm thúy khi 
					chế ra pháp thí này.  
					 
					
					Chúng ta hãy nghĩ lại 
					mà xem, có phải trong một đời người, cái sợ đã chiếm nữa 
					cuộc đời rồi không? Khi nhỏ chúng ta sợ la rầy, sợ đánh đập, 
					sợ ma quỉ...khi tráng niên sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giặc, 
					sợ thiếu công danh, sự nghiệp; khi già sợ đau, sợ ốm, sợ 
					già, sợ chết...Chỉ toàn sợ và sợ. Ðó là chưa nói đến gặp 
					thời buổi loạn lạc, còn phải sợ sưu cao, thuế nặng, sợ quan 
					tham, lại nhũng, sợ trộm cướp, lưu manh, sợ tù, sợ tội, sợ 
					chém, sợ giết...Bao nhiêu thứ sợ chồng chất lên đầu người, 
					làm cho họ không dám ngửng lên, lưng họ còm xuống, đầu gối 
					họ sắp quỵ. Muốn có một hình ảnh tượng trưng cho sự sợ hãi, 
					thì hãy lấy hình ảnh của người dân quê Việt nam trong thời 
					Pháp thuộc thì rõ: Hai tay họ sẵn sàng chắp lạy, mắt không 
					dám nhìn lên, lưng còng xuống và hai đầu gối sẵn sàng để quỳ 
					xuống mỗi khi nghe tiếng nạt của ông quan hay ông thực dân 
					hống hách.   
					
					Ðời sống đã khổ, lại 
					càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho người hết sợ, chính là 
					đã cứu cho họ bớt đi quá nửa khổ đau trong kiếp sống. Lòng 
					từ bi của đức Phật không nở thấy chúng sinh khổ sở vì sợ, 
					nên đã chế ra phép thí vô úy. 
					 
					
					Muốn thực hành pháp môn 
					này, hành giả trước tiên phải luyện cho mình một đức tính 
					đừng sợ gì cả. Mà kẻ tu hành chân chính, hiểu rõ giáo lý của 
					Phật, thì còn sợ nỗi gì? Tiền của, họ không tham lam cho nên 
					không sợ mất; danh lợi, họ không màn, nên không sợ thiếu, 
					sanh mạng, họ xem như giả tạm, nên không sợ chết. Do cái tâm 
					lý đó mà cõi lòng họ luôn luôn không xao động, nét mặt họ 
					luôn luôn bình tĩnh trước mọi sự đổi thay, gian nan nguy 
					hiểm. Người tu hạnh thí vô úy sẵn sàng để nhảy xuống nước 
					vớt người sắp chết chìm, nhảy vào lửa để cứu người sắp chết 
					thiêu, xông vào đám cướp để cứu người lương thiện, đến gõ 
					cửa công, để minh oan cho người vô tội... 
					 
					
					Tóm lại, người tu hạnh 
					thí vô úy, hễ đi đến đâu thì đem đến đó một nỗi binh tĩnh, 
					an vui cho mọi người và mọi vật.  
					
					  
					
					III. Phải Bố Thí Như 
					Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp 
					 
					
					Chúng ta đã biết qua 
					các lối Bố thí Ba la mật. Ðến đây, chúng ta cũng cần biết rõ 
					thái độ của người tu hạnh bố thí phải như thế nào. 
					 
					
					Sự bố thí như đã nói 
					trên, thật ra không khó và không hiếm. Rất nhiều người có 
					thể làm được. Trong đời, chúng ta thường thấy có nhiều kẻ 
					giàu có đem bạc ngàn bạc vạn ra bố thí, có nhiều người bỏ cả 
					tài sản ra lập nhà thương, ký nhi viện, trường học, có nhiều 
					người dám liều mạng xông vào lửa để cứu kẻ sắp chết thiêu, 
					nhảy xuống nước cứu người sắp chết đuối; có những kẻ anh 
					hùng đem tài năng ra bảo vệ kẻ yếu hèn, hay dám đương đầu 
					với bọn xâm lăng để giữ gìn đất nước. 
					 
					
					Về phương diện thí 
					pháp, có nhiều người đi đâu cũng đem đạo lý ra giảng nói, đi 
					đâu cũng tỏ ra ta đây hiểu đạo, chứng quả. 
					 
					
					Nếu nhìn bề ngoài, thì 
					những hành động ấy đều là bố thí cả. Nhưng nếu xét về tâm lý 
					và động lực thúc đẩy bên trong, thì có thể có hai trường hợp 
					khác xa nhau.   
					
					1. Bố thí chấp 
					tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng tâm không trong 
					sạch. Chúng ta đã biết bố thí do từ tâm mà ra. Bố thí là một 
					pháp môn để tự độ và độ tha. Những nếu bố thí với một dụng 
					tâm khác như cầu danh, cầu tài lợi (cho ít mà cầu được trả 
					nhiều), hoặc vì ganh đua, hoặc vì muốn làm nhục người chịu 
					ơn, hoặc vì bị ép buộc, hoặc cho với một tâm lý khinh rẻ, 
					hối tiếc hoặc cho với một tâm lý lừa lọc, bất công, thiên 
					vị; nếu bố thí với một tâm lý, một thái độ như thế, thì tất 
					là bố thí chấp tướng.  
					 
					
					Chẳng hạn đem tiền của 
					ra lập nhà thương, trường học để được nêu trên báo, để được 
					nhắc nhở đến luôn; hoặc nhảy xuống sông cứu người chết đuối 
					để được "người đẹp" tán thưởng; hoặc giết giặc để mong được 
					tấm huy chương, hoặc giảng đạo lý để tỏ ra mình học rộng 
					biết nhiều. Những hành vi bên ngoài đẹp đẽ ấy, bên trong 
					thật không có giá trị gì. 
					 
					
					Bố thí với tâm lý, với 
					động lực như thế, không phải là Bố thí Ba la mật; và phước 
					đức của những hành động ấy thuộc về hữu lậu rất mỏng manh, 
					như mây nổi giữa hư không, gặp gió thổi liền tiêu tan. 
					 
					
					2. Bố thí không 
					chấp tướng. Nghĩa là bố thí với một dụng ý trong 
					sạch, đúng với ý nghĩa của nó. 
					 
					
					Trong khi bố thí, hành 
					giả vì tâm từ bi bình đẳng, xem chúng sinh như con, nên 
					không sinh tâm vị kỷ, không phân biệt bỉ thử, thân sơ. Hành 
					giả vì biết tài sản cũng như thân mạng mình đều là giả tạm, 
					vô thường, nên không tham lam, tiếc nuối. Hành giả vì biết 
					cái ngã không có thật, nên khi cho không thấy có kẻ cho và 
					người nhận, không tự cao, tự đại. 
					 
					
					Bố thí với một tâm địa 
					trong sạch như trên sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, mới 
					đúng là Bố thí Ba la mật. 
					
					 
					 
					
					IV. Công Ðức Bố Thí 
					Ba La Mật    
					
					Pháp bố thí là cái nhân 
					lành của quả phúc ở thế gian và xuất thế gian. Trong lục độ 
					vạn hạnh, pháp bố thí đứng đầu, vì nó tương đối dễ làm hơn 
					tất cả các pháp, mà công đức lại lợi lạc được cả đôi bên 
					người nhận và kẻ cho:  
					 
					
					1. Ðối với người 
					nhận. Người đời không ai là đầy đủ. Kẻ được phần này thì 
					thiếu phần khác: kẻ được vật chất thì mất tinh thần, kẻ đầy 
					đủ tinh thần thì thiếu thốn vật chất. 
					 
					
					Kẻ đang thiếu thức ăn 
					mà được ăn, kẻ đang thiếu mặc mà được mặc, kẻ đang đau xót 
					mà được vỗ về, an ủi, kẻ đang lo sợ mà được đùm bọc che chở 
					thì thật là may mắn sung sướng vô cùng. Trong một xã hội có 
					được nhiều người giàu lòng từ bi bác ái, luôn luôn tìm cách 
					giúp người, thì xã hội ấy chắc chắn sẽ được an vui thịnh 
					đạt.   
					
					2. Ðối với người 
					cho. Sự bố thí đã đành là lợi lạc cho người nhận, những 
					đối với người cho cũng không kém phần quý báu. Ngoài sự sung 
					sướng được thấy mình làm việc phải, được thấy quần sinh sung 
					sướng, vui mừng, hành giả còn nhờ bố thí mà tiến mau, tiến 
					xa trên đường đạo. Mỗi khi đem của cải ra cho, là hành giả 
					có một dịp để chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ và 
					nới rộng lòng từ bi; mỗi khi hy sinh tánh mạng để cứu giúp 
					người, là hành giả có dịp để thử thách lòng tham sống, sợ 
					chết, và trau dồi đức tánh lợi tha, bình tĩnh. Mỗi khi cho 
					mà không kể kẻ thân người thù, là hành giả có dịp để chiến 
					đấu với ngã chấp ngã ái, ngã mạn. Nếu hành giả thí pháp, thì 
					đó là những cơ hội để mình tự nhắc nhở, ghi nhớ những lời 
					đức Phật dạy, những công đức mà Ngài đã làm để noi theo. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Chúng ta đã thấy rõ giá 
					trị của pháp Bố thí Ba la mật. Công đức của nó không những 
					chỉ riêng cho người nhận, mà lẫn cả người cho nữa. Nó vừa độ 
					người mà vừa độ mình. Có công năng đưa mình và người từ bờ 
					mê lầm đến bờ giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ 
					Tát.   
					
					Vậy xin khuyên các Phật 
					tử đều phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bố thí Ba la mật, để trên cầu 
					thành quả Phật, dưới hóa độ chúng sinh, đền ơn Tam Bảo. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 6 (tt) 
					
					  
					Ðộ thứ 
					hai: Trì Giới Ba La Mật 
					
					   
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Bất luận một đoàn thể, 
					một tổ chức nào trong xã hội, muốn có qui củ, có đường lối 
					để tiến triển, đều phải có kỷ luật hay giới điều. Kỷ luật 
					càng chặt chẽ thì đời sống chung của tổ chức, cũng như của 
					mỗi cá nhân trong tổ chức ấy lại càng mau tiến phát. Trái 
					lại, một đoàn thể không kỷ luật là một toán người ô hợp, dù 
					ban đầu có đông đảo, hùng mạnh bao nhiêu, rồi chẳng bao lâu 
					cũng sẽ tan.   
					
					Kỷ luật bao giờ cũng do 
					những người lãnh đạo đặt ra. Một người lãnh đạo càng sáng 
					suốt bao nhiêu, có kinh nghiệm bao nhiêu, thì qui luật, giới 
					điều mà họ chế ra, lại càng có giá trị thực tiễn, có công 
					dụng quí báu bấy nhiêu.  
					 
					
					Ðạo Phật là một cái đạo 
					có mục đích đưa người đến chỗ giác ngộ, và sáng lập là đức 
					Thích Ca, một đấng giác ngộ hoàn toàn. Vậy những giới luật, 
					những giáo điều của đạo Phật tất nhiên là phải có một giá 
					trị, một công dụng quí báu, bổ ích vô cùng cho những ai muốn 
					theo dấu chân của đức Phật. 
					 
					
					Chính vì sự quan trọng 
					và lợi ích lớn lao của giới luật như thế, nên đức Phật đã 
					nhiều lần nhắn nhủ với các hàng Ðệ tử của Ngài ,phải nghiêm 
					trì giới luật. Ngài thường dạy: "Gặp thời không có Phật ,hãy 
					lấy giới luật làm thầy". Kinh Phạm võng cũng có chép: "Giới 
					sáng như mặt nhật, quí báu như ngọc châu anh lạc, các vị Bồ 
					Tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác". 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					"Trì" là giữ giới chặt 
					chẽ; "Giới" là những điều răn dạy, ngăn cấm, những qui luật 
					mà đức Phật đã chế ra để hướng dẫn các Ðệ tử của Ngài đi vào 
					con đường chánh, và tránh cho họ những hầm sâu hố hiểm mà họ 
					có thể rơi vào, trên con đường đi đến quả vị Phật. 
					 
					
					Vậy trì giới ba la mật 
					là một môn tu để đi đến bờ giác ngộ bằng cách giữ gìn nghiêm 
					chỉnh, trọn vẹn giới luật mà đức Phật đã răn dạy. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Của 
					Giới Luật    
					
					Căn cơ của chúng sanh 
					không đồng nhau, và sự tu hành của Ðệ tử Phật cũng có nhiều 
					cách; vì thế, đức Phật phải chế ra rất nhiều giới luật và 
					phân ra nhiều loại để áp dụng cho sát vào căn cơ và lối tu 
					của mỗi hạng người. Tuy thế, chúng ta có thể phân chia giới 
					luật của Phật ra làm ba phần và hai cấp bậc: 
					 
					
					Giới tại gia cho hàng 
					Tiểu Thừa.   
					
					Giới xuất gia 
					 
					
					Giới Ðạo và Tục 
					thông hành (Bồ Tát giới) cho hàng Ðại Thừa. 
					 
					
					1. Giới tại gia. 
					Giới tại gia là những giới dành cho những người chưa xuất 
					gia trong hàng Tiểu Thừa, tức là những cận sự nam và cận sự 
					nữ (cư sĩ tại gia). Những người này có thể thọ trì từ một 
					đến năm giới (Ngũ Giới) hay tám trai giới (bát quan trai). 
					 
					
					2. Giới xuất gia. 
					Xuất gia gồm có năm chúng: Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na 
					ni, Tỳ kheo và Tỳ kheo ni. Các chúng này tùy theo sự tu hành 
					thấp hay cao, nam hay nữ mà giữ giới nhiều hay ít: 
					 
					
					Sa di và Sa di ni phải 
					giữ 10 giới.   
					
					Thức xoa ma na ni phải 
					giữ 6 điều giới và tập 296 hạnh giới.   
					
					Tỳ kheo phải giữ 250 
					giới   
					
					Tỳ kheo ni phải giữ 
					348 giới. 
					 
					
					3. Giới đạo tục 
					thông hành. Giới đạo tục thông hành chính là giới Bồ 
					Tát. Ấy là giới mà Phật tử tại gia và xuất gia trong hàng 
					Ðại Thừa phải thọ trì, sau khi đã phát tâm Bồ đề tu Bồ Tát 
					hạnh để mở rộng bề làm Phật sự và hóa độ thế chúng sinh. 
					 
					
					Phạm vi bài này chỉ nói 
					về Ðại Thừa Bồ Tát giới và đây những giới mà người tu hạnh 
					trì giới ba la mật cần phải biết và giữ cho đúng. 
					 
