III.- Phật chỉ cái
nguyên nhơn chung: sanh ra hư không thế giới và chúng sanh
IV.- Phật chỉ cái
nguyên nhơn riêng và tuần tự sanh ra vũ trụ
V.- Phật chỉ nguyên
nhơn có chúng sanh (nhơn sanh)
VI.- Phật chỉ nguyên
nhơn chúng sanh tiếp tục sanh
VII.- Phú Lâu Na hỏi
tiếp: Chư Phật đã chứng được chơn tâm thanh tịnh rồi, vậy
chừng nào nổi vọng trở lại
VIII.- Phật dùng ba
thí dụ để trả lời
IX.- Phật trả lời
câu hỏi thứ hai của ông Phú Lâu Na
X.- Phật chỉ chơn
tâm tùy duyên biến hiện
XI.- Chúng sanh đi
ngược với chơn tâm sáng suốt và hiệp theo vọng trần
XII.- Chư Phật
hiệp theo chơn tâm sáng suốt.
I. ÔNG PHÚ LÂU NA
HỎI PHẬT HAI CÂU QUAN TRỌNG
Lúc bấy giờ ông Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử đứng dậy lạy Phật,
chắp tay cung kính và thưa rằng: Bạch Thế Tôn, trong hàng tứ
chúng, Phật thường khen con thuyết pháp hơn hết; ở trong hội
này con lại chứng được quả Vô lậu. Thế mà hôm nay con nghe
Phật nói pháp nhiệm mầu cao thượng, hãy còn chưa hiểu. Cũng
như người điếc đứng xa một trăm bước nghe tiếng muỗi kêu;
thấy còn không được, huống chi lại nghe.
Bạch
Thế Tôn:
1. Chơn tâm này đã vốn thanh tịnh, tại sao lại thoạt sanh ra
sơn hà đại địa và các chúng sanh?
2. Lại nữa, Phật nói “đất, nước, gió, lửa, tánh nó vắng lặng
thường còn, viên dung khắp giáp pháp giới”. Bạch Thế Tôn,
nếu nước khắp tất cả, thì lửa phải tắt; còn lửa biến khắp
thời nước phải khô; tánh lửa thì nóng, tánh nước lại lạnh,
hai thứ trái nhau, tại sao đồng cùng khắp cả hư không, mà nó
không diệt nhau? Lại nữa, đất thì có hình chất, còn hư không
lại trống, tại sao hai thức đều khắp giáp cả pháp giới, mà
không có chướng ngại nhau? Cúi xin đức Như Lai vén mở ngút
mây mờ cho chúng con.
Thưa
hỏi xong, ông Phú Lâu Na kính cẩn trở lui, để chờ nghe lời
Phật chỉ dạy.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn
này ông Phú Lâu Na hỏi Phật hai điều:
1. Chơn tâm đã thanh tịnh tại sao thoạt sanh ra có thế giới
và chúng sanh?
2. Ðất, nước, gió, lửa, tánh nó chống trái nhau, tại sao lại
dung hòa được và biến khắp cả pháp giới?
Về câu
hỏi trước thì trong kinh này Phật đã trả lời rõ rồi. Còn về
câu hỏi sau chúng ta cũng nên phân biệt cho rõ: Phật nói
nước, lửa v.v... biến khắp cả pháp giới, đó là Phật chỉ về
phần “bản thể” mà nói. Ông Phú Lâu Na nghi nước, lửa v.v...
trái nhau, làm sao đều biến khắp được. Thế là ông Phú Lâu Na
đứng về phần “hiện tượng” mà hỏi.
Về phần
hiện tượng thì có chướng ngại, còn bản thể thời không bao
giờ chướng ngại.
***
II. PHẬT TRẢ LỜI
CÂU HỎI THỨ NHẤT
Phật day: Này Phú Lâu Na, như lời ông hỏi: “Chơn tâm đã vốn
thanh tịnh, tại sao lại sanh ra sơn hà đại địa, thế giới và
chúng sanh”.
Vậy ông có thường nghe ta nói: “Chơn tâm nhiệm mầu vắng lặng
mà thường sáng suốt chiếu soi” không? (Tánh giác diệu minh,
bản giác minh diệu)
Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn, con có thường nghe Phật dạy
như thế.
Phật hỏi: Vậy chơn tâm này, ông cho nó tự có tánh sáng suốt
chiếu soi (phân biệt) hay là không có sáng suốt chiếu soi?
Phú Lâu Na thưa: Vì nó sẵn có tánh sáng suốt chiếu soi (phân
biệt) nên mới gọi là tâm. Nếu nó không có tánh sáng suốt
chiếu soi (phân biệt) thì không gọi là tâm, vì nó không phân
biệt được cái gì cả.
Phật dạy: Như
lời ông nói: “Nếu nó không sáng suốt chiếu soi (phân biệt)
thì không phải là tâm, vì nó không phân biệt được cái gì
cả”. Vậy ông có hiểu chăng: nếu có chiếu soi phân biệt, thì
không phải là chơn (vì có năng phân biệt thì phải có bị phân
biệt), còn không có chiếu soi phân biệt, thì chắng phải là
tâm. Nếu tâm mà không sáng suốt thì không phải là chơn tâm
thanh tịnh rồi.
Ông nên hiểu: Chơn tâm vẫn sáng suốt, vì ông vọng chấp cái
“sáng suốt phân biệt" làm tâm, nên thành ra có năng phân
biệt (tâm) và bị phân biệt (cảnh).