					
					Bồ Tát giới gồm có: 
					 
					
					Nhiếp luật nghi 
					giới. Người thọ trì "Nhiếp luật nghi giới" là người 
					quyết giữ đúng mười hai giới trọng và bốn mươi tám giới 
					khinh, nghiã là quyết không làm một việc ác nào cả. 
					 
					
					Nhiếp thiện pháp 
					giới. Người thọ trì "nhiếp thiện pháp giới" là người 
					quyết tâm làm tất cả các việc lành. 
					 
					
					Nhiêu ích hữu tình 
					giới. Người thọ trì giới này là người quyết tâm tu hạnh 
					từ bi ,hỷ xả, làm tất cả những điều lợi ích cho tất cả chúng 
					sinh, không một loài nào mà chẳng hóa độ. 
					
					 
					 
					
					III. Phải Trì Giới 
					Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp  
					 
					
					Cũng như pháp tu bố thí 
					nói ở bài trước; trì giới ba la mật cũng có hai cách: Trì 
					giới sai chánh pháp và trì giới đúng chánh pháp, hay nói 
					theo danh từ nhà Phật là: Trì giới chấp tướng và trì giới 
					không chấp tướng.   
					
					1. Trì giới chấp 
					tướng. Trì giới chấp tướng là trì giới mà chỉ có 
					hình thức bên ngoài, chứ bên trong thì rất nhiễm ô. Chẳng 
					hạn trì giới vì háo thắng để được người đời khen ngợi; trì 
					giới với một tâm lý tự cao tự đại, cho mình hơn người, và 
					khinh dễ người phàm giới; trì giới vì bị ép buộc, nên thiếu 
					hoan hỷ mà sanh tâm buồn phiền, miễn cưỡng...Trì giới như 
					thế là thiếu thành tâm, là giả dối, đánh lừa mình và người. 
					Trì giới như thế chẳng ích lợi gì, chỉ thêm mất thời giờ và 
					không phải là trì giới Ba la mật. 
					 
					
					2. Trì giới không 
					chấp tướng. Trì giới không chấp tướng là làm theo 
					đúng vẹn toàn các điều răn cấm mà đức Phật đã chỉ dạy, không 
					vì danh lợi, không vì háo thắng, không vì bị hoàn cảnh ép 
					buộc mà làm.   
					
					Trong khi trì giới, 
					hành giả không hề nghĩ mình giỏi hơn người, cũng không chấp 
					nê theo giới luật, khinh dễ người phạm giới. Hành giả chỉ vì 
					thuận theo đức tánh vốn không nhiễm trước mà làm điều lợi 
					ích cho tất cả chúng sinh và nhìn nhận "trì giới" là bổn 
					phận của mình không thể bỏ qua được. Trì giới như thế mới 
					đúng là trì giới Ba la mật, công đức sẽ vô lượng vô biên. 
					
					 
					 
					
					IV. Công Ðức Trì 
					Giới Ba La Mật    
					
					Như trên đã nói, trì 
					giới Ba la mật có một hiệu lực rất lớn lao cho việc tu hành 
					của người Phật tử. Phật tử thọ trì giới luật nghiêm trang 
					thanh tịnh thì lúc hiện tiền tâm được thơ thới an vui, không 
					có gì phải ân hận. Ðối với làng nước, hành giả được niềm nở 
					kính nhường, nhất là đối với các tín đồ, lúc nào cũng được 
					hoan hỷ, quý trọng. Trong kiếp vị lai, hành giả chắc chắn 
					được chứng quả Bồ đề, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. 
					 
					
					Nếu chúng ta đem so 
					sánh pháp môn bố thí với trì giới Ba la mật, thì sẽ thấy 
					phép trì giới hơn hẳn bố thí một bậc. 
					 
					
					Người Phật tử có tài 
					thí, pháp thí mà không có trì giới, thì không thể thành Phật 
					được, vì người ấy vừa tạo phước và cũng vừa gây tội, do chỗ 
					không trì giới, thành thử gây nghiệp thiện ác xen tạp, đâu 
					được trọn lành mà mong chứng đến quả Thánh? 
					 
					
					Trái lại, người Phật 
					tử, nếu chỉ chăm chú nghiêm trì giới luật, thì chắc chắn sẽ 
					thành Phật. Vì sao vậy? Vì trong lúc chuyên tâm trì giới là 
					đã có tài thí và pháp thí hàm súc rồi: 
					 
					
					Khi hành giả trì giới 
					được thanh tịnh, thì tâm từ bi ,hỷ xả bủa khắp. Hễ họ thấy 
					kẻ nào làm hạnh tài thí, pháp thí cho ai, thì liền sanh tâm 
					hoan hỷ tán thành công đức, như thế tức là người ấy được một 
					phần công đức "tùy hỷ bố thí". 
					 
					
					Hơn nữa, khi hành giả 
					thành thật chuyên trì giới luật, thực hành theo đúng lời 
					Phật dạy, làm gương mẫu cho quần sinh bắt chước, tức là đã 
					thí pháp bằng thân giáo. Còn khi hành giả trì tụng giới luật 
					cho nhập tâm thuần thục, cũng tức là thí pháp bằng khẩu 
					giáo.   
					
					Xem như thế thì trì 
					giới Ba la mật là một pháp môn rất thần diệu, có thể bao gồm 
					cả bố thí lẫn trì giới, chắc chắn sẽ đưa hành giả đến bờ 
					giải thoát. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Giá trị và công năng 
					của trì giới Ba la mật đã được chứng minh một cách rõ ràng, 
					chúng ta không còn nghi ngờ điều gì nữa. Giờ đây chúng ta 
					còn một quyết định dứt khoát là phát tâm dõng mãnh trì giới 
					Ba la mật.   
					
					Sự tu chỉ cốt ở thực 
					hành. Dù thông minh tài trí đến đâu, dù thâm hiểu giáo lý 
					đến đâu, mà không thực hành, thì cũng vô ích. Chúng ta đừng 
					nên quên rằng chữ "hành" thường đi theo chữ "học" và chữ 
					"tu" (học hành, tu hành). Ðạo Nho cũng có câu: "học nhi thời 
					tập chi". Ðạo Phật lại dạy một cách mạnh mẽ hơn: "tu mà 
					không học là tu mù; học mà không tu là cái đảy sách". Nhất 
					là khi đã mang danh Phật tử, đã thọ giới mà không giữ giới, 
					thì chẳng khác gì đem giới luật của Phật ra mà phỉ báng và 
					làm trò cười cho thế nhân. 
					 
					
					Vậy chúng tôi xin 
					khuyên quí Phật tử, sau khi đã nhận chân giá trị cao quí và 
					lợi ích lớn lao của pháp môn trì giới Ba la mật, hãy mau mau 
					phát tâm rộng lớn tu hành trì giới này, để chóng thoát vòng 
					sinh tử khổ đau. 
					
					
					▲ Trở Lên  
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 7
					 
					Lục Ðộ (tiếp 
					theo) 
					
					 
					 
					
					Ðộ thứ ba: Tinh Tấn Ba La Mật  
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Ngạn ngữ ta có câu: "Ăn 
					không lo, của kho cũng hết". Thực vậy, dù tiền rừng bạc biển 
					mà ăn rồi ngồi không, thì cơ nghiệp cũng có ngày tiêu tan. 
					Ðối với người giàu, lười biếng còn như thế, huống hồ đối với 
					người nghèo túng, thì lười biếng là một chứng bệnh rất nguy 
					hiểm...   
					
					Người làm ruộng không 
					siêng năng cày cấy, bón phân tát nước, thức khuya dậy sớm, 
					lo lắng mọi việc, thì đến mùa lúa, chắc chắn sẽ bị thất bại, 
					thiếu trước hụt sau, nợ nần vây kéo, cả năm buồn bả. 
					 
					
					Anh thợ máy hay chị thợ 
					may không siêng năng với nghề nghiệp, lười biếng ăn chơi mãn 
					tháng suốt năm, vì tiền bạc không dư nên phải vất vả, đến 
					khi đau ốm lại càng khổ vô cùng. 
					 
					
					Người đi buôn bán, 
					không siêng năng thức khuya dậy sớm, mua tảo bán tần, thì 
					phải bị lỗ lã, thâm thủng nhiều ngày, mang công mắc nợ, nên 
					phải sang tiệm thế đồ, gia tài khánh kiệt. 
					 
					
					Trong đạo Phật cũng 
					vậy, lười biếng là một cái tội. Người học đạo không tinh tấn 
					thức khuya dậy sớm tham thiền, quán tưởng, niệm Phật tụng 
					kinh, không lo hoằng dương chánh pháp, cứ biếng nhác qua 
					ngày, tiêu pha của đàn na thí chủ; như thế mình đã không tự 
					độ, thì làm sao độ tha được ! Hiện tại không có lợi ích gì 
					cho đạo, sau khi chết phải trả nợ cho đàn na thí chủ. Nói 
					chung lại, người lười biếng dù ở ngoài đời hay trong đạo, dù 
					làm việc gì cũng không thành công. 
					 
					
					Muốn tránh những điều 
					tai hại trên, ta phải tu pháp Tinh tấn Ba la mật. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					"Tinh" là tinh chuyên 
					(ròng rặt) một việc không có xen tạp. "Tấn" là tiến tới mãi 
					mãi không dừng, không gián đoạn hay thối lui. 
					 
					
					Hai chữ tinh tấn nói 
					theo nghĩa thông thường là siêng năng chuyên cần; theo Duy 
					thức học, thì tinh tấn là món trong mười một món thiện tâm 
					sở, không phải thuộc về phần tội ác. Bởi vậy, người siêng 
					năng làm những điều sai quấy như siêng năng đào đường khoét 
					vách, cờ bạc rượu chè thì không phải là tinh tấn, mà duy 
					thức học gọi là "phóng dật" (buông lung) 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Của 
					Tinh Tấn Ba La Mật  
					 
					
					a) Tinh tấn ngăn các 
					điều ác đừng sanh. Nghĩa là các điều ác, từ trước đến 
					giờ mình chưa làm đến, thì từ nay về sau cũng phải tinh tấn 
					đừng cho nó phát sinh. Thí dụ như từ hồi nào đến giờ, ta 
					không hề sát sinh hại vật, trộm cướp gian giảo, trêu hoa 
					ghẹo nguyệt, nói lời dối trá hung ác và cờ bạc rượu chè 
					v.v...thì từ đây về sau ta cũng phải tinh tấn thêm lên, cố 
					gắng giữ gìn cho đừng sanh khởi. 
					 
					
					b) Tinh tấn diệt cho 
					mau các điều ác đã sanh. Nghĩa là các điều ác mà mình đã 
					lỡ làm rồi, thì phải tinh tấn diệt trừ cho mau, thí dụ như 
					ta lỡ tạo những tội ác tham lam trộm cướp, đa mê sắc dục, 
					giận dữ kiêu căng, thì nay ta phải tinh tấn đừng cho nó tăng 
					trưởng thêm nữa, mà trái lại phải diệt trừ cho chóng. 
					 
					
					c) Tinh tấn làm cho 
					các điều lành phát sinh. Nghĩa là từ trước đến nay có 
					những điều lành ta chưa thực hiện được, thì nay ta phải tinh 
					tấn để cho nó phát hiện ra trong hành động. Thí dụ, lâu nay 
					ta chưa làm những việc thiện xã hội, bỏ công bỏ của ra giúp 
					người nghèo đói tật nguyền, hay ta chưa quy y thọ giới, ăn 
					chay niệm Phật, học đạo nghe kinh v.v...thì từ ngày hôm nay 
					ta phải tinh tấn làm cho các điều làm này được phát sanh. 
					 
					
					d) Tinh tấn làm cho 
					các điều lành tăng trưởng. Nghĩa là các điều lành đã 
					được phát sanh rồi, nay ta phải tinh tấn làm cho nó tăng 
					trưởng hơn nữa, hay ta đã quy y rồi, bây giờ phải tinh tấn 
					phát nguyện trì giới. Nếu ta đã thọ Ngũ Giới rồi, bây giờ 
					phải tinh tấn tu Bát quan trai...Tóm lại, tất cả việc lành 
					từ ngoài đời cho đến trong đạo, mình đã làm thì phải tinh 
					tấn làm sao cho mỗi ngày được phát triểủn.  
					
					  
					
					IV. Phải Tinh Tấn 
					Như Thế Nào Mới Ðúng Chánh Pháp? 
					 
					
					Tinh tấn, cũng như bố 
					thí và trì giới, đều có hai phương diện: 
					 
					
					a) Tinh tấn có chấp 
					tướng. Có người trước mặt mọi người, thì rất tinh tấn, 
					lăng xăng làm việc này việc khác, tỏ ra cần mẫn chăm chỉ để 
					được tiếng khen, nhưng khi không ai nhòm ngó, thì lại rất 
					giãi đãi. Có người vì sợ người trên la rầy, quở phạt mà tinh 
					tấn; nhưng khi được tự do, không ai kiểm soát thì lại buông 
					lung. Có người tinh tấn với một tâm lý háo thắng, quyết hơn 
					người để tự cao tự đại.  
					 
					
					Tinh tấn với một dụng 
					tâm không trong sạch, như vì danh, vì lợi, vì sự kiêu căng 
					v.v...đều là tinh tấn chấp tướng, không đúng là tinh tấn Ba 
					la mật.   
					
					b) Tinh tấn không 
					chấp tướng. Tinh tấn không chấp tướng tức là tinh tấn 
					một cách chân thành, không vì dục vọng mà chính vì mình 
					nhiều tội lỗi, nên quyết tâm sửa chữa, thấy mình cần giải 
					thoát ra khỏi luân hồi, nên phải gấp rút chuyên cần tu 
					luyện. Người tinh tấn không chấp tướng thì dù ở giữa đám 
					đông người hay ở một mình, dù có người nhắc nhở kiểm soát 
					hay không ,dù đạt được quả vị cao hay thấp v.v...cũng không 
					bao giờ thay đổi ý chí và thái độ quyết tiến của mình, mà 
					mục đích là giải thoát mình và người ra khỏi cảnh khổ sanh 
					tử luân hồi. 
					
					 
					 
					
					IV. Công Ðức Của 
					Tinh Tấn Ba La Mật   
					 
					
					Trong tất cả sự nghiệp, 
					vĩ đại ở đời, hay kết quả vẻ vang trong đạo, cái bí quyết 
					duy nhất để thành công là pháp tinh tấn. Tinh tấn như là 
					chất dầu xăng làm cho chiếc xe hơi chạy. Ðộng cơ dù tốt, 
					người lái dù giỏi, con đường dù bằng phẳng, mục đích dù gần, 
					mà không dầu xăng thì chiếc xe vẫn ở nguyên một chỗ. 
					 
					
					Cho nên câu nói cuối 
					cùng của đức Phật Thích Ca với các Ðệ tử trước khi nhập diệt 
					là: "Hỡi các người, hãy tinh tấn lên để giải thoát". Người 
					thọ trì Tam quy, tinh tấn giữ năm giới và làm các điều phước 
					thiện, thì sẽ được sanh lại làm nhân đạo, phúc thọ song 
					toàn. Người tinh tấn tu Thập thiện và tu Tứ thiền, Bát định, 
					thì sẽ sanh về cõi Trời Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. 
					Người thấy các khổ cảnh sanh lòng nhàm chán cảnh đời, quyết 
					tâm dứt trừ các phiền não, tinh tấn tu ba mươi bảy phẩm trợ 
					đạo, kết quả sẽ chứng được bốn quả Thanh Văn. Người quán 
					thấy mười hai nhân duyên là nguồn gốc của nhiều kiếp sanh tử 
					luân hồi, tinh tấn tu hành, quyết đoạn trừ mười hai nhân 
					duyên, sẽ thành quả Duyên giác. Các vị Bồ Tát, xứng theo tự 
					tánh vô tham của mình, tinh tấn tu pháp bố thí ba la mật; 
					xứng theo tự tánh vô sân, tinh tấn tu pháp nhẫn nhục ba la 
					mật; xứng theo tự tánh vô si, tinh tấn tu pháp trì giới ba 
					la mật; xứng theo tự tánh tịch tịnh, tinh tấn tu pháp tu 
					pháp thiền định ba la mật...Tóm lại, các vị Bồ Tát trong khi 
					tu, vì xứng với thể tánh chân tâm của mình mà tu pháp lục 
					độ, không chấp ở nơi ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh 
					tướng, thọ giả tướng, không thấy mình có, có người, có năng 
					sở, bỉ thử, thì khi nhân hạnh Bồ Tát được viên mãn, sẽ thành 
					quả Phật.   
					
					Xem thế đủ biết công 
					đức của tinh tấn lớn lao biết chừng nào. Tu pháp môn nào 
					cũng vậy, hễ có tinh tấn mới có hiệu qủa, không tinh tấn thì 
					hòan toàn thất bại. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Giá trị và lợi ích của 
					tinh tấn không thể nghĩ bàn, vậy trong khi làm việc đời cũng 
					như việc đạo, chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị sẵn đức tinh 
					tấn, như người tài xế chuẩn bị xăng nhớt, trước khi làm 
					những cuộc hành trình xa xôi. Nếu chúng ta không luyện được 
					đức tinh tấn, không chiến thắng được tánh giải đãi, buông 
					lung thì chúng ta hãy cân nhắc rằng, công việc mà chúng ta 
					sắp làm sẽ hoàn toàn thất bại. Công việc tu hành, đi từ bờ 
					mê đến bến ngộ, đường dài muôn trùng vạn dặm, trải qua bão 
					táp mưa sa, nếu không có được đức tinh tấn, như các bùa hộ 
					mệnh và bí quyết tiến thủ, thì chúng ta chỉ quanh quẩn mãi 
					trong biển sanh tử luân hồi. 
					 
					
					Một lần nữa, hãy nghe 
					lời đức Bổn sư dạy còn văng vẳng bên tai: "Hỡi các người! 
					Hãy tinh tấn lên để giải thoát".
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 7 (tt) 
					
					  
					Ðộ thứ 
					tư: Nhẫn Nhục Ba La mật  
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Kinh Hoa Nghiêm có nói: 
					"Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai" (một niệm 
					lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn muôn ức cửa nghiệp 
					chướng đều mở ra). Thật vậy, lắm người vì một phút không dằn 
					được cơn tức giận, mà đánh đập vợ con đến tàn tật, đốt phá 
					của cải quý báu của ông cha để lại, rồi phải ân hận suốt 
					đời. Lắm lúc, vì không làm chủ được tánh nóng nẩy mà tình 
					cốt nhục phải chia ly, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn chí 
					thân trở thành kẻ oán thù... 
					 
					
					Người học đạo cũng vậy, 
					nếu gặp nghịch cảnh không nhẫn nhịn được, thối chí nản lòng, 
					đôi khi phải bị đọa đày. Như ông Ðộc giác tiên nhân, vì một 
					niệm sân hận không nhẫn được, mà phải bị mất năm pháp thần 
					thông. Ông Uất Đầu Lam Phất, vì sân hận mà phải đọa làm loài 
					phi ly trùng (chồn bay). Nên sách có nói: "Nhất sân chi hỏa 
					năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn" (Nghĩa là một đóm 
					lửa sân, có thể đốt tan muôn mẫu rừng công đức). 
					 
					
					Vậy muốn trừ sân hận 
					một cách có hiệu quả, phải tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					"Nhẫn" là nhịn, chịu 
					đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. "Nhục" là điều sỉ 
					nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình. 
					 
					
					Nhẫn nhục Ba la mật là 
					nhẫn nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhụ hơn 
					thế nữa. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Của 
					Nhẫn Nhục Ba La mật  
					 
					
					1. Thân nhẫn. 
					Ðối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau 
					ốm, hoặc bị người đánh đập, hành hạ, làm bức não nơi thân, 
					mình cũng cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại. Ðây là 
					chịu đựng về thể xác.  
					 
					
					2. Khấu nhẫn. 
					Thân đã nhẫn chịu không chống lại người và miệng cũng không 
					thốt ra những lời nguyền rủa độc ác, trước những lời mạ nhục 
					chua cay, mắng nhiếc tồi tệ hay đánh dập tàn nhẫn. 
					 
					
					3. Ý nhẫn. 
					Nhẫn nhục cả trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không 
					nổi lên ý phản đối, những tư tưởng hắc ám để trả thù. 
					 
					
					Trong ba thứ nhẫn này, 
					"ý nhẫn" là khó nhất và quan trọng nhất. Có nhiều khi thân 
					có thể chịu đựng được các hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm 
					nguyền rủa. Thêm một lần nữa, miệng tuy không thốt ra những 
					lời phản đối, nguyền rủa, nhưng ý vẫn ngấm ngầm phản đối, và 
					tức giận đốt cháy tim gan. 
					 
					
					Ðến khi "tâm ý" cũng 
					không ngấm ngầm nổi dậy phản đối, sự tức giận lắng xuống tận 
					đáy lòng; đứng trước mọi nghịch cảnh, lòng vẫn phẳng lặng 
					như không, thì nhẫn nhục mới thật là hoàn toàn. 
					 
					
					Nếu bên trong vẫn chưa 
					nhẫn được, thì thế nào giận giữ cũng có ngày xuất hiện ra 
					trong lời nói và hành động. 
					
					 
					 
					
					III. Phải Nhẫn Nhục 
					Như Thế Nào  Mới Ðúng Chánh Pháp? 
					 
					
					1. Nhẫn nhục có 
					chấp tướng. Nhẫn nhục vì sợ quyền thế; Nhẫn nhục vì 
					đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được; Nhẫn 
					nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền 
					cao; Nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn 
					người, không thèm chấp nê, phản đối. Nhẫn nhục như thế là 
					Nhẫn nhục chấp tướng vì còn do dục vọng tham, sân, si, mạn 
					thúc đẩy, chưa phải là Nhẫn nhục Ba la mật. 
					 
					
					2. Nhẫn nhục 
					không chấp tướng. Người tu hạnh Nhẫn nhục ba la mật, 
					trước hết phải do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, 
					tất đố, tự ái, tham lam...Nếu có người chửi mắng, mình phải 
					bình tĩnh tự nghĩ rằng: "Ta có làm điều gì sái quấy không? 
					Nếu có, thì ta bị sỉ nhục là phải, ta nên cảm ơn người. Nếu 
					ta trong trắng, thì những lời sỉ nhục ấy có dính líu gì đến 
					ta đâu, mà phải khổ tâm nghĩ đến?" 
					 
					
					Hơn nữa, người tu Nhẫn 
					nhục còn nhắm mụt đích trao dồi lòng từ bi và hỷ xả, ta Nhẫn 
					nhục không oán giận, không trả thù là vì ta thương người, ta 
					muốn xem mọi người như thân thuộc anh em. ta Nhẫn nhục vì ta 
					không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò 
					lửa của sân hận, đốt thiêu tất cả. 
					 
					
					Chúng ta hãy tập cho 
					được Nhẫn nhục như ông Purna trong câu chuyện sau đây: "Khi 
					Phật còn tại thế, một Ðệ tử của Phật, ông Purna xin Phật đi 
					qua truyền đạo tại xứ Chronaparanta, là một xứ có tiếng rất 
					hung ác. Phật hỏi ông Purna: 
					 
					
					Ông đã phát nguyện đem 
					đạo pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu ho 
					không nghe, lại còn dùng lời hung ác mắng chửi ông, thì ông 
					nghĩ sao?   
					
					Bạch Thế tôn, con 
					nghĩa: Họ là người tốt, vì họ không dùng cây đánh đập con, 
					hay lấy đá ném con.   
					
					Phật hỏi tiếp: 
					 
					
					Nếu họ lấy cây đánh 
					ông, hay dùng đá ném ông, thì ông nghĩ sao? 
					 
					
					Bạch Thế tôn, con nghĩ: 
					Họ vẫn còn lòng nhân, vì họ không chém giết hay đập con đến 
					chết.   
					
					Phật lại hỏi: 
					 
					
					Nếu họ chém giết hoặc 
					đánh chết ông thì ông nghĩ sao? 
					 
					
					Bạch Thế tôn, con nghĩ: 
					Họ là ân nhân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau 
					khổ, bỏ được bọc thúi tha, từ biệt đời sống khốn nạn này. 
					 
					
					Ðức Phật khen: 
					 
					
					Hay lắm ! Ông nhẫn nhục 
					được như vậy thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo được ! 
					 
					
					Ông Purna qua xứ 
					Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đều 
					qui đầu Phật pháp cả.  
					 
					
					Nhẫn nhục như ông Purna 
					mới thật đúng là Nhẫn nhục Ba la mật, nghĩa là nhẫn từ ngoài 
					thân đến trong tâm, nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh 
					nhục để nhẫn. 
					
					 
					 
					
					IV. Công Ðức Của 
					Pháp Nhẫn Nhục Ba La mật 
					 
					
					Như đoạn mở đầu đã nói, 
					lửa sân hận có thể đốt thiêu tất cả những gì quí báu, mà 
					loài người đã xây dựng được trên thế giới này. Lửa sân hận 
					chỉ có thể bị dập tắt bằng nước Nhẫn nhục Ba la mật. 
					 
					
					Không Nhẫn nhục thì gia 
					đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt, đồng bào 
					xung đột, thế giới chiến tranh. 
					 
					
					Có Nhẫn nhục thì gia 
					đình sum họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng 
					bào đoàn kết, thế giới hòa bình. Riêng đối với bản thân, 
					không Nhẫn nhục thì lửa giận thiêu đốt lòng mình và dục vọng 
					hoành hành, sự nghiệp tiêu tan, mọi người xa lánh, đạo quả 
					khó tròn.   
					
					Có Nhẫn nhục thì lòng 
					từ chan chứa, thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người 
					người quí trọng, đạo quả viên thành. 
					 
					
					Vì nhận thấy công đức 
					lớn lao và quí báu của Nhẫn nhục cho nên cổ nhân đã có nhắn 
					nhủ với người đời một cách mạnh mẽ như sau: 
					
					 
					 
					
					Nhẫn nhẫn nhẫn, trái 
					chủ oan gia tùng thử tận  
					 
					
					Nhiêu nhiêu nhiêu, 
					thiên tai vạn họa nhất tề tiêu 
					 
					
					Mặc mặc mặc, vô hạn 
					thần tiên tùng thử đắc  
					 
					
					Hưu hưu hưu, cái thể 
					công danh bất tự do  
					 
					
					Nghĩa là: 
					 
					
					Nhẫn nhẫn nhẫn (thân 
					nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn)  
					 
					
					thì những điều trái chủ 
					oan gia từ đây dứt hết.  
					 
					
					Nhịn nhịn nhịn (thân 
					nín, miệng nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng 
					do đây mà được.   
					
					Thôi thôi thôi 
					(thân, miệng, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế 
					không còn tự do. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận: 
					 
					
					Chúng ta không còn nghi 
					ngờ gì nữa giá trị và công đức lớn lao, quý báu của nhẫn 
					nhục. Giờ đây chúng ta chỉ còn quyết tâm thực hành ngay pháp 
					môn này. Nhất là đối với Phật tử nào đã nhiều lần bị lửa 
					giận tàn phá tâm can, gia đình và sự nghiệp của mình, hãy 
					mau mau tu tập pháp nhẫn nhục này. Ðừng để phải ăn năn, hối 
					tiếc và khổ đau thêm một lần nữa vì lửa nóng giận. 
					 
					
					Kẻ tu hành lại càng gấp 
					rút thực hành pháp môn này. Không có gì tai hại cho sự 
					nghiệp tu hành của mình mà làm cho người chung quanh khinh 
					lờn, xa lánh bằng sự nóng giận, cọc cằn nơi một kẻ xuất gia 
					cầu đạo. Dù những người ấy có tinh thông kinh điển bao 
					nhiêu, tu hành bao nhiêu ,mà khi thấy nét mặt họ đỏ gay, 
					giọng nói họ quát tháo, cử chỉ họ mất tự chủ, thì người 
					chung quanh không còn tin tưởng ở sự tu hành của họ nữa, vì 
					sự nóng giận tố cáo họ một cách hùng hồn. 
					 
					
					Chúng tôi tưởng không 
					cần phải nói nhiều hơn nữa về những tai hại của giận dữ; vì 
					chắc rằng những ai đã có lần giận dữ cũng đã thấy rõ như thế 
					rồi.   
					
					Ðể kết luận bài này, 
					chúng tôi chân thành cầu mong cho mọi người cùng chúng tôi, 
					đều thật hành pháp môn nhẫn nhục này một cách có hiệu quả, 
					để cõi đời thêm phần an lạc
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 8 
					
					  
					Ðộ thứ 
					năm: Thiền Ðịnh Ba La Mật 
					
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Kẻ tu hành muốn đến bờ 
					giải thoát hoàn toàn, cần phải tu cả phước lẫn huệ. Trong 
					bốn độ trước của lục độ mà chúng ta đã học, chỉ nói về tu 
					phước. Trong hai độ cưối cùng là Thiền định và Trí huệ, 
					chúng ta sẽ học về tu huệ. 
					 