Chơn tâm của ông
không phải cái “bị phân biệt”, nhưng vì ông khởi ra cái
“năng phân biệt”, nên nó (chơn tâm) trở lại thành cái “bị
phân biệt” (cảnh). Ðã vọng thành cái “bị phân biệt”, cố
nhiên ở nơi ông phải vọng sanh ra cái “năng phân biệt”.
Thế là ở nơi chơn tâm của ông vẫn thanh tịnh không có năng
và sở, mà thoạt nhiên thành ra có năng và sở (vô đồng dị
trung, xí nhiên thành dị)
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này Phật chỉ cái nguyên nhân từ chơn tâm thanh
tịnh, vì vọng động nổi lên nên sanh ra có thế giới và chúng
sanh.
Chơn tâm thanh tịnh mỗi người đều sẵn đủ. Nếu chấp nó “không
có phân biệt” thì chẳng phải là tâm; còn chấp nó “có phân
biệt” thì chẳng phải là chơn.
Bởi ông Phú Lâu Na chấp cái “phân biệt chiếu soi” làm tâm,
nên đã có cái phân biệt, cố nhiên phải có cái bị phân
biệt. Thế là năng, sở vừa hiện, thì bỉ và thử rõ ràng.
Ðây là Phật chỉ cái hành tướng của vọng, từ nơi tâm của mọi
người khởi lên một cách rõ ràng.
Một vọng niệm vừa nổi lên, thì có trăm ngàn vọng niệm khác
tiếp tục theo sanh ra, cho đến vô cùng tận. Nhơn đó mà có hư
không, thế giới và chúng sanh đồng thời hiện ra. Cũng như
người đương thức (dụ chơn tâm) bỗng chốc buồn ngủ nổi lên,
(dụ vô minh vọng động) chiêm bao thấy có núi sông, nhà cửa
các cảnh vật hiện ra (dụ hư không, thế giới và chúng sanh).
***
III.
PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CHUNG: SANH RA
HƯ KHÔNG, THẾ GIỚI VÀ CHÚNG SANH
Từ một thể chơn tâm không khác, vì vọng niệm phân biệt, có
năng sở, bỉ thử sai khác, nên hiện ra có hư không và thế
giới. Nhơn có hư không thế giới nên mới có chúng sanh. Ðã có
thế giới nên mới có chúng sanh. Ðã có thế giới và chúng sanh
lăng xăng đối đãi nhau, nên khởi lên vô số vọng tưởng phân
biệt: tốt, xấu, phải, chẳng v.v... Vì thế mà sanh ra đủ các
phiền não trần lao nhiễm ô. Cái có hình tướng và sanh diệt
là thế giới, cái không hình tướng và yên tịnh là hư không;
khác với hư không, thế giới là chúng sanh vậy.
IV. PHẬT CHỈ CHỈ
NGUYÊN NHÂN RIÊNG VÀ TUẦN TỰ SANH RA VŨ TRỤ
1. NGUYÊN NHÂN
SANH GIÓ
Từ nơi chơn tâm, do vô minh vọng động mà có hư không. Hư
không mờ mịt vì vô minh sanh. Trong “hư không” có chất động,
vì là vọng. Bởi thế nên trong hư không có gió (phong luân)
để duy trì thế giới.
2. NGUYÊN NHÂN
SANH RA VÀNG NGỌC
Nhơn hư không sanh ra gió, và vì nơi tâm chúng sanh có tánh
cố chấp phân biệt, cho nên ứng hiện ra ngoài thế giới có
những chất cứng chắc là vàng ngọc (vàng ngọc cứng chắc là vì
tâm cố chấp sanh. Nó sáng ngời là do tâm phân biệt
sanh). Ðây là nguyên nhân có chất kim khí để bảo trì thế
giới.
3. NGUYÊN NHÂN
SANH RA LỬA
Trong tâm chúng sanh vì có tánh cố chấp phân biệt nên sanh
ra chất cứng chắc là kim khí, và vì có vọng động mà thành ra
gió. Rồi gió thổi kim khí, nó cọ xát mãi, nóng lên, nên
nháng sanh ra ánh sáng là lửa. Ðây là cái nguyên nhân có lửa
để nấu đốt các vật.
4. NGUYÊN NHÂN
SANH RA NƯỚC
Chất vàng ngọc vừa sáng ngời và đượm mát. Nhơn lửa xông lên,
nên có hơi nước rịn ra. Ðây là cái nguyên nhân có nước để
bao bọc cả mười phương thế giới.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm vọng đọng
nên biến hiện ra ngoài thế giới có gió. Vì tâm cố chấp, cho
nên biến hiện ra ngoài thế giới có vàng ngọc. Vì tâm nóng
nảy, nên biến hiện ra ngoài thế giới có lửa. Vì tâm tham ái,
cho nên biến hiện ra ngoài thế giới có nước.
5. NGUYÊN NHÂN
SANH RA CỒN ÐẢO VÀ BIỂN
Vì tánh lửa bốc lên, còn nước thì lại chảy xuống, nên có chỗ
thấp ướt là sông biển, chỗ nổi lên cao là cồn đảo. Bởi lửa
và nước dung hòa nhau, cho nên trong biển thỉnh thoảng bốc
lên ánh sáng của lửa, trong cồn đảo lại có sông rạch thường
chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Trong bộ Tông cảnh nói: “Vì tâm luyến ái nên ứng hiện ra
ngoài thành sông biển. Vì tâm cố chấp nên ứng hiện ra ngoài
thành cồn đảo, tâm khinh mạn thành ra gió, tâm nóng nảy, sân
hận thành ra lửa. Bởi thấy sắc dục sanh tâm luyến ái, nên
hiện ra ngoài thế giới: Trong cồn đảo có nước thường
chảy. Ví trái với sự thương yêu thì nổi sân, nên hiện ra
ngoài thế giới: trong biển có lửa phát lên. Tóm lại, bốn đại
đều duy tâm biến hiện (dụ như chiêm bao, nếu ban ngày nghĩ
tưởng cái gì, thì ban đêm hiện ra cảnh ấy).