					
					Trước tiên, chúng ta 
					hãy tìm hiểu tánh cách quan trọng và giá trị của Thiền định. 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Thiền định là gì? Thiền 
					phiên âm theo tiếng Phạn là Thiền na, xưa dịch là tư duy, 
					nay các học giả dịch là Tĩnh lự. Tu Tư duy có nghĩa là tu 
					tập bằng phương pháp suy nghiệm, nghiên tầm và suy cứu về 
					những đối tượng của tâm thức. Tĩnh lự có nghĩa là dùng tâm 
					thể vắng lặng để thẩm sát các vấn đề đạo pháp. 
					 
					
					Còn chữ Ðịnh phiên âm 
					theo tiếng Phạn là Tam muội (Samadhi), có nghĩa là tập trung 
					tâm lý vào một đối tượng duy nhất, không để cho tâm ý tán 
					loạn. Hợp hai chữ Thiền và Ðịnh lại, ta có một định nghĩa 
					chung: Tập trung tâm ý vào một đối tượng duy nhất không cho 
					tán loạn, để tâm thể được vắng lặng và cho tâm dụng được 
					mạnh mẽ, hầu quan sát và suy nghiệm chân lý. 
					
					 
					 
					
					II. Các Loại Thiền 
					định   
					
					Thiền định có thể gọi 
					là một trạng thái của tâm lý, trạng thái ấy gọi là trạng 
					thái Tĩnh lự. Song ở Dục giới, tâm lý không thể có được 
					trạng thái ấy, vì nó chỉ phát hiện ở Sắc giới, và Vô sắc 
					giới. Rõ hơn nữa là Thiền thuộc về Sắc giới và Ðinh thuộc về 
					Vô sắc giới. Ở mỗi giới, Thiền và Ðịnh đều phân làm bốn cấp 
					bực từ thấp lên cao, cho nên có danh từ là Tứ thiền và Tứ 
					định.   
					
					Tứ thiền và Tứ định 
					này, tuy là kết qủa của công phu tu tập Thiền định, hay gieo 
					trồng thiện căn, nhưng cũng là chung cho cả Phật pháp, cả 
					Thế gian pháp, cả Thánh cả Phàm. Nói rõ hơn, là dù theo 
					phương pháp Ðạo Phật hay phương pháp nào, nếu có đường lối, 
					có công phu đều có thể đạt đến Tứ thiền và Tứ định; nhưng 
					đây cũng chỉ là thế gian pháp mà thôi. 
					 
					
					Còn nói về pháp Ðịnh 
					của chư Phật, Bồ Tát và A La Hán thì khác. Ðó là Thiền định 
					thuộc Xuất thế gian pháp, không thể phát hiện trong phạm vi 
					Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới được. Muốn đạt đến trạng 
					thái Tĩnh lự của các bậc ấy, người ta phải đạt đến sự thoát 
					ly tam giới. Còn lẩn quẩn trong tam giới thì tâm ý chỉ có 
					thể đạt đến Tứ định là cùng. 
					 
					
					Muốn có được Tứ thiền 
					và Tứ định, chỉ phải thoát ly và đoạn diệt phiền não ở Dục 
					giới. Nhưng nếu muốn đạt các pháp Ðịnh vô lậu, thì phải diệt 
					trừ tất cả các phiền não của Vô sắc giới. 
					 
					
					Trước khi mong đến được 
					Ðịnh vô lậu, phải vấn đến Thiền, bởi vì Thiền là căn bản của 
					Ðịnh. Có được ngũ nhãn, lục thông cũng nhờ Thiền. Vả lại, 
					Thiền có công dụng thẩm sát, nghiên cứu. Nếu muốn quan niệm 
					chân lý, tất phải nhờ đến Thiền, do đó Thiền là pháp tối yếu 
					cho kẻ học đạo.   
					
					Ðứng về phương diện các 
					trình độ của Thiền, kinh sách có dạy như sau: 
					 
					
					1. Thế gian 
					thiền. Thiền này có hai loại: Căn bản vị thiền và 
					Căn bản tịnh thiền. Căn bản vị thiền gồm có mười hai phẩm, 
					phân làm ba: Tứ thiền, Tứ vô lượng và Tứ không. 
					 
					
					Người phàm chán cảnh 
					tán loạn của Dục giới thì tu Tứ thiền. Người muốn phước lớn 
					thì tu Tứ vô lượng. Kẻ nhàm chán cảnh sắc giới chật hẹp thì 
					tu Tứ không. Vì mười hai phẩm Thiền này có thể làm căn bản 
					cho thịện pháp xuất thế gian, nên gọi là căn bản Thiền. Với 
					lại, an trú trong mười hai phẩm ấy, người tu Thiền còn ưa 
					thích cảm giác lạc thọ của Thiền, nên gọi là căn bản vị 
					Thiền.   
					
					Căn bản vị thiền, phân 
					làm hai: Lục diệu môn và Thập lục đặc thắng. Ai có huệ tánh 
					nhiều thì tu Lục diệu môn, kẻ nào có định tánh nhiều thì tu 
					Thập lục đặc thắng. Những ai có huệ tánh và định tánh đều 
					nhau thì có thẻ tu cả hai loại. Vì người ta có thể căn cứ 
					vào pháp Thiền này để phát sinh vô lậu trí, không phải chỉ 
					thuần hữu lậu, như ở Căn bản vị thiền, nên gọi là căn bản 
					tịnh thiền.   
					
					Tuy nhiên, cả hai loại 
					đều chỉ là thế gian thiền mà thôi, vì trước thời Phật giáng 
					thế, phép Thiền này đã có. 
					 
					
					2. Xuất thế gian 
					thiền. Pháp thiền này là của bậc xuất thế. Có bốn 
					thứ Thiền quán: Cửu tướng quán, Bát bối xả quán, Bát thắng 
					xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Tu bốn thiền quán này, 
					tuy là lấy các pháp hữu vi làm đối tượng suy nghiệm, những 
					có thể đi đến kết quả ly dục, phát sinh vô lậu trí, nên gọi 
					là Xuất thế gian thiền.  
					 
					
					3. Xuất thế gian 
					thượng thượng thiền. Ðây là pháp Thiền cao tột của 
					các bậc đại nhân. Kinh Ðịa trì có giải về chín môn đại thiền 
					này như sau:   
					
					Một là "Tự tánh thiền", 
					nghĩa là quán sát thật tướng của tự tâm, không cần lấy đối 
					tượng ngoại cảnh.   
					
					Hai là "Nhất thiết 
					thiền", có công năng tự hành và hóa tha. 
					 
					
					Ba là "Nan thiền", môn 
					Thiền gian nan, thâm diệu, khó tu. 
					 
					
					Bốn là "Nhất thiết môn 
					thiền", có nghĩa là tất cả các pháp Thiền định đều do môn 
					(cửa) này mà phát xuất.  
					 
					
					Năm là "Thiện nhân 
					thiền", môn Thiền của những chúng sanh có đại thiện căn cùng 
					tu.   
					
					Sáu là "Nhất thiết hạnh 
					thiền", bao nhiếp tất cả hạnh pháp của Ðại Thừa. 
					 
					
					Bảy là "Trừ não thiền", 
					có năng lực trừ diệt phiền não, khổ đau cho chúng sinh. 
					 
					
					Tám là "Thử thế tha thế 
					lạc thiền", có năng lực làm cho chúng sinh an lạc trong hiện 
					tại và tương lai.   
					
					Chín là "Thanh tịnh 
					tịnh thiền", có năng lực đoạn trừ hoàn toàn các hoặc nghiệp, 
					và chứng được Tịnh báo đại Bồ đề. Ðến môn Thiền này, tâm ý 
					hoàn toàn thanh tịnh và lại cũng không còn thấy cái tướng 
					thanh tịnh ấy nữa, nên gọi là Tịnh báo.  
					
					  
					
					III. Công Năng Của 
					Thiền định   
					
					Theo Bồ Tát hạnh, có 
					thể tu tập Thiền định và đạt đến mười kết quả tốt đẹp sau 
					đây:   
					
					Một là được an trụ 
					trong pháp thức uy nghi. Tu Thiền định phải theo pháp thức 
					mà hành trì, như vậy trải qua một thời gian khá lâu, thì ngũ 
					căn được tịch tịnh, chánh định phát khởi, không cần có sự cố 
					gắng mà vẫn được an trụ trong pháp thức oai nghi. 
					 
					
					Hai là được thực hành 
					cảnh giới từ bi. Khi tu Thiền định, thì giữ được tâm từ bi, 
					thương yêu chúng sinh, muốn cho tất cả được an ổn. 
					 
					
					Ba là không còn phiền 
					não. Nhờ năng lực Thiền định mà các phiền não tham, sân, si, 
					không còn phát sinh nữa.  
					 
					
					Bốn là gìn giữ được các 
					giác quan. Không cho sắc, thanh, hương, vị, xúc lay động. 
					 
					
					Năm là vui vẻ lạc thú. 
					Xem Thiền định là một món ăn ngon lành hơn tất cả các món ăn 
					khác trong thế gian.  
					 
					
					Sáu là xa lìa được ái 
					dục. Một khi tâm niệm đã lắng yên, ái dục không còn phát 
					sinh và làm nhiễm trước được nữa. 
					 
					
					Bảy là chứng được chân 
					không ,nhưng không bao giờ bị rơi vào chỗ chấp đoạn diệt hư 
					vô.   
					
					Tám là cởi mở được tất 
					cả những dây trói buộc sự giải thoát. 
					 
					
					Chín là khai phát được 
					trí huệ vô lượng và an trú trong cảnh giới của chư Phật. 
					 
					
					Mười là đạt đến sự giải 
					thoát thành thục, đến chỗ mà tất cả hoặc nghiệp không còn 
					nhiễu lại được nữa. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận: 
					 
					
					Chúng ta có thể tóm tắt 
					thành quả tốt đẹp của Thiền định như sau: 
					 
					
					Ngũ căn được tự tại, 
					phiền não được dứt trừ ,từ bi được mở rộng, trí huệ được 
					phát chiếu, cảnh giới giải thoát được phô bày ra trước mắt. 
					Một pháp môn có công năng quí báu, có diệu dụng phi thường 
					như thế, làm sao chúng ta có thể bỏ qua được? 
					 
					
					Mong rằng vì lợi ích 
					thiết thực nói trên, quí vị Phật tử hãy gắng công tu tập 
					pháp môn Thiền định này cho chíng có kết quả.
					 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 8 (tt) 
					
					  
					
					Ðộ thứ sáu: Trí Huệ Ba La Mật  
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Trong đạo Phật, hai 
					tiếng vô minh được nhắc nhở đến luôn, vì chính vô minh là 
					nguồn gốc, là đầu dây mối nhợ của đau khổ của sanh tử luân 
					hồi. Phật thường dạy: "Cái khổ của lạc đà, của lừa ngựa chở 
					nặng mãn kiếp, cái khổ trôi lăn trong tam giới chưa gọi là 
					khổ. Ngu si không trí huệ tin tưởng sai lạc, không biết 
					hướng đi, cái ấy mới thật là khổ". 
					 
					
					Ngài còn dạy một cách 
					mạnh mẽ, dứt khoát hơn: "Si là gốc của tội lỗi, Trí huệ là 
					gốc của muôn hạnh lành". Chúng ta là Phật tử chúng ta không 
					muốn gây tội lỗi để chịu quả khổ đau, chúng ta chỉ mong làm 
					được các hạnh lành để hưởng phước quả và được giải thoát. 
					Vậy tất nhiên chúng ta phải tu huệ, trì Trí huệ Ba la mật.  
					
					  
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Trí huệ là gì? "Trí" 
					phiên âm chữ phạn là Phã na; "Huệ" phiên âm chữ Phạn là Bát 
					nhã. "Trí" có nghĩa là quyết đoán; "Huệ" có nghĩa là giản 
					trạch, Tự điển Phật học Trung Hoa định nghĩa như sau: "Trí 
					là biết Tục đế và Huệ là thông hiểu Chân đế".  
					 
					
					Cũng có thể nói: Trí là 
					thể tánh sáng suốt trong sạch, Huệ là cái Diệu dụng xét soi 
					tự tại. Trí huệ Ba la mật là thể tánh sáng suốt có khả năng 
					soi sáng sự vật một cách thấu đáo tinh tường đến nơi đến 
					chốn, không thể sai lầm được. 
					
					  
					 
					
					II. Các Loại Trí 
					Huệ   
					
					Trí huệ như định nghĩa 
					trên là trí huệ của đạo Phật, chứ không phải trí huệ phổ 
					thông, thường dùng trong các sự học hỏi hiểu biết, suy luận 
					hằng ngày trong đời.  
					 
					
					Theo triết học Phật 
					Giáo, khả năng nhận thức có hai loại: Hiện lượng và tỷ 
					lượng.   
					
					1. Hiện lượng: 
					Là sự nhận biết trực tiếp không cần qua trung gian suy luận. 
					Hiện lượng lại chia làm hai: 
					 
					
					Chân hiện lượng, là 
					nhận thức trực tiếp mà đúng. 
					 
					
					Tợ hiện lượng, Là nhận 
					thức trực tiếp mà sai   
					 
					
					2. Tỷ lượng: 
					Là sự nhận biết qua trung gian suy luận. Tỷ lượng cũng có 
					hai thứ:   
					
					Chân tỷ lượng, là lối 
					hiểu biết bằng suy luận đúng đắn. 
					 
					
					Tợ tỷ lượng, là lối 
					hiểu biết mà suy luận mà sai lầm. 
					 
					
					Hiện lượng của địa vị 
					phàm phu rất kém cỏi và phần nhiều là tợ hiện lượng. Tỷ 
					lượng của địa vị phàm phu lại còn kém cỏi hơn nữa và phần 
					nhiều là tợ tỷ lượng. Ðứng về phương diện tính chất, Ðạo 
					Phật chia trí huệ ra làm hai loại lớn là " Căn bản trí" và " 
					Hậu đắc trí".   
					
					1. Căn bản trí: 
					Căn bản trí, là giác tính minh diệu mà mỗi chúng sinh vốn đã 
					có sẵn, nhưng vì bị phiền não che lấp, nên chưa phát chiếu 
					ra được. Có thể so sánh căn bản trí như là một chất kim khí 
					quí báu (vàng, bạc) đang ở trong trạng thái khoáng chất, nằm 
					lần lộn với đá (phiền não vô minh) 
					 
					
					2. Hậu đắc trí: 
					Hậu đắc trí, là trí huệ có được nhờ công phu tu tập như trì 
					giới, thiền định v.v...Có thể so sánh Hậu đắc trí như chất 
					kim khí (vàng, bạc) được lọc từ khoáng chất ra và không còn 
					lẫn lộn với đất đá, bụi bặm nữa (phiền não, vô minh). 
					 