6. NGUYÊN NHÂN
SANH RA NÚI
Vì thế lực của nước yếu hơn lửa, nên bị lửa bốc lên kết hành
núi cao. Bởi thế nên đập đá thì có lửa, còn đốt quá nóng,
thì nó chảy ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm giận nhiều thương ít, nên ứng hiện ra ngoài thế giới
có núi cao.
7. NGUYÊN NHÂN
SANH RA CỎ CÂY
Vì thế lực của đất yếu hơn nước, cho nên bị nước rút lên làm
cỏ cây. Bởi thế nên cỏ cây, nếu bị đốt thì thành tro (đất)
còn ép thì nó lại ra nước.
LƯỢC GIẢI
Vì tâm thương yêu nặng nề, tánh cố chấp ít, nên ứng hiện ra
ngoài thế giới thành cỏ cây.
***
Tóm lại, vì ở trong tâm chúng sanh, các vọng tưởng xen nhau
phát sanh, nên ứng hiện ra ngoài thế giới có các cảnh
vật. Bởi nhân duyên này mà thế giới nối nhau sanh mãi không
dứt.
V. PHẬT CHỈ NGUYÊN NHÂN CÓ CHÚNG
SANH (NHƠN SANH)
Ông Phú Lâu Na, cái “hư vọng phân biệt” đó không có gì lạ,
chỉ vì ông chấp cái “phân biệt chiếu soi” làm tâm. Ðã
có phân biệt, tất nhiên phải có cái “bị phân biệt” đối đãi
nhau. Vì thế nên cái “năng phân biệt” không vượt ngoài cảnh
“bị phân biệt” được. Do nhân duyên này, nên nghe không ngoài
tiếng, thấy không ngoài sắc, ngửi không ngoài mùi, nếm không
ngoài vị v.v... vọng thành 6 căn và 6 trần đối nhau,
nên phân ra có: thấy, nghe, hay, biết.
Rồi theo nghiệp lực kéo dẫn, cho nên có những loài sanh con
(như người và thú) loài sanh trứng (như chim và cá) loài
sanh chỗ ẩm ướt (như vi trùng v.v...) loài hóa sanh (như
trời và địa ngục)
Thần thức khi đầu thai, nhơn thấy ánh sáng (lửa dục) của cha
mẹ phát ra, rồi nó khởi ra cái “tưởng” chung chạ làm việc
dục ấy. Nếu nó sẽ là trai thì ưa mẹ mà ghét cha, còn nó sẽ
là gái thì thương cha mà ghét mẹ. Vì tình lưu luyến nơi ái
dục không rời được, nên nó tự kết nạp tư tưởng của nó với
tinh huyết của cha mẹ khi giao cấu đó, kết thành ra thai. Vì
có nhân duyên với nhau và đồng nghiệp kéo dẫn, nên kết thành
thai nghén. Loài sanh thai, sanh trứng, sanh nơi ẩm thấp,
hoặc hóa sanh đều tùy theo nghiệp của mỗi loài mà cảm ứng.
Loài sanh trứng là do nơi tưởng nhiều, loài sanh thai là do
nơi tình nặng, loài thấp sanh là do hiệp với chỗ ẩm thấp,
loài hóa sanh thì rời cảnh vật tự nó hóa hiện. Bốn loài biến
đổi, tùy theo nghiệp lành hay dữ mà cảm thọ quả báo có thăng
và trầm. Do nhân duyên ấy mà chúng sanh bỏ thân này thọ thân
kia, nối nhau không dứt.
VI. PHẬT CHỈ
NGUYÊN NHÂN CHÚNG SANH TIẾP TỤC SANH
1. Tham dục: Này Phú Lâu Na, chúng sanh vì tình ân ái kết
chặt, thương tưởng quyến luyến nhau không rời, cho nên trong
thế gian, cha mẹ, con cháu tiếp tục sanh ra không cùng tột,
gốc tại lòng tham dục vậy.
2. Tham sát: Loài nào cũng thương yêu thân mạng, muốn cho
mình được sống nên tham ăn những vật bổ dưỡng. Vì thế mà
trong thế gian này, loài mạnh ăn thịt loài yếu, loài khôn
giết loài dại. Bốn loài (noãn, thai, thấp, hóa) ăn nuốt lẫn
nhau, gốc tại lòng tham sát hại.
3. Tham trộm cướp: Bởi loài người ăn thịt loài vật, loại vật
trở lại ăn thịt người. Người chết làm vật, vật chết làm
người, các loài chúng sanh, sanh sanh tử tử, nối tiếp
nhau. Các ác nghiệp đã tạo ra rồi, thì cùng nhau vay trả,
cho đến nghìn đời không tột, gốc tại lòng tham lam trộm
cướp.
LƯỢC GIẢI
Loài vật, chúng nó không muốn cho người giết thân mạng nó,
mà người lại ỷ sức mạnh giết hại để ăn, thế nên phạm tội
cướp giựt. Có vay cố nhiên phải có trả; nên giết hại không
những phạm tội sát sanh, mà còn phạm cả tội cướp giựt.
Loài này cướp giựt thân mạng loài kia, loài kia giết hại
loài này; trả vay, vay trả lẫn nhau, đến trăm ngàn kiếp
không ra khỏi sanh tử.
Trai mê sắc gái, gái thương tình trai, vì tình ân ái thương
yêu lẫn nhau, nên trăm ngàn kiếp bị phiền trược trong vòng
luân hồi.
Tóm lại, vì ba nghiệp sát, đạo, dâm làm gốc, nên nghiệp
(nhơn) và quả nối nhau, không bao giờ cùng tận.
Này ông Phú Lâu Na, thế giới, chúng sanh và nghiệp quả ba
món điên đảo tương tục này đều ở trong chơn tâm, vì vô minh
vọng động sanh ra “năng phân biệt” và “sở phân biệt” tương
đối, nên vọng thấy có sơn hà đại địa, thế giới và chúng
sanh, rồi tiếp tục sanh hóa, vô cùng hư vọng.
VII. PHÚ LÂU NA
HỎI TIẾP: CHƯ PHẬT ÐÃ CHỨNG ÐƯỢC CHƠN TÂM THANH TỊNH
RỒI, VẬY CHỪNG NÀO NỔI VỌNG TRỞ LẠI
Ông Phú
Lâu Na hỏi Phật: Bạch Thế Tôn, cái chơn tâm của con đã cùng
với Phật không khác, vốn thanh tịnh không tăng không giảm;
bỗng nhiên vọng động nổi lên, sanh ra thế giới và chúng
sanh. Vậy các đức Như Lai đã chứng được chơn tâm ấy rồi,
chừng nào vô minh vọng động nổi lên, sanh trở lại thế giới
và chúng sanh nữa?
VIII. PHẬT DÙNG
BA THÍ DỤ ÐỂ GIẢI THÍCH
1. DỤ NHƯ NGƯỜI
LẦM PHƯƠNG HƯỚNG ÐỂ CHỈ RÕ NGỘ RỒI KHÔNG MÊ TRỞ LẠI
Phật dạy rằng: Này Phú Lâu Na, như người lầm phương hướng,
tưởng phía Nam là phía Bắc. Ông nghĩ sao, cái “mê lầm” ấy
nhơn mê mà có, hay nhơn ngộ mà sanh? Này Phú Lâu Na, không
phải nhơn ngộ, mà cũng không phải nhơn mê. Vì sao? Cái mê
không có căn nguyên, thì làm sao nói nhơn mê mà có. Còn ngộ
không thể sanh ra mê được thì sao lại nói nhơn cái ngộ mà
sanh.
Phú Lâu Na, người kia đương lúc đi lầm đường, nếu có người
biết đường chỉ lại cho họ: đây là phía Nam, kia là phía Bắc
v.v... Vậy từ đó về sau họ còn lầm lộn nữa không?
Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế Tôn, người kia không còn lầm lộn
nữa.
Phật dạy: Này Phú Lâu Na, mười phương các đức Như Lai cũng
vậy, khi ngộ được chơn tâm thành Phật rồi, thì không bao giờ
mê trở lại làm chúng sanh nữa. Vì cái mê lầm không thật, rốt
ráo chẳng có gốc rễ. Trước kia vốn không mê, nhưng in tuồng
có cái mê trong cái ngộ (như đám mây che mặt nhựt). Ðến khi
giác ngộ được cái mê, thì cái mê kia tự diệt; cái “giác ngộ”
ấy không sanh trở lại cái mê nữa.
2. DỤ NHƯ HOA ÐỐM
GIỮA HƯ KHÔNG KHI DIỆT RỒI KHÔNG CÒN SANH TRỞ LẠI
Lại nữa, cũng như người bị nhặm con mắt, thấy có đốm hoa
lăng xăng giữa hư không. Ðến khi hết nhặm rồi thì hoa kia tự
hết. Nếu người ấy còn nhìn lại chỗ các hoa đốm diệt ở nơi hư
không kia để trông mong cho hoa sanh trở lại, nếu như thế
ông thử nghĩ, người đó khôn hay dại?
Phú Lâu Na thưa: Hư không không có hoa đốm, mà vọng thấy có
hoa đốm sanh diệt, thế đã là điên đảo rồi, huống nữa, trông
mong nó sanh trở lại, thật người ấy điên đảo lắm, không còn
nói dại hay khôn nữa được.
Phật nói: Ông đã hiểu như vậy, tại sao còn hỏi: “Như Lai đã
ngộ được chơn tâm thanh tịnh rồi, vậy chừng nào nổi vọng trở
lại, sanh ra sơn hà đại địa nữa?”
3. DỤ NHƯ VÀNG VÀ
CỦI
Cũng như vàng trong mỏ, khi đào lên đã lọc hết khoáng thành
vàng ròng rồi, lúc bấy giờ không còn trở lại làm khoáng
nữa. Và cũng như cây đốt thành tro, không thể trở lại thành
cây nữa được.
Chư Phật cũng thế, khi chứng được Bồ đề Niết Bàn rồi, không
còn vọng động trở lại làm chúng sanh nữa.
IX. PHẬT TRẢ LỜI
CÂU HỎI THỨ HAI
Phật nói: Phú Lâu Na, như lời ông hỏi: “Nước và lửa tại sao
chẳng diệt nhau, trái lại được dung hòa cùng nhau và đều
biến khắp cả vũ trụ? Hư không với đất tánh chất không đồng,
tại sao dung biến được?”
Này Phú Lâu Na! Tất cả các pháp xem về tướng (hiện tượng)
của nó, nguyên là hư vọng, không thể chỉ bày cái gì thật là
cái gì được. Nó đã hư vọng không thật mà ông lại còn hỏi
“tại sao nó chẳng diệt nhau”. Như thế chẳng khác nào người
ngồi trông đợi cho cái hoa đốm giữa hư không kia kết đậu
thành ra trái, thì làm sao mà kết đậu cho được!