					
					Theo Duy thức học, sau 
					khi đạt đến địa vị Giác ngộ, nghĩa là có được "Hậu đắc trí", 
					thì tám thức chuyển thành bốn trí: 
					 
					
					Thức thứ tám, A lại da 
					có tác dụng là chấp trí sanh mạng và chủng tử, được đạt đến 
					địa vị vô lậu và biến thành "Ðại viên cảnh trí" (trí sáng 
					như bức gương lớn và tròn đầy, tượng trưng cho biển cả chơn 
					như).   
					
					Thức thứ bảy, Mạt na có 
					tác dụng là chấp ngã, biến thành "bình đẳng tánh trí" (trí 
					có năng lực nhận thức cách bình đẳng, vô ngã của vạn pháp). 
					 
					
					Thức thứ sáu, Ý thức có 
					tác dụng là phân biệt, biến thành "Diệu quan sát trí" (trí 
					có năng lực quan sát thâm diệu). 
					 
					
					Năm thứ cuối (nhãn 
					thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức) biến thành 
					"Thành sở tác trí" (trí có năng lực nhận thức cùng khắp và 
					thần diệu) 
					
					 
					 
					
					III. Làm Thế Nào Ðể 
					Có được trí Huệ?  
					 
					
					Muốn có được trí huệ, 
					đức Phật chế ra nhiều pháp tu. Trong số nhiều pháp tu ấy thì 
					"Văn, Tư, Tu" và "Giới, Ðịnh, Huệ" là những pháp thường được 
					nhắc nhở và thực hành nhiều nhất. 
					 
					
					Văn, Tư, Tu: Văn, Tư, 
					Tu là ba pháp tu để có được trí huệ: 
					 
					
					Văn huệ: là huệ 
					do tai nghe âm thanh, mắt thấy âm tự của Phật, hay qua các 
					kinh điển mà hiểu được nghĩa lý. 
					 
					
					Tư huệ: là huệ 
					do trí suy nghĩ, tìm tòi, rõ được nghĩa lý, hiểu được sự 
					thật.   
					
					Tu huệ: là huệ 
					do tu hành thể nghiệm và thể nhập chân lý, mà gíac ngộ, 
					chứng được sự thật.   
					
					Văn, tư, tu rất tương 
					quan mật thiết với nhau, hành giả cần phải chuyên tu cả ba 
					thứ, không thể bỏ qua một thứ nào mà thành tựu được. Hãy 
					nghe Phật dạy:   
					
					" Văn huệ, tư huệ, tu 
					huệ, ba môn khuyết một không được. Nếu ai nghe mà không suy 
					nghĩ, thì như làm ruộng mà không gieo mạ; nếu suy nghĩ mà 
					không tu, thì như làm ruộng mà không tát nước, bừa cỏ, rốt 
					cuộc không có kết quả. Ba huệ được đầy đủ thì chứng quả Tam 
					thừa?" (Sa Di thập giới). 
					 
					
					Giới: là lời răn dạy 
					của Phật (xem lại bài Trì giới Ba la mật). 
					 
					
					Ðịnh: là thiền định, 
					giữ cho tâm ý không loạn động, để suy nghiệm đến những vấn 
					đề căn bản của Ðạo (xem lại bài Thiền Ðịnh Ba la mật). 
					 
					
					Huệ: là sự phát chiếu 
					của Trí, sau khi đã tẩy sạch phiền não và vô minh. 
					 
					
					Giới, Ðịnh, Huệ tương 
					quan mật thiết với nhau: Do trì giới mà thân tâm không loạn 
					động. Do thân tâm không loạn động mà tâm trí được Ðịnh. Tâm 
					trí khi đã định thì Trí huệ phát chiếu. 
					 
					
					Ngược lại, Trí huệ phát 
					chiếu thì tâm dễ Ðịnh, Tâm đã Ðịnh thì Trì giới không khó 
					khăn.   
					
					Tóm lại: Giới, định, 
					huệ, đều tương duyên tương quan mật thiết với nhau, một cái 
					tăng thì hai cái kia cũng tăng. 
					
					 
					 
					
					IV. Công Năng Của 
					Trí Huệ   
					
					Như chúng ta đã thấy 
					trong phần chia loại, trí huệ khi đã đạt đến địa vị Giác ngộ 
					(tám thức chuyển thành bốn trí) thì công năng, diệu dụng của 
					nó rộng lớn vô cùng, không thể nói hết. Tuy thế, để có một 
					quan niệm tương đối rõ ràng, chúng ta có thể nêu lên ba công 
					năng chính của trí huệ như sau: 
					 
					
					1. Dứt trừ phiền 
					não: Phiền não là do mê lầm phát sinh. Khi trí huệ 
					đã có thì mê lầm phải mất, như khi ánh sáng phát ra thì bóng 
					tối tất phải tan biến. Mê lầm đã mất thì phiền não tất không 
					còn phát sinh nữa.   
					
					2. Chiếu sáng sự 
					vật: Sự vật bị vô minh che khuất, như màn sương sớm 
					che phủ cảnh vật, nay trí huệ phát chiếu vào sự vật, chẳng 
					khác gì khi ánh sáng mặt trời lên, thì màn sương tất phải 
					tan biến, lúc bấy giờ thực tướng thực tánh của sự vật được 
					lộ bày như thật.   
					
					3. Thể nhập chân 
					lý: Khi bị vô minh phủ lấp, ngăn che thì người ta 
					với vật tưởng như riêng biệt, sai khác. Nay nhờ trí huệ soi 
					sáng, thấy rõ được tâm cảnh đều chơn không, nên thể nhập 
					được chân lý, giác ngộ hoàn toàn.  
					
					  
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Gíá trị và công năng 
					của trí huệ lớn lao không thể nói hết. Nó là cứu cánh của 
					người Phật tử. Cứu cánh ấy, chúng ta phải cố đạt cho được. 
					 
					
					Trước khi nhập Niết 
					Bàn, đức Phật cũng đã thiết tha khuyên các Ðệ tử phải trao 
					dồi trí huệ như sau:  
					 
					
					" Trí huệ là chiếc 
					thuyền kiên cố chở khỏi biển già, đau, chết; là ngọn đèn lớn 
					chói sáng vô minh hắc ám, là liều thuốc hay chữa hết thảy 
					bệnh tật, là chiếc búa sắt chặt gãy cây phiền não. Vậy các 
					người phải lấy sự nghe, sự suy nghĩ, sự tu tập mà tự tăng 
					ích cho trí huệ mình". (Kinh Di Giáo). 
					 
					
					Những lời nhắn nhủ 
					thống thiết của đức Bổn sư, chúng ta không thể không ghi nhớ 
					và thực hành được. Vả chăng, trong sáu độ Ba la mật mà chúng 
					ta đã học trong ba bài kế tiếp này, mục đích cũng chỉ để dẫn 
					đến độ thứ sáu là trí huệ, cái mức độ cuối cùng của đạo Giác 
					ngộ và giải thoát.   
					
					Cầu mong tất cả quý vị 
					Phật tử có được trí huệ để tự độ và độ tha đến bên kia bờ 
					giải thoát. 
					
					 
					 
					
					Tổng Kết Về Lục Ba La 
					Mật   
					
					Ðạo Phật là đạo từ bi, 
					mà cũng là đạo giác ngộ. Từ bi thuộc về phước, giác ngộ 
					thuộc về huệ. Phước và Huệ là hai cánh làm cho con chim đại 
					bàng là hành giả làm bay thẳng đến bờ giải thoát. Do đó, 
					trong kinh thường nói: "Phước, Huệ song tu mới thành ngôi 
					Chánh giác". Trong sáu pháp Ba la mật, bố thí và nhẫn nhục 
					thuộc về tu phước; thiền định và trí huệ thuộc về tu huệ; 
					còn trì giới và tinh tấn là hai chất liệu có công dụng kiểm 
					soát và đốc thúc cho việc tu phước và huệ được thành tự hoàn 
					toàn.   
					
					Nếu chúng ta đem so 
					sánh một cách mộc mạc và đơn giản sáu pháp Ba la mật với 
					chiếc thuyền Bát nhã đưa người từ bờ mê đến bến giác, thì: 
					Từ bi là thức ăn, nhẫn nhục là nước uống, tinh tấn là cánh 
					buồm và chèo, trì giới là bánh lái, thiền định là la bàn và 
					trí huệ là đèn đuốc. Sáu thứ ấy đều cần thiết cho người thủy 
					thủ sẽ gặp khó khăn trong công cuộc hành trình vạn dặm của 
					mình.   
					
					Ðứng về một khía cạnh 
					khác để nhận xét giá trị của lục độ, chúng ta sẽ thấy như 
					thế này: Bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí 
					huệ thuộc về Trí, còn trì giới và tinh tấn thuộc về Dũng. 
					Một Phật tử hoàn toàn phải có đủ ba phương tiện Bi, Trí, 
					Dũng mới mong đi đến bờ giác ngộ một cách thông suốt và 
					nhanh chóng.   
					
					Vậy trong quí vị Phật 
					tử tại gia cũng như xuất gia, trong khi học và hành sáu pháp 
					Ba la mật, đừng nên xem thường một pháp nào. Có như thế mới 
					đủ phương tiện và năng lực để tự đọ và độ tha, đến nơi cùng 
					tột và đúng với ý nghĩa Ba la mật. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 9
					 
					Bốn Món 
					Tâm Vô Lượng 
					
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Ðứng về phương diện 
					tuyệt đối, hay chơn như môn, thì tâm của chúng sinh hay tâm 
					của Phật cũng vẫn là một, không có rộng hẹp, thấp cao, sai 
					khác, ngăn cách.   
					
					Nhưng đứng về phương 
					diện tương đối hay sinh diệt môn, thì tâm có muôn hình vạn 
					trạng, tùy theo chủng tánh của chúng sinh mà có cao thấp, 
					rộng hẹp không đồng. Hễ nghĩ đến tham, sân, si, mạn 
					v.v...thì tâm trở thành nhỏ hẹp, lớn bé, ngàn sai, muôn 
					khác, cũng như cùng một thứ bột mà do người thợ làm bánh, 
					khéo hay vụng mà có bánh ngon, bánh dở, bánh tốt, bánh xấu, 
					bánh lạt, bánh mặn v.v...Cho nên Tôn cảnh Lục có chép: " Tâm 
					tạo chư Phật, tâm tạo chúng sinh, tâm tạo thiên đường, tâm 
					tạo địa ngục. Tâm vọng động thì ngàn sự sai biệt tranh khởi, 
					tâm bình thì thế giới thản nhiên, tâm phàm thì ba món độc 
					trói buộc, tâm thánh thì sáu món thần thông tự tại, tâm 
					không thì nhứt đạo thanh tịnh, tâm hữu thì vạn cảnh tung 
					hoành. Tự mình đạp mây mà uống nước cam lồ, chẳng có ai cho 
					mình. Nằm trong lửa hừng mà uống máu mủ cũng tự mình gây 
					nên, không phải trời sanh ra, cũng không phải do đất mà có 
					".   
					
					Xem thế thì cũng đủ 
					biết tâm là động lực chính để làm cho ta sướng hay khổ, vui 
					hay buồn, trầm luân hay giải thoát. 
					 
					
					Vậy muốn thoát khỏi khổ 
					sanh tử luân hồi, muốn được quả vị thánh nhân, Bồ Tát, chúng 
					ta cần trau giồi cho được một tâm vô cùng rộng lớn, một "vô 
					lượng tâm". 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Vô lượng là gì? Vô 
					lượng nghĩa là nhiều, rộng lớn, không thể lường tính được. 
					 
					
					Tâm vô lượng là tâm vô 
					cùng rộng lớn thoát ra khỏi sự ràng buộc của các thứ phiền 
					não đê hèn của phàm phu, phá vỡ được các thứ quan niệm chấp 
					trước hẹp hòi của Nhị thừa, là tâm có một vùng thương yêu 
					rộng lớn có thể bao trùm đến vô lượng chúng sinh, và tìm 
					phương cứu cho tất cả. Vô lượng tâm cũng có nghĩa là "Ðẳng 
					tâm", cái tâm bình đẳng, phổ biến; bình đẳng, vì tâm này chỉ 
					tự nhiên, không phân biệt so đo thấp cao, hơn kém; phổ biến, 
					bởi nó trang trải mọi nơi chẳng khu biệt, giới hạn. 
					 
					
					Và dĩ nhiên, nhân nào 
					quả nấy: do thi hành bình đẳng, phổ lợi cho vô lượng chúng 
					sinh, nên chi tâm này có công năng dẫn sinh vô lượng phước 
					đức, làm cho sự kiện căn bản để cảm thành vô lượng quả báo 
					tốt đẹp, ấy là quả vị Bố tát và Phật đà. 
					 
					
					Hơn nữa, tâm này không 
					những làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh, dẫn sinh vô lượng 
					phước đức, và tạo thành vô lượng quả vị tốt đẹp trong một 
					thế giới và trong một đời, mà còn lan rộng ra đến vô lượng 
					thế giới trong vô lượng kiếp sau này, và tạo thành vô lượng 
					chư Phật.   
					
					Tóm lại, chữ vô lượng ở 
					đây hàm nhiều nghĩa, vô lượng nhân lành, vô lượng quả đẹp, 
					vô lượng chúng sinh, vô lượng thế giới, vô lượng đời kiếp, 
					vô lượng chư Phật và Bồ Tát. 
					
					 
					 
					
					II. Thành Phần Và 
					hành Tướng  Của Bốn Món Tâm Vô Lượng  
					 
					
					Tâm vô lượng gồm có bốn 
					phần là: bi vô lượng, từ vô lượng, hỷ vô lượng và xả vô 
					lượng.   
					
					1. Bi vô lượng. 
					Bi là lòng thường xót rộng lớn trước những nỗi đau khổ của 
					chúng sinh và quyết tâm làm cho dứt trừ những đau khổ ấy. 
					Như chúng ta đã học trong khóa thứ ba nói về Tứ đế, cái khổ 
					của chúng sinh thật là mênh mông, rộng lớn không thể nói 
					hêt. Nó bao trùm cả nhân lẫn quả, cả thời gian lẫn không 
					gian, cả phàm lẫn thánh, thật đúng là vô lượng khổ. 
					 