LƯỢC GIẢI
Như cái hình chớp bóng chiếu trên miếng vải trắng, bởi nó
không thật, nên không cái nào ngại cái nào cả.
***
Còn xem về tánh (bản thể) của các pháp, thì nguyên nó là
chơn. Duy có một thể chơn tâm, nguyên không phải đất, nước,
gió, lửa, thì sao lại chẳng dung hòa nhau được.
X. PHẬT CHỈ CHƠN
TÂM TÙY DUYÊN BIẾN HIỆN
Phú Lâu Na! Chơn tâm của ông như thế, nếu ông phân biệt hư
không thì có hư không hiện ra, phân biệt đất, nước, gió,
lửa, thì đều có đất, nước, gió, lửa hiện ra.
Cũng như hai người đồng xem một mặt trăng dưới nước. Rồi một
người đi qua phía đông và một người đi qua phía tây, thì hai
người đều thấy có mặt trăng đi theo mình cả, không có chuẩn
định.
Ông không thể hỏi: “Mặt trăng chỉ một, tại sao đi theo cả
hai người”; hay là nói “hai người đi riêng đều thấy có hai
mặt trăng, tại sao hiện nay chỉ thấy có một” (Khi hai người
đứng chung một chỗ).
Phú Lâu Na! Ông nên biết: Vì các pháp hư huyễn, không thể
lấy đâu làm bằng cứ được.
XI. CHÚNG SANH
TRÁI VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT VÀ HIỆP THEO VỌNG TRẦN
Phú Lâu Na! Các ông vì trái với chơn tâm sáng suốt, mê muội
hiệp theo vọng trần, nên chơn tâm tùy duyên biến hiện ra có
hư không thế giới, các thứ trần lao trong thế gian, cùng
khắp cả pháp giới. Vì thế nên ông thấy có gió động, hư không
lặng, mặt nhựt sáng, mây mờ, sắc tướng và hư không lấn nhau,
nước và lửa diệt nhau v.v...
XII. CHƯ PHẬT
HIỆP VỚI CHƠN TÂM SÁNG SUỐT
Còn ta (Phật) thì trái với vọng trần, hiệp với chơn tâm
thường trụ bất sanh bất diệt, biến khắp cả pháp giới. Cho
nên ta mới được tự tại vô ngại: Ở trong một hiện ra vô
lượng, vô lượng hiệp làm một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn
hiện nhỏ; không rời nơi đạo tràng mà hiện khắp cả mười
phương thế giới. Thân ta bao trùm mười phương hư không vô
tận. Trên đầu một mảy lông hiện ra các cõi nước; ngồi trong
hạt bụi, mà chuyển đại pháp luân. Vì ta diệt hết vọng trần,
trở lại với bản tâm thanh tịnh sáng suốt, nên mới được như
vậy.
LƯỢC GIẢI
Vì Phật đã ngộ chơn tâm thanh tịnh, nên mới được tự tại vô
ngại, không còn bị các vật lớn, nhỏ, nhiều, ít v.v... làm
chướng ngại.
Trái lại, chúng sanh vì mê chơn tâm, hiệp theo vọng trần nên
thấy có các vật lớn, nhỏ, rộng, hẹp chướng ngại.
Bởi tâm có chướng ngại (vọng phân biệt) nên thấy ngoài trần
cảnh có chướng ngại. Nếu trong tâm hết chướng ngại (không
vọng) thì không còn thấy có một vật gì làm chướng ngại cả.
I. Phật
dạy: Chơn tâm phi tất cả tướng
II. Phật dạy: Chơn tâm tức là tất cả Pháp
III. Ðến một từng nữa là chơn tâm không thể nói “phi” và
“tức”
IV. Phật lấy cây đờn để tỷ dụ
V. Ông Phú Lâu Na hỏi Phật: Chơn tâm nhơn đâu có vọng
VI. Phật dạy: Đã là vọng thì không có sở nhơn, như ông
Diễn Nhã Ðạt Ða
VII. Nếu các “vọng duyên” dứt, tâm “cuồng vọng” tiêu
thì chơn tâm hiện bày
VIII. A Nan nghi “tâm bồ đề” do nhơn duyên sanh
IX. Phật định nghĩa chữ nhân duyên tự nhiên và bác
X. Phật phá chấp nhân duyên để dẫn vào “vô công dụng”
XI. Phật phá chấp tự nhiên để thành vô hí luận
XII. Phật quở ông A Nan học nhiều không tu, thì chẳng
có lợi ích gì
XIII. So sánh để khuyến khích tu hành
I. Phật dạy: chơn tâm phi
tất cả tướng
Phật dạy: Chơn tâm này phi tâm (thức) phi đất, nước, gió,
lửa và phi hư không.
(Ðoạn
này nói: Chơn tâm phi ngũ uẩn.
Thọ,
tưởng, hành, thức thuộc về tâm;
còn
đất, nước, gió, lửa thuộc về sắc.)
Nó phi nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý; phi sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp; phi nhãn giới cho đến phi thức giới.
(Ðoạn
này nói: Chơn tâm phi lục nhập, thập nhị xứ và thập bát
giới. Nó phi ấm, giới, nhập tức là nói phi cảnh giới lục
phàm)
Chơn tâm phi minh vô minh và minh vô minh tận, cho đến phi
lão tử và phi lão tử tận.
(Ðoạn
này nói: Phi 12 nhơn duyên, cả lưu chuyển và hoàn diệt là
cảnh giới của Duyên giác)
Phi
khổ, tập, diệt, đạo; phi trí và phi đắc.
(Ðoạn
này nói: phi tứ đế là cảnh giới của Thinh văn)
Phi bố thí, trì giới, tinh tấn, nhẫn nhục, thiền định và trí
huệ.
(Ðoạn
này nói: Phi lục độ là cảnh giới của Bồ tát).
Cho đến phi Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri... (mười hiệu)
phi Ðại Niết Bàn và phi bốn đức của Niết Bàn: thường, lạc,
ngã, tịnh.
(Ðoạn
này nói: phi cảnh giới Phật. Từ Thinh văn, Duyên giác, Bồ
tát và Phật gọi là tứ thánh)
Tóm
lại, chơn tâm phi tất cả các pháp thế gian (6 cõi phàm) và
xuất thế gian (4 quả thánh) vậy.
LƯỢC GIẢI
Ðã là chơn tâm
thì không còn vọng. Vì không còn vọng nên không có đối đãi:
ngộ mê, thánh phàm, chúng sanh và Phật, hữu vi hay vô vi
v.v... vì nó tuyệt tánh, ly tướng.
***
II. Phật
dạy: chơn tâm tức là tất cả Pháp
Phật dạy: Chơn tâm này, cũng tức tất cả pháp; tức là tâm;
tức là đất, nước, gió, lửa và hư không; tức là nhãn, nhĩ,
tỉ, thiệt, thân, ý; tức là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp;
tức là nhãn thức giới cho đến ý thức giới; tức Tứ đế; tức
Thập nhĩ nhân duyên; tức là Lục độ; tức là Phật và bốn đức
Niết bàn. Nói tóm lại, chơn tâm tức là tất cả pháp thế gian
và xuất thế gian.
LƯỢC GIẢI
Tâm đã sanh ra tất cả pháp, thì tâm là tất cả pháp. Cũng như
bột đã làm ra các thứ bánh, thì bột đó tức là bánh.
III. Ðến một từng
nữa là chơn tâm không thể nói “phi” và “tức”
Phú Lâu Na, cái chơn tâm này lại rời tất cả “tức” và “phi”,
mà cũng là “tức” và “phi tức”.
Chơn tâm như thế, thì từ kẻ phàm phu cho đến các vị thánh:
Thinh văn, Duyên giác, làm sao lấy tâm trí suy nghĩ cho đến
đạo vô thượng bồ đề của Như lai, hay dùng lời nói luận bàn
của thế gian mà ngộ nhập chỗ tri kiến của Phật cho được?
LƯỢC GIẢI
Ðây là chỗ tuyệt đối, không thể nói năng, suy nghĩ và kêu
gọi là gì được. Túng cùng chỉ gọi “Chơn tâm” thôi. Bởi thế
nên Phật đóng cửa thất tại nước Ma Kiệt; ông Duy Ma ngậm
miệng ở thành Tỳ Gia, cũng vì lý đạo quá cao siêu và nhiệm
mầu, nên không thể nói ra được vậy.
IV. Phật lấy cây
đờn để tỷ dụ
Tỷ dụ như cây đờn cầm hay đờn tỳ bà v.v... tuy sẵn có tiếng
hay, nhưng phải nhờ ngón tay hay của người biết khảy (nhạc
sĩ) mới có thể phát ra tiếng hay được.
LƯỢC GIẢI
Thí dụ này rõ ràng và thật tế lắm. Người đờn hay khảy ra
tiếng hay, người đờn vừa khảy ra tiếng vừa, người đờn dở
khảy tiếng dở, song đều có tiếng cả. Dụ như chơn tâm của
chúng ta tùy duyên biến hiện các pháp; nếu khéo dùng thì
hiện ra Phật, còn vừa vừa thì thành Bồ tát, Thinh văn, vụng
lắm thì thành tam đồ lục đạo, đều có biến hiện cả.
***
Ta cùng với các ông cũng đồng một bản thể chơn tâm thanh
tịnh này và viên mãn khắp giáp tất cả. Song ta làm việc gì
và lúc nào cũng đều chơn cả. Còn các ông tâm vừa móng lên,
thì phiền não trần lao đã khởi trước.
Bởi các ông không siêng năng cầu đạo vô thượng, chỉ ưa mến
quả Tiểu thừa, mới vừa chứng được chút ít lại cho là đầy đủ.
V. Ông Phú Lâu Na
hỏi Phật: chơn tâm nhơn đâu có vọng
Ông Phú Lâu Na thưa: Bạch Thế tôn, con cùng với Phật đã đồng
một chơn tâm viên mãn không khác. Nhưng con bị vọng tưởng từ
vô thỉ, nên nhiều kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, nay tuy
chứng đặng quả Thánh, mà chưa cứu cánh (còn ở về Tiểu thừa).
Còn đức Thế Tôn
thì tất cả các vọng đã hoàn toàn diệt, Ngài đã chứng chơn
tâm thường trụ rồi, được tự tại giải thoát. Vậy con xin kính
hỏi đức Thế tôn: Tất cả chúng sanh vì sao có vọng, tự che
lấy chơn tâm mà phải chịu trầm luân?
VI.