					
					Khổ nằm trong nhân. 
					Trong các kinh điển thường có câu: "Bồ Tát sợ nhân, chúng 
					sinh sợ quả". Chúng sinh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi 
					nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong khi đang gây nhân 
					thì lại không nhận thấy, mà vẫn cứ thản nhiên như không. Họ 
					đang sống trong cảnh khổ mà họ không biết, nhiều khi lại cho 
					là vui. Họ hoan hô tán thán và khuyến khích nhau gây khổ mà 
					cứ tưởng là vui, như những đứa trẻ quẹt diêm quăng lên mái 
					nhà lá, rồi vỗ tay reo mừng với nhau. Vì thiếu sáng suốt cho 
					nên đôi khi họ gây khổ để cứu khổ, chẳng khác gì làm cho đỡ 
					khát bằng cách uống nước mặn. 
					 
					
					Khổ nằm trong quả. Ðã 
					gây nhân quả, thì tất phải chịu quả khổ, đó là lẽ tất nhiên. 
					Có ai trồng khoai mà được đậu bao giờ? Thế mà người đời ít 
					ai chịu công nhận như thế. Người ta oán trời trách đất, rên 
					khóc thảm thiết, làm cho cõi đời đã đen tối lại càng đen tối 
					thêm, cuộc sống đã khổ sở lại càng khổ sở thêm. 
					 
					
					Khổ sở bao tùm cả thời 
					gian. Từ vô thỉ đến nay, cái khổ chưa bao giờ dứt, mà cứ 
					trồng thêm lên mãi. Nó gây nhân rồi lại kết quả, kết quả rồi 
					lai gây nhân, cứ thế tiếp tục mãi trong một vòng lẩn quẩn, 
					như bánh xe lăn tròn trên đường thiên lý, không bao giờ dừng 
					nghỉ.   
					
					Khổ bao trùm cả không 
					gian. Cái khổ không có phương sở và quốc độ; ở đâu có vô 
					minh thì ở đó có khổ! Mà vô minh thì như một tấm màn vô tận, 
					bao trùm không chỉ một thế giới khác nữa. Khoảng không gian 
					mênh mông vô tận như thế nào, thì nỗi khổ đau cũng mênh mông 
					vô tận như thế ấy:   
					
					Khổ chi phối cả phàm 
					lẫn thánh. Chúng sinh ở địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đã đành 
					là khổ vô cùng, loài người vì say đắm ngũ dục lạc, và tham 
					sân, si chi phối, nên cũng quay cuồng lặn hụp trong biển khổ 
					như còn chư thiên mặc dù không khổ như người, nhưng cũng 
					không tránh được cái khổ vì ngũ suy tướng hiện. Cho đến các 
					hàng thánh như Thanh Văn, Duyên giác, vì còn mê pháp, trụ 
					trước Niết Bàn, nên cũng không tránh khỏi nỗi khổ biến dị 
					sanh tử. Xem thế đủ biết nõi khổ thật là lớn lao vô lượng. 
					Có được một lòng thương xót lớn lao vô lượng cân xứng với 
					nỗi đau khổ vô lượng và có một chí nguyện cứu độ tất cả 
					thoát khỏi nỗi đau khổ vô lượng, ấy là tâm Bi vô lượng. 
					 
					
					Các vị Bồ Tát nhờ có 
					lòng đại bi nên đã phát tâm bồ đề rộng lớn, thệ nguyện độ 
					khắp tất cả. Các Ngài nhận thấy mình có sứ mạng vào trong 
					sanh tử để hóa độ chúng sinh, nên không chấp trệ ở Niết Bàn. 
					Sứ mạng chính của các Ngài là gần gũi chúng sanh để: 
					 
					
					Làm cho chúng sanh nhận 
					được mặt thật của cõi đời, rõ thế nào là tà là chánh, là khổ 
					là vui.   
					
					Làm cho chúng sanh nhận 
					rõ được thân phận của mình mà thôi làm các điều ác, chừa các 
					điều tội lỗi.   
					
					Xem như thế đủ biết 
					lòng đại bi chính là động lực chánh để đi đến quả vi bỗ tát 
					và Phật. Trong đại hội Hoa Nghiêm đức bồ tát Phổ Hiền cũng 
					tự nhận và nói như thế này: "Nhơn vì chúng sanh mà khởi lòng 
					đại bi. Nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề. Nhơn phát tâm bồ 
					đề tiến thành ngôi chánh giác". 
					 
					
					Câu nói của Ngài Phổ 
					Hiền đã rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa. Phật đã dạy: 
					"Hạt giống Bồ đề, không thể gieo trên hư không, chỉ trồng 
					trên đất chúng sinh mà thôi". Vậy, chúng ta là Phật tử, muốn 
					tu bồ tát hạnh, tất phải mở rộng lòng Bi, thương xót tất cả, 
					không phân chia nhân, ngã, bỉ, thử, và phải phát nguyện độ 
					khắp tất cả, nghĩa là phải tu luyện cho có được một lòng Bi 
					vô lượng.   
					
					2. Từ vô lượng. 
					Từ là mến thương và vì mến thương mà gây tạo cái vui cho 
					người. Từ vô lượng là lòng mến thương vô cùng rộng lớn, đối 
					với toàn thể chúng sanh, và gây tạo cho chúng sanh cái vui 
					chân thật.   
					
					Vui của thế gian sở dĩ 
					gọi là giả tạm, vì cái vui ấy không bền, cái vui ấy còn 
					phiền não chi phối: khi tham, sân, si, mạn được thỏa mãn thì 
					vui, nhưng có bao giờ những thứ dục vọng ấy có thể thỏa mãn 
					được hoàn toàn và lâu bền đâu? 
					 
					
					Còn vui xuất thế gian 
					là cái vui chân thật, vì nó lâu bền, thoát ra ngoài vòng 
					phiền não của tham, sân, si, mạn; nó không bị dục vọng chi 
					phối. Cái vui này không ồn ào, sôi nổi nhưng vĩnh viễn nhẹ 
					nhàng, vì là cái vui của cảnh giới giải thoát siêu phàm. 
					 
					
					Muốn có được cái vui 
					này, thì trước tiên phải dứt trừ cho hết các khổ do phiền 
					não gây ra. Nếu không ngăn chặn được tham,sân, si hoành 
					hành, thì chỉ có thể có được một cái vui nhất thời giả dối. 
					 
					
					Bởi thế, các vị Bồ Tát 
					muốn ban vui cho chúng sanh, thì trước tiên phải có lòng từ 
					bi vô lượng như đã nói trên, để luôn luôn răn nhắc chúng 
					sanh đừng gây tội dìu dắt chúng sanh tránh xa những hố hầm 
					nguy hiểm.   
					
					Qua các giai đoạn đầu 
					tiên ấy rồi, các Ngài mới hướng dẫn chúng sanh đi lên con 
					đường quang minh chánh đại, con đường sáng để tiến địa vị 
					giải thoát mà hưởng cái vui vĩnh viễn. Nói một cách rõ ràng 
					hơn là lòng Từ phải đi theo lòng Bi: Bi để chỉ nguyên nhân 
					của đau khổ và khuyên bảo chúng sanh đừng gây nhân khổ; Từ 
					để chỉ rõ phương pháp diệt khổ và được vui. 
					 
					
					Tỷ dụ Bồ Tát muốn cho 
					chúng sanh hưởng cảnh Niết Bàn, thì trước hết các Ngài chỉ 
					cho biết thế nào là khổ (khổ đế) và đâu là nhơn của khổ (tập 
					đế), sau mới chỉ cho thấy cái vui Niết Bàn như thế nào (diệt 
					đế). Nếu chúng sanh y theo lời dạy của các Ngài mà thi hành, 
					thì cái vui Niết Bàn sẽ xuất hiện. Như thế, động lực dạy cho 
					chúng sanh biết khổ đế và tập đế là Bi, còn động lực dạy cho 
					chúng sanh biết diệt và đạo đế là Từ. 
					 
					
					Nhưng nỗi khổ của chúng 
					sanh đã là vô lượng, lòng Bi đã là vô lượng, thì lòng Từ 
					cũng phải như thế. Muốn thành tựu tâm Từ này, Bồ Tát phải 
					dùng đủ phương tiện để làm lợi lạc cho chúng sanh. Tựu trung 
					có hai điểm quan trọng sau đây mà Bồ Tát không thể bỏ qua 
					trong khi hóa độ chúng sanh là: Tùy cơ và tùy thời. 
					 
					
					Tùy cơ: Nghiã là 
					quan sát trình độ căn bản của chúng sanh như thế nào rồi tùy 
					theo đó mà dạy bảo. Tâm bệnh của chúng sanh vô lượng, nên 
					thuốc pháp của Bồ Tát cũng vô lượng. Nhưng chính vì bệnh vô 
					lượng mà thuốc cũng vô lượng nên cho thuốc đúng với bệnh là 
					một điều mà chỉ có các vi lương y đại tài như Hoa Ðà, Biển 
					Thước mới làm được.   
					
					Các vị bồ tát sở dĩ hóa 
					độ được nhiều chúng sanh là nhờ, ngoài trí huệ sáng suốt, 
					còn có một tâm Từ vô lượng, không quản khó khăn, không ngạị 
					gian nguy, một lòng kiên nhẫn vô biên như lòng kiên nhẫn của 
					người mẹ đối với người con, quyết tâm tác thành cho con nên 
					người mới thôi. Nếu không có được trí huệ, chí kiên nhẫn và 
					nhất là lòng từ bi vô lượng như các vị bồ tát thì khó tránh 
					khỏi cái nạn thối chuyển vì trần sa hoặc. 
					 
					
					Dưới đây là một đoạn 
					văn chương trong Kinh Hoa Nghiêm có thể chứng minh một cách 
					hùng hồn lòng Từ vô lượng của đức Phổ hiền: 
					 
					
					"...Hằng thuận chúng 
					sanh là như thế nào? Nghĩa là có bao nhiêu chúng sanh ở cõi 
					nước mười phương trong cả pháp giới, hư không giới...tôi đều 
					tùy thuận mà chuyển mọi thứ thừa sự, mọi cách cúng dường, 
					như kính cha mẹ, như phụng sự sư trưởng và A La Hán cho đến 
					bực Như Lai đều đồng không khác. Với kẻ bịnh khổ thì làm 
					lương y cho họ, với kẻ lạc đường, chỉ lối thẳng cho họ, với 
					kẻ trong đêm tối, làm cho họ được sáng lên và với kẻ nghèo 
					cùng, khiến cho họ được gặp của...Bồ Tát làm lợi ích bình 
					đẳng với tất cả chúng sanh như thế là vì Bồ Tát nhận thấy 
					rằng tùy thuận chúng sanh tức là tùy thuận cúng dường chư 
					Phật nên tôn trọng thừa sự chúng sanh tức là tôn trọng thừa 
					sự Như lai..".   
					
					Tùy thời. Tức là 
					thích ứng với thời đại với giai đoạn mà hóa độ chúng sanh. 
					Thời gian xoay vần cuộc thế biến chuyển mỗi khi một khác. 
					Thời tiết có khi mưa, khi nắng, thay đổi theo bốn mùa, thì 
					lòng người cũng có khi thích cái này khi ưa cái khác. Nếu 
					phương pháp hóa độ không biến chuyển, không thay đổi để cho 
					thích nghi với hoàn cảnh, với giai đoạn thì phương pháp dù 
					hay ho bao nhiêu, cũng chẳng thu được kết quả gì tốt đẹp. Bồ 
					Tát hiểu rõ như thế, nên khi dạy chúng sanh cũng phải theo 
					thời thế, biết khi nào là tượng pháp, khi nào mạt pháp để 
					cho giáo pháp được thích hợp với căn cơ. 
					 
					
					Tóm lại, muốn hóa độ 
					chúng sanh một cách có hiệu qủa thì Bồ Tát bao giờ cũng 
					không quên hai điều chính là tùy cơ và tùy thời. Kinh "Tâm 
					Ðịa Quán" cũng có dạy:  
					 
					
					" Các đức Phật chuyển 
					pháp luân, vẫn tùy cơ mà nói pháp, bao giờ cũng tránh bốn 
					điều sai lạc; một là nói không phải chỗ; hai là nói không 
					phải thời; ba là nói không phải là căn cơ; bốn là nói không 
					phải pháp".   
					
					Bởi những lẽ trên nên 
					Bồ Tát trong lúc hóa độ khi thì hiện thân, khi thì ẩn thân 
					lúc làm thuận hạnh, lúc lại nghịch hạnh, khi dùng oai dũng, 
					lúc lại Từ hòa. Công hạnh của bồ tát sai khác nhiều đến vô 
					lượng, nhưng chỉ phát sinh từ một ý duy nhất là tạo cái vui 
					chân thật cho chúng sanh. 
					 
					
					Nên nhớ "tạo cái vui 
					chân thật" ở đây, không có nghĩa là tạo ra cảnh giới thiên 
					đàng hay cảnh giới cực lạc để cho những chúng sanh thân yêu 
					của mình vào hưởng, như người ta ban phép lạ, mà chỉ có 
					nghĩa là tạo cho chúng sanh cái mầm an vui chân thật bằng 
					cách thức tỉnh, dắt dẫn chúng sinh tránh các điều dữ làm các 
					điều lành một cách tích cực mạnh mẽ, cho đến khi cái mầm 
					vui, nhờ các hành động lành ấy mà kết quả vui mới thôi. 
					 
					
					Ðấy, lòng Từ vô lượng 
					là thế. Như trên đã nói Từ phải đi theo với Bi. Nếu chỉ có 
					Bi không, thì đại nguyện của Bồ tát chưa thành, vì mới chỉ 
					cứu hkổ, chứ chưa ban vui. Chúng ta là Phật tử, muốn tu hạnh 
					Bồ Tát phải luyện tập cho lòng Từ mở rộng, mở rộng mãi cho 
					đến vô lượng vô biên.  
					 
					
					3. Hỷ vô lượng. 
					Hỷ là gì? Nói cho đúng là tùy hỷ, nghĩa là "vui theo". "Vui 
					theo" có nhiều cách:  
					 
					
					Phóng tâm vui theo 
					những cảnh trần: nào sắc, nào thanh, nào hương, nào vị, nào 
					xúc, nào pháp..để mặc cho nó làm chủ, không biết phản giác, 
					không biết tỉnh ngộ mà dẹp trừ những hiện hành phiền não, ấy 
					là vui theo dục vọng, theo thói quen phóng túng của lòng 
					phàm.   
					
					Vui theo ác nghiệp, như 
					khi thấy một người sát sanh, uống rượu, trộm cướp..đáng lẽ 
					ta nên khuyên can mà lại không, còn bằng lòng theo họ đi vào 
					con đường ác. Sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích 
					đồng lỏa với kẻ ác vậy.  
					 