Phật dạy: đã là vọng thì không có sở
nhơn, như ông Diễn Nhã Ðạt Ða
Phật dạy: Này Phú Lâu Na, ông tuy trừ nghi, mà các mê lầm
chưa hết. Tôi nay dùng việc thật tế và hiện tiền trong thế
gian để chỉ dạy ông: vừa rồi đây, ông có nghe câu chuyện
chàng Diễn Nhã Ðạt Ða tại thành Thất la không? Một buổi sáng
nọ chàng lấy gương soi mặt, thấy cái đầu trong gương (bóng)
có mặt mày đáng thương. Chàng trở lại giận trách “cái đầu
thiệt của mình đây sao không thấy được mặt mày của mình; hay
là ma quỷ?”. Rồi bỗng nhiên chàng nổi cuồng vùng
chạy... Theo ý ông, người này nhơn cái gì mà bỗng nhiên nổi
cuồng vụt chạy?
Ông Phú Lâu Na thưa: Người ấy tự tâm họ cuồng, chớ không có
nhơn cái chi cả.
Phật dạy: Cũng vậy đó, ông Phú Lâu Na. Ðã nói là “vọng” thì
đâu có sở nhơn, còn có sở nhơn thì không phải là vọng. Các
vọng tưởng tự nó nhơn nhau liên tiếp phát sanh; từ đời này
đã mê rồi chất chứa thêm cái mê, cho đến nhiều kiếp. Ta đã
nhiều lần chỉ dạy, mà các ông hãy còn chưa ngộ trở lại.
Này Phú Lâu Na,
cái “mê” như vậy đó, nhơn mê tự có? Nếu người biết được cái
“mê” ấy không nguyên nhân, thì cái “mê vọng” đó không còn gá
nương vào đâu nữa. Lúc bấy giờ dầu muốn cho nó sanh còn
không thể được, huống chi muốn diệt.
Các ông nên biết: người đặng đạo Bồ đề rồi (ngộ chơn tâm),
cũng như người thức giấc mộng, mà muốn nói lại việc chiêm
bao; mặc dầu trong tâm nhớ biết rõ ràng, nhưng không làm sao
chỉ các vật trong chiêm bao ra được, vì nó không thật có, vả
lại nó cũng không có nguyên nhân nữa. Cũng như chàng Diễn
Nhã Ðạt Ða, tự sợ cái đầu của mình, rồi nổi cuồng vụt chạy,
chớ không có sở nhơn gì cả.
Nếu cái “cuồng” kia thoạt nhiên hết, thì cái “đầu” vẫn y
nguyên. Dù cho khi chưa hết cuồng thì cấi đầu ấy cũng không
mất. Này Phú Lâu Na, các “mê vọng” như vậy đó, chớ có nhơn
cái gì đâu!
LƯỢC GIẢI
Cái đầu là dụ cho “chơn tâm”. Tự nổi cuồng là dụ cho các
“vọng tưởng” tự sanh. Hết cuồng rồi thì cái đầu vẫn y
nguyên, dầu đương cuồng cái đầu cũng không mất, là dụ cho
ngộ rồi thì chơn tâm tự hiện, dầu chưa ngộ, chơn tâm cũng
không mất.
VII. Nếu các
“vọng duyên” dứt, tâm “cuồng vọng” tiêu thì chơn tâm hiện
bày
Này Phú Lâu Na, các ông khi đối với trần cảnh (thế giới,
chúng sanh, nghiệp quả) chỉ đừng có khởi vọng niệm phân
biệt, thì tham, sân, si (ba duyên) không khởi. Ba duyên
không khởi, thời ba nhơn sát, đạo, dâm chẳng sanh. Lúc bấy
giờ anh khùng Diễn Nhã Ðạt Ða (mê) ở trong tâm các ông tự
hết, mà hết tức là Bồ đề (sáng suốt). Khi ấy chơn tâm của
ông thanh tịnh sáng suốt tự hiện bày, khắp cả pháp giới,
không cần phải cực nhọc khó khăn tu chứng, hay xin cầu nơi
ai cả.
LƯỢC GIẢI
Bởi đối cảnh khởi tâm phân biệt, nên sanh ra tham, sân,
si. Vì tham, sân, si mới có sát, đạo, dâm. Do sát, đạo, dâm
nên phải chịu sanh tử luân hồi.
Tỷ dụ như người khi đối với nữ sắc v.v... chỉ thấy qua không
khởi vọng niệm phân biệt thì chẳng có hại chi. Ðến lúc khởi
tâm phân biệt đây là xấu, thì tâm ghét giận nổi lên. Còn
phân biệt kia đẹp thì tâm tham muốn sanh ra. Tham, sân đã
sanh thì si cũng theo đó mà khởi.
Còn khi đối cảnh, ma tâm không khởi phân biệt thời vọng niệm
chẳng sanh, vọng niệm không sanh thì chơn tâm tự hiện.
Thật là một pháp tu trực chỉ mau thành Phật nhứt, mà cũng là
khó nhất. Chúng ta suốt đời chỉ tu theo bốn chữ Phật dạy:
“Bất tùy phân biệt” (đối cảnh không khởi phân biệt) cũng
chưa chắc đã tu xong
***
Tỷ dụ cùng tử,
trong túi áo có sẵn hột châu như ý, nhưng không hay biết,
nên chịu nghèo hèn vất vả phải đi làm thuê mướn ở các phương
xa, kiếm ăn qua ngày tháng, song hột châu ấy không mất. Ðến
khi gặp người tri thức (quen) chi cho biết “Anh đã sẵn có
hột châu vô giá trong túi áo kia”. Lúc bấy giờ anh muốn gì
được nấy, giàu có vô cùng. Chừng ấy anh mới hối ngộ
rằng: hột thần châu này chính mình đã sẵn có, không phải do
nơi người mà được.
LƯỢC GIẢI
Lời tỷ dụ này rất hay, Phật chỉ rõ chúng sanh đều sẵn có
Phật tánh (chơn tâm). Nhưng vì không ngộ, nên phải nhiều
kiếp làm chúng sanh khổ sở, mà Phật tánh thì vẫn không
mất. Ðến khi ngộ được chơn tâm, chứng thành quả Phật, phước
trí đầy đủ rồi mới biết rằng: Chơn tâm này chính mình sẵn
có, không phải do nơi người mà được.
***
VIII.
A Nan nghi “tâm bồ đề” do
nhơn duyên sanh
Khi đó A Nan đứng dậy lạy Phật, chắp tay bạch rằng: - Ðức
Thế Tôn nói: “Ba duyên tham, sân, si dứt rồi, thời ba nhơn
sát, đạo, dâm không sanh. Lúc bấy giờ anh khùng Diễn Nhã Ðạt
Ða trong tâm ông tự hết, mà hết tức là Bồ đề, không phải do
nơi người mà đặng”.
- Bạch Thế tôn, như thế thì tâm Bồ đề rõ ràng là do nhân
duyên sanh rồi. Tại sao đức Như Lai lại bác thuyết nhơn
duyên sanh?
Không những riêng chúng
con là hàng Thinh văn tuổi trẻ hữu học, do nhơn duyên mà tâm
được khai ngộ; chính như trong hội này, những vị đã đặng vô
lậu, như ông Ðại Mục Kiền Liên, ông Xá Lợi Phất và ông Tu Bồ
Ðề từ dòng Phạm chí ngoại đạo, cũng do nghe Phật nói nhân
duyên, mà tâm được khai ngộ.
Nay Phật nói: “Tâm Bồ đề không từ nơi nhơn duyên sanh”. Như
thế thì chúng ngoại đạo Câu Xá Ly kia nói về thuyết “tự
nhiên” cũng thành đúng lý hay sao? Xin Phật duỗi lòng đại
bi, vạch mở chỗ mê mờ cho chúng con.
LƯỢC GIẢI
Ông A Nan trước đã nghi nhân duyên và tự nhiên, đều bị Phật
phá rồi, nay ông lại còn nghi nhân duyên và tự nhiên
nữa. Bởi vì lưới nghi chồng chập nhiều đời, vả lại hàng
Thinh văn pháp chấp khó trừ. Cũng như cây chuối, lột được bẹ
này, lại bày ra bẹ khác. Lột cho hết bẹ thì lõm chuối mới
bày. Phá nghi cho hết, thì “chơn tâm” mới hiện.
***
IX. Phật
định nghĩa chữ nhân duyên tự nhiên và bác
Phật dạy rằng: Này A Nan, như chàng Diễn Nhã Ðạt Ða kia, vì
nhân duyên soi gương, cho nên chàng mới sanh ra cuồng. Ðến
khi hết cuồng thì tánh không cuồng (tỉnh) tự nhiên sanh ra;
có phải cái lý nhân duyên và tự nhiên cùng tột như thế
chăng?
Này A Nan, chàng Diễn Nhã Ðạt Ða kia, nếu cái đầu của chàng
đã là tự nhiên, thì lúc nào cũng vẫn tự nhiên, vậy do nhân
duyên gì nổi cuồng sợ chạy?
Nếu cái đầu là tự nhiên, vì nhơn duyên soi gương cho nên mới
cuồng, vậy cái đầu cũng vẫn tự nhiên, sao chẳng vì nhân
duyên soi gương mà mất đi. Phải biết: cái đầu vẫn không biến
đổi hay mất đi, còn “cuồng sợ” tự nó vọng sanh. Vậy thì cần
gì phải có nhân duyên soi gương mới sanh ra cuồng?
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này đại ý nói: Nếu nói “chơn tâm tự nhiên” thì lúc nào
cũng vẫn tự nhiên, vậy do nhân duyên gì mà nổi vọng. Nếu nói
“có nhân duyên nên nổi vọng” sao chẳng do nhân duyên mà chơn
tâm kia mất. Vậy thì biết, chơn tâm không biến đổi, cái
“cuồng vọng” tự nó vọng sanh, không cần gì phải có nhân
duyên.
***
- Còn nói “cái cuồng đó tự nhiên sẵn có”, vậy thì khi chưa
cuồng nó núp ở chỗ nào?
Cái đầu đã tự nhiên không có cuồng vọng, vậy vì sao nổi
cuồng vụt chạy?
Nếu như người ngộ được “cái đầu mình sẵn có”, biết được cái
“cuồng” tự nó vọng sanh, thì thuyết nhân duyên và tự nhiên
đều là nói chơi cả.
X. Phật phá
chấp nhân duyên để dẫn vào “vô công dụng”
- Thế nên Ta nói: “Ba duyên: tham, sân, si đoạn hết, tức là
tâm Bồ đề”. Nếu cái “vọng tâm sanh diệt kia diệt, mà tâm Bồ
đề sanh”, như thế cũng còn ở trong vòng sanh diệt. Phải diệt
và sanh đều hết, mới được vô công dụng đạo (chỗ cứu cánh).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật phá chấp nhân duyên để dẫn nhập đạo vô công
dụng.
***
XI. Phật
phá chấp tự nhiên để thành vô hí luận
- Nếu ông chấp “vọng tâm sanh diệt kia diệt rồi, thì tâm Bồ
đề tự nhiên sanh”; như thế cũng còn ở trong vòng sanh diệt,
chưa phải thật là tự nhiên. Phải không còn sanh và diệt, mới
thật là tự nhiên.
Ông nên hiểu thêm: không phải tự nhiên sanh, không phải nhân
duyên hòa hiệp khởi; ly (rời) cả