					
					Vui theo những việc 
					nhơn từ phước thiện, như khi thấy người đem của ra bố thí, 
					lập nhà thương, ta tán thành, giúp đỡ vui theo với công việc 
					của họ. Sự vui theo này là một bước tiến đi đến con đường 
					thiện nghiệp. Tuy thế, ta nên phân biệt hai trường hợp tốt 
					sẽ được nhiều phước báo, còn nếu không vì lòng thiện, nhưng 
					vì thấy người làm thiện được người ta ca tụng, danh tiếng 
					vang lừng mà mình cùng hùa theo tán thành, giúp đỡ để được 
					tiếng khen lây, thì không khéo chỉ gây thêm ngã ái ngã mạn. 
					 
					
					Khác với những lối vui 
					trên, là những lối vui tầm thường của thế gian, hàng Nhị 
					thừa chỉ vui theo cảnh giới Niết Bàn tịch tịnh. Thứ vui theo 
					này, tuy không có tánh cách trụy lạc ác độc, nhưng theo 
					chánh giáo, thì cũng còn hẹp hòi, thiếu lòng Từ bi rộng rãi 
					và chưa phải đúng nghĩa "hỷ" vô lượng tâm. Ðức Phật còn quở 
					đó là cái vui "Khôi thân diệt trí" hay "thu tịch Niết Bàn". 
					 
					
					Chỉ có sự "vui theo" 
					sau đây của Bồ Tát mới đúng với nghĩa tâm Hỷ vô lượng. 
					 
					
					Trong khi thật hành 
					phương tiện Từ bi để độ sinh và sau khi công hạnh này được 
					kết quả, nhận thấy chúng sinh hết khổ, hưởng vui, tâm của Bồ 
					Tát tự nhiên cũng vui theo. Trong luận Ðại Thừa Trang nghiêm 
					Ngài Trần Na Bồ Tát dạy rằng: "Sự vui này còn nhiều gấp bội 
					sự vui của chúng sinh được hưởng". Bồ tát còn xác nhận 
					rằng:"Nếu làm chúng sinh được vui, tức làm cho tất cả chư 
					Phật được vui mừng". Ðó là lời nói của đức Phổ Hiền. 
					 
					
					Nên nhớ cái "Hỷ" của bồ 
					tát có những đặc điểm sau đây: 
					 
					
					Chẳng những không làm 
					cho chúng sinh mê lầm mà còn giác ngộ cái mê và được giải 
					thoát.   
					
					Không còn bị buộc trong 
					vòng vui tự đắc làm tăng trưởng ngã mạn, chấp trước ở thế 
					gian, mà trái lại, làm cho chúng sinh xuất thế. 
					 
					
					Thoát ra khỏi phạm vi 
					tư lợi mà phổ biến và bình đẳng đối với tất cả chúng sinh. 
					Tóm lại, sự vui ở đây bắt nguồn từ lòng Từ bi mà phát ra. 
					Lòng Từ bi rộng lớn bao nhiêu thì cái "hỷ" này cũng rộng ớn 
					như thế.   
					
					Chúng ta là Phật tử, tu 
					hạnh Bồ tát, chúng ta phải tập cho được cái vui trong sạch, 
					giải thoát của các vị bồ tát, chứ đừng quay cuồng theo cái 
					vui nhiễm ô ích kỷ, hẹp hòi của phàm phu hay hàng Nhị thừa. 
					
					4. Xả vô lượng. 
					Xả là cái gì? Xả là bỏ, không chấp không kể. 
					 
					
					Thói thường, khi chúng 
					ta làm điều gì, nhất là khi được két quả tốt, thì hay tự 
					hào, đắc chí đôi khi ngạo nghể. Sự bất bình, cãi vả xung đột 
					giữa bạn bè thân thuộc hay giữa nhóm này và nhóm khác cũng 
					do tánh chấp trước. tự cho là quan trọng ấy. Nguyên nhân của 
					tánh nầy là do sự chấp ngã, chấp pháp mà ra. 
					 
					
					Phàm phu thì vừa thấy 
					có mình làm (chấp ngã) vừa thấy có công việc kết quả mình 
					đạt được (chấp pháp) nên cứ bị trói buộc trong cái giới hạn 
					phân chia nhân ngã, bỉ thử và do đó, không bao giờ thoát 
					được cảnh giới phàm phu.  
					 
					
					Còn hàng Nhị thừa tuy 
					đã xả được chấp ngã, nhưng chưa xả được chấp pháp. Sau khi 
					nhờ tu tập, các Ngài thoát ly được tam giới chứng được quả 
					Hữu dư y Niết Bàn, các Ngài coi như đó là phần thưởng xứng 
					đáng của bao công phu tu tập và yên trí nơi cảnh giới sở đắc 
					ấy. Do đó, hàng Nhị thừa vẫn còn bị biến dịch sanh tử. 
					 
					
					Chỉ có các vị bồ tát là 
					những bậc chứng được pháp không, nên đã ly khai quan niệm 
					pháp chấp. Khi các Ngài ra công cứu khổ cho chúng sinh, thì 
					đó là một sự cảm ứng tự nhiên, giữa các Ngài với chúng sinh, 
					các Ngài dùng trí hoàn toàn vô phân biệt để được bình đẳng 
					phổ biến theo đồng thể đại bi. 
					 
					
					Chúng sinh có hưởng 
					được vui chăng, Bồ tát không thấy mình là kẻ ân nhân chủ 
					động. Trái lại, các Ngài còn thấy chúng sinh là ân nhân của 
					mình trên bước đường lợi tha tiến đến công hạnh viên mãn. 
					Bởi thê, lòng Từ, lòng Bi của Bồ Tát thoát khỏi vòng ái kiến 
					và trụ trước, tức là xả vậy. Ðến như lòng "Hỷ" cũng thế, Bồ 
					Tát vui lòng từ bi, thấy chúng sinh được vui chứ không phải 
					lối vui tự đắc, vui vì thành thật tán thán công đức chung 
					cùng chư Phật, chư Bồ tát và chúng sinh, chứ không phải vui 
					vì dắm miếng riêng tư. Cho nên tâm tùy hỷ đây cũng hoàn toàn 
					giải thoát, nghĩa là cũng thanh tịnh trên tinh thần "Xả". 
					 
					
					Như vậy, Xả là một tâm 
					lượng quảng đại cao cả. Ở đó, không kiến lập một tướng nào. 
					Kẻ gần người xa đều bình đẳng, kẻ trí người ngu vẫn như 
					nhau, mình và người không khác; làm tất cả mà thấy như không 
					làm gì cả; nói mà thấy mình không có nói gì cả, chứng mà 
					không thấy mình có chứng và quả gì được.Cho nên trong kinh 
					Tứ thập nhị chương có chép "Niệm mà không chấp nơi niệm mới 
					là niệm, hành mà không chấp nơi hành là hành, nói mà không 
					chấp nơi nói mới là nói, tu mà không chấp nơi tu mới là tu. 
					Lý hội nghĩa ấy là gần đạo, mê mờ không rõ là xa đạo". 
					 
					
					Làm như thế tức là Xả: 
					Xả hết tất cả mới thật là Bồ tát. Nếu còn chấp một tướng gì, 
					dù nhỏ nhặt bao nhiêu cũng chưa phải là Bồ tát. Hãy nghe 
					trong kinh Kim Cang Phật dạy ông Tu Bồ Ðề. "Này ông Tu Bồ 
					Ðề, nếu có vị Bồ Tát còn tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng 
					sinh, tướng thọ giả, tức chẳng phải là Bồ Tát". 
					 
					
					Ý nghĩa chữ Xả đã rõ 
					ràng. Bây giờ chúng ta chỉ còn cố gắng tu tập dần dần cho 
					được cái tâm xả ấy. Thành tựu được cái Xả một cách hoàn toàn 
					cái Xả vô lượng tức là chứng quả Bồ đề. 
					
					 
					 
					
					III. Sự đối Trị Của 
					Bốn Món Tâm Vô lượng  
					 
					
					Bốn món tâm vô lượng là 
					bốn trạng thái của Tâm Bồ Tát, nhưng đó cũng là bốn pháp tu 
					của những Phật tử tu hạnh Bồ tát. 
					 
					
					Trong mỗi con người đều 
					có hai xu hướng: xu hướng thiện và xu hướng ác. Hai xu hướng 
					này cứ xung đột nhau luôn: hễ thiện thắng thì ác lùi, hễ ác 
					thắng thì hiện lùi.   
					
					Khi lòng Giận hừng hẩy, 
					thì tâm Bi bị lấn.   
					
					Khi lòng sân bừng dậy, 
					thì tâm Từ bị che khuất.  
					 
					
					Khi Ưu não dẫy đầy, thì 
					tâm Hỷ không phát hiện.  
					 
					
					Khi lòng Ái dục còn 
					nặng nề, thì tâm xả không sanh. 
					 
					
					Trái lại, khi tâm Bi 
					lớn mạnh, thì lòng Hận phải yếu mòn. 
					 
					
					Khi tâm từ lan rộng, 
					thì lòng sân phải lùi.  
					 
					
					Khi tâm hỷ bừng lên, 
					thì lòng Ưu não phải dẹp xuống. 
					 
					
					Sự chiến đấu với phiền 
					não cũng như sự chiến đấu với giặc cướp, phải tiếp tục mãi 
					cho đến khi toàn thắng mới dừng lại. Nếu chúng ta mới chiến 
					thắng vài ba trận đã vội thỏa mãn và dừng nghỉ, thì giặp 
					cướp sẽ tái phát và hoành hành trở lại. 
					 
					
					Cũng thế, trong trận 
					chiến đấu của Từ, Bi, Hỷ, Xã, chống sân, hận, ưu, dục chúng 
					ta phải tiếp tục thi hành cho đến toàn thắng, nghĩa là Bành 
					trướng các đức từ, bi hỷ, xả cho đến vô cùng tận để sân, 
					hận, ưu, dục hoàn toàn bị tiêu diệt mới thôi. Một khi bóng 
					tối đang còn, là vì ánh sáng chưa mạnh, muốn bóng tối hoàn 
					toàn tiêu tan, thì ánh sáng phải đủ sức chiếu soi cùng khắp. 
					Khi từ bi, hỷ xả, đã trở thành vô lượng thì phiền não sẽ 
					không còn và hành giả đạt đến quả vị Bồ tát. Ðó là ý nghĩa 
					"phiến não tức là Bồ đề" mà Ngài Bồ tát Trần Na đã dạy trong 
					Luận Ðại Thừa Trang nghiêm. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận 
					 
					
					Chúng ta thường nghe 
					quen tai và nói quen miệng bốn tiếng "từ bi hỷ xả". Những 
					chính vì "quen" quá mà chúng ta không để ý phân tách ý nghĩa 
					sâu xa của nó. Bốn đức tánh ấy có một sự tương quan mật 
					thiết và bổ túc cho nhau, thiếu một không được: 
					 
					
					Vì thấy chúng sinh vô 
					cùng khổ sở, nên thương xót chúng sinh. Vì thương xót chúng 
					sinh nên ra tay cứu chúng sinh khỏi khổ (Bi). Cứu chúng sinh 
					khỏi khổ cũng chưa phải làm xong nhiệm vụ của tình thương, 
					nên cần phải tiếp tục làm cho chúng sinh được vui (Từ). Khi 
					chúng sinh hết khổ được vui, mình mới vui được (Hỷ). Nhưng 
					nếu cái vui này mà còn vướng ngã mạn, tự đắc vì tự cho mình 
					đã thành tựu những công hạnh lớn lao, thì cái vui ấy trở 
					thành ái dục, dơ bẩn nặng nề, kéo hành giả xuống hàng phàm 
					phu. Vậy cái vui ấy cần phải là một thứ vui trong sạch, hoàn 
					toàn xa lìa các thứ chấp trước như nhân, ngã, bỉ, thử, chúng 
					sinh, Bồ tát...(Xả).  
					 
					
					Ðó là về phần phẩm, còn 
					nói về phần lượng thì bốn đức tánh này cần phải rộng lớn vô 
					cùng, hay nói theo danh từ thường dùng, là phải vô lượng. Có 
					vô lượng mới đủ sức cứu độ chúng sinh cũng nhiều vô lượng. 
					Có vô lượng mới lấn át tất cả những phiền não và không cho 
					chúng có đất sống để tái phát và nhiễu loạn. 
					 
					
					Ðó là hành tướng và ý 
					nghĩa của bốn món Tâm vô lượng, hay của bốn đức: Ðại từ, Ðại 
					bi, Ðại hỷ, Ðại xả, mà chúng ta thường tán thán mỗi khi niệm 
					các danh hiệu Bồ tát hay Phật. 
					 
					
					Phải công nhận rằng có 
					được bốn món Tâm vô lượng không phải là dễ, mặc dù bốn đức 
					ấy đã nằm sẵn trong bản tánh thanh tịnh của chúng sinh. 
					Nhưng cũng đừng thấy khó mà lại chùn chân, lùi bước. Có công 
					việc gì được thành công lớn lao, rực rỡ mà dễ dàng đâu? 
					 
					
					Yếu tố quan trọng gíúp 
					cho sự thành công là sự quyết tâm và lòng kiên nhẫn. Người 
					tu hành cũng như kẻ trèo núi. Ðừng thấy núi cao mà nản chí, 
					sờn lòng. Trước tiên phải lập chí quyết trèo lên trên cho 
					đến chót núi, rồi sau đó tuần tự kiên nhãn bước từng bước 
					một, đừng hấp tấp và cũng đừng trễ nải thì một ngày kia thế 
					nào cũng đặt chân lên được chót núi cao. 
					 
					
					Người tu hành cũng vậy, 
					hãy phát bốn lời thệ nguyện lớn, rồi cứ tuận tự, kiên nhẫn, 
					mà tu tập theo những pháp môn Phật đã chế cho đến khi thành 
					tựu mới thôi.   
					
					Cầu mong quí vị Phật tử 
					đều phát tâm dõng mãnh tu bốn món Tâm vô lượng. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
				
					| 
					
					
					 
					Bài Thứ 10
					 
					Ngũ 
					Minh 
					
					  
					
					
					A. Mở Ðề 
					 
					
					Người Tây phương thường 
					chê đạo Phật là tiêu cực. Thật ra, giáo lý của đức Phật như 
					chúng ta đã học trong mấy khóa phổ thông và nhất là trong 
					khóa IV này, chứng tỏ một tinh thần vô cùng tích cực, lợi 
					tha, cứu thế. Nhưng trong thực tế, chúng ta phải công nhận 
					rằng, phần đông các nhà hành đạo trong quá khứ; vì thiếu 
					phương tiện và khả năng chuyên môn nên chỉ hoằng pháp lợi 
					sinh bằng phương tiện nội điển, mà không đi sâu vào các 
					ngành sinh hoạt khác của xã hội. Do đó, Ðạo Phật bị thu hẹp 
					phạm vi hoạt động và mất rất nhiều ảnh hưởng trong đời sống 
					đại đa số quần chúng.  
					 
					
					Nhất là trong thế giới 
					phức tạp ngaỳ nay, mà lòng người bị chi phối rất nhiều vì 
					những sinh hoạt kinh tế, chính trị văn hóa,...nếu người hành 
					đạo cứ giữ những lề lối cũ, không có những phương thức hoằng 
					pháp thich hợp với xã hội mới, không có những kiến thức và 
					khả năng thích hợp với các ngành hoạt động trong xã hội, thì 
					đạo Phật sẽ mất dần ảnh hưởng và không giữ được vai trò lãnh 
					đạo của mình nữa.   
					
					Những ý nghĩ trên đây 
					không phải là những phát minh mới mẻ gì của chúng tôi, mà 
					chính hơn 2.500 năm trước, đức Phật đã nghĩ đến trông dạy 
					các Ðệ tử của Ngài phải học Ngũ minh, nếu muốn truyền giáo 
					cho có hiệu quả.   
					
					Vậy Ngũ minh là gì và 
					có tầm quan trọng thế nào? Ðó chính là vấn đề mà chúng ta sẽ 
					đề cập dưới đây: 
					
					 
					 
					
					B. Chánh Ðề 
					 
					
					I. Ðịnh Nghĩa 
					 
					
					Ngũ minh là gì? Ngũ 
					minh là năm kiến thức người hoằng pháp cần phải có, phải 
					hiểu biết.   
					
					Những kiến thức ấy là 
					những kiến thúc nào? Ðó là những kiến thức về nôi minh, nhân 
					minh, thanh minh, công xảo minh và y phương minh. 
					
					 
					 
					
					II Giải Rõ Về Ngũ 
					Minh   
					
					1. Nội minh. 
					Trước tiên, người hoằng pháp phải cần có Nội minh, nghĩa là 
					phải có kiến thức về nội điển Phật giáo. 
					 
					
					Muốn hoằng pháp, nghĩa 
					là muốn đem giáo pháp truyền bá trong quần chúng để mọi 
					người đều hưởng sự lợi ích, thì trước tiên mình phải tự tìm 
					hiểu giáo lý của đạo Phật đã. Chúng ta đã biết rằng không 
					hiểu giáo lý, thì không ai có thể thực hành đúng theo Phật 
					pháp được. Những tình trạng lộn xộn, mê tín, lố lăng của Ðạo 
					Phật Việt Nam, sở dĩ có ra cũng vì người hành đạo thiếu sự 
					am tường giáo lý nội điển. Vì không biết rõ nội điển cho nên 
					không biết chủ trương chân chính của đạo Phật. Do đó, người 
					ta mới đi sâu vào những hành động sai lầm: vàng mã, đồng 
					bóng, cúng sao, cúng hạn, dời mả, giết hại sinh vật để tế 
					Thần tế Thánh, cúng kiến ông bà. 
					 
					
					Muốn cho tình trạng ấy 
					chấm dứt, người hoằng pháp phải tự mình thông hiểu giáo điển 
					và truyền bá giáo lý cho tất cả tín đồ. Bao giờ cúng nên nhớ 
					rằng đạo Phật chủ trương hiểu rồi mới làm, mà không hiểu tức 
					là bị lạc đường lầm nẻo. Ðứng ra hướng dẫn tín đồ mà chưa 
					hiểu được nôi giáo, là một chuyện nguy hiểm vô chừng. Không 
					ai có thể tha thứ được cái thái độ "nhứt manh dẫn 
					quần manh" ấy.   
					
					Tăng giới phải là bực 
					thông hiểu giáo lý đã dành. Các bậc cư sĩ đứng ra làm Phật 
					sự, điều khiển những tổ chức Phật học cũng không thể không 
					hiểu giáo lý. Một tệ đoan mà chúng ta thấy cần phải sửa chữa 
					gấp là phải làm thế nào cho những phần tử trong bộ máy của 
					các tổ chức Phật học phải là những người có học đạo. 
					 
					
					Chúng ta không thể nào 
					không lo sợ khi thấy những người thiếu học Phật, đứng giữ 
					địa vị tổ chức và điều khiển trong một Hội Phật học hay một 
					cơ quan giáo dục như gia đình Phật tử chẳng hạn. 
					 
					
					Cho nên người có hoằng 
					pháp có bổn phận phải am tường nội điển. Phải tìm hiểu giáo 
					lý hàm chứa trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận. Giáo lý cao 
					siêu trong ba tạng phân làm ba hệ thống rõ ràng: 
					 
					
					a) Hệ thống Bát nhã: 
					Giáo lý chân không chủ trương rằng vạn pháp là không thực, 
					để hiển lý tánh chân không. 
					 
					
					b) Hệ thống Pháp 
					tướng: Giáo lý Duy thức chủ trương vạn pháp không thực 
					tánh và có là do thức biến hiện ra ngàn sai muôn khác.  
					 
					
					c) Hệ thống Pháp 
					tánh: Giáo lý pháp tánh là dẫn tướng qui tánh, chủ 
					trương đạt đến chơn như, các pháp đều do chơn như duyên khởi 
					mà có.   
					
					Về mỗi hệ thống giáo 
					lý, có vô số pháp môn để chúng sinh thực hành và đạt đến quả 
					vị giác ngộ. Người hoằng pháp cần thông hiểu các hệ thống 
					giáo lý và các pháp môn phương tiện để có thể đem ra ứng 
					tiếp với xã hội cho hợp thời và hợp cơ. Tóm lại, sự hiểu 
					biết về nội điển là điều quan hệ vào bậc nhất. 
					 
					
					2. Nhân minh. 
					Am tường giáo lý chưa đủ. Muốn trình bày giáo lý ấy một cách 
					rõ ràng, khúc chiết, muốn lập thuyết vững vàng, người hoằng 
					pháp cần phải dựa trên một phương pháp luận lý; phương pháp 
					luận lý ấy gọi là nhân minh. 
					 
					
					Nhân minh là gì? Là một 
					môn luận lý học của Phật Giáo, chủ trương chứng minh lập 
					thuyết bằng "Nhân", nghĩa là bằng cách suy cứu đến lý do. 
					 
					
					Bộ sách vĩ đại làm căn 
					bản cho Nhân minh học là Nhân minh đai sớ. Ở đây, chúng ta 
					tìm hiểu qua đại cương để hiểu thế nào là Nhân minh mà 
					thôi.   
					
					Một lập luân đầy đủ 
					theo Nhân minh phải có ba phần: Tôn, Nhân, Dụ, gọi là tam 
					chi tác pháp. Tôn là chủ trương của mình. Nhân là lý do 
					thành lập chủ trương ấy. Dụ là những sự kiện đem ra để chứng 
					minh (có thuận và nghịch). Ví dụ: 
					 
					
					Tôn: Ông Nguyễn Văn A 
					phải chết.   
					
					Nhân: Vì ông Nguyễn Văn 
					A đã có lúc bị sanh ra.  
					 
					
					Dụ: Phàm cái gì đó sinh 
					tất phải có chết, như Không Tử, Trần Trọng Kim v.v...(đông 
					dụ). Trái lại, phàm cái gì không có sanh tất không có chết, 
					như hư không (dị dụ) v.v.. 
					 
					
					Ðồng dụ là những thí dụ 
					đồng loại (có sinh có diệt). Dị dụ là những thí dụ khác loại 
					(không sinh thì không chết). 
					 
					
					Ta thêm một ví dụ 
					khác:   
					
					Tôn: Trò B sẽ bị phạt 
					 
					
					Nhân: Vì trò B học bài 
					không thuộc.   
					
					Dụ: Phàm, ai không 
					thuộc bài thì đều bị phạt cả, như trò C, trò Ð,C (đồng dụ). 
					Phàm, ai thuộc bài thì đều không bị phạt như trò Mít, trò 
					Ổi.   
					
					Ta nhận thấy môn luận 
					lý nhân minh có hơi giống với luận lý học hình thức 
					(syllogisme) của phương tây, và lại đầy đủ tinh vi hơn luận 
					lý học này, vì nó có đủ tính cách diễn dịch và qui nạp. 
					 
					
					Ba phần chính của môn 
					luận thức nhân minh, phải có liên lạc mật thiết với nhau. 
					Nhân bao giờ cũng quan hệ đến Tôn, phải triệt để có tính 
					cách của đồng dụ và tuyệt đối không có tính cách của dị dụ. 
					Còn dụ bao giờ cũng phải dính líu đến Tôn và Nhân. Mỗi phần 
					Tôn, Nhân, Dụ muốn đứng vững được, cần phải tránh nhiều lỗi. 
					(Xem quyển PHPT khóa IX). 
					 
					
					Học nhân minh có mục 
					đích là biết phán đoán chân ngụy, thuyết phục ngoại đạo và 
					đọc được các bộ luận về pháp tướng học, bởi vì các Tổ ngày 
					xưa theo lối lập luận này trong khi viết các bộ luận kia. 
					 
					
					3. Thanh minh. 
					Ðây là môn học về ngữ môn văn tự, về âm thanh và về văn học. 
					Sự truyền giáo cũng đã rất cần đến môn học này. Xưa các vị 
					Tổ sư muốn đem giáo pháp truyền bá ở các nước, đã phải thông 
					hiểu về các thứ sinh ngữ, đã phải có tài phiên dịch và trước 
					tác. Nhiều bộ sách đạo lý lưu truyền đến tận nay mà cũng 
					phải nhận là có những giọng văn sáng sủa lưu loát, chính là 
					nhờ ở căn bản về thanh minh rất rộng rãi vậy. 
					 
					
					Trong Phật giáo, chỉ có 
					Thiền tông chủ trương không chú trọng mấy về văn tự. Các tôn 
					phái khác đều cần đến thanh minh. Người tu học cần phải có 
					kiến thức về văn học mới có thể học hiểu giáo lý tu tập; môn 
					học này. Người truyền giáo phải có kiến thức về văn học để 
					phiên dịch, trước tác với các nước Phật Giáo trên hoàn cầu. 
					 
					
					Hiện nay, người Phật tử 
					Việt Nam rất cần đến thanh minh: Phật Giáo Việt Nam đang đòi 
					hỏi một kho kinh điển bằng tiếng Việt làm tài liệu học tập 
					và truyền bá. Như thế các nhà hữu tâm của Phật Giáo phải lưu 
					ý đến việc học tập văn chương và ngoại ngữ để có thể kiến 
					thiết một nền Phật học bằng quốc văn. 
					 
					
					4. Công xảo minh. 
					Ðây là môn học về công nghệ và kỹ thuật: 
					 
					
					Trong công cuộc hành 
					đạo, người tín đồ của Phật Giáo nhận thấy cần có đủ điều 
					kiện kinh tế, mới có thể lập ra những cơ quan tu học cho 
					Tăng giới, cho cư sĩ, mới có thể thành được những tổ chức 
					cứu tế, giúp đỡ cho người nghèo đói tật nguyền, thể hiện 
					lòng từ bi bác ái. Công nghệ và kỹ thuật mỗi ngày mỗi thêm 
					tiến bộ, người Phật tử cần phải học tập để có những phương 
					tiện hành đạo rộng rãi trong phạm vi xã hôi nhân sinh. 
					 
					
					Công nghệ và kỹ thuật, 
					nếu chỉ là lợi khí cho sự kinh doanh vụ lợi ích kỷ, thì 
					không đáng cho ta phải bận tâm. Công nghệ và kỹ thuật ấy 
					tiến bộ chừng nào, thì gây đau khổ cho loài người chừng ấy, 
					bởi vì chúng sẽ biến ra lợi khí tranh giành, cướp đoạt và 
					bóc lột. Kỹ thuật tiến bộ của máy móc, của bom đạn đã là một 
					sự đe dọa ghê ghớm.   
					
					Người Phật tử học lấy 
					công nghệ và kỹ thuật rồi đem công nghệ và kỹ thuật phụng sự 
					nhân loại, thể theo lòng vị tha và bác ái muốn cho muốn loài 
					có hạnh phúc chân thực, tránh những tai hại do dục vọng gây 
					nên.   
					
					5. Y phương minh. 
					Ðây là môn học về các phương pháp chữa bệnh. Các đức Phật là 
					những nhà lương y, trị cả tâm bệnh và cả thân bệnh cho chúng 
					sinh, đức Dược Sư Lưu Ly là một gương sáng. Thế gian này đầy 
					dẫy những bệnh nhân đau khổ về vật chất lẫn tinh thần. Những 
					phương thuốc chữa bệnh tinh thần đã đành rằng rất cần thiết, 
					nhưng những phương thuốc chữa bệnh về vật chất cũng không 
					phải là không quan trọng. Người Phật tử nếu có được những 
					thời giờ rảnh rang nên học chuyên môn về thuốc, để có thể 
					thực hành một công tác xã hội rất thích hợp với lòng từ bi: 
					đó là sự chữa bệnh. Các bác sĩ, các lương y, nếu là Phật tử 
					thì đã có trong tay một phương tiện hành đạo rất quan trọng. 
					Ðem sự an ủi đến cho người bệnh, nâng đỡ họ trong cơn ốm 
					đau, cử chỉ đó thực có thể tiêu biểu được một phần nào tinh 
					thần cứu thế tích cực của đạo Phật. 
					 
					
					Chúng ta hy vọng rằng 
					sau này Phật Giáo sẽ có được những bệnh viện do Phật tử chăm 
					sóc ngày đên, và mỗi một ngôi chùa địa phương, có thể có một 
					cơ quan cấp cứu tương trợ cho đồng bào trong những lúc nguy 
					biến ngặt nghèo. 
					
					 
					 
					
					C. Kết Luận: 
					 
					
					Trong thời đại hiện 
					tại, xã hội đòi hỏi một phương thức hoằng pháp rộng rãi hơn. 
					Chúng ta không có thể áp dụng những phương tiện nhỏ hẹp, mà 
					cần phải mở rộng phạm vi của hoằng pháp theo Ðại Thừa Phật 
					Giáo; người Phật tử cần phải y lời Phật dạy học Ngũ minh và 
					mỗi người sẽ là một chiến sĩ từ thiện xã hội, lo xây đắp cho 
					nền Phật giáo tương lai hưng thịnh và thực hiện được hoài 
					bảo cứu tế to rộng của đức Bổn sư. 
					
					
					▲ Trở Lên 
					 | 
				 
			 
			 | 
			 
			 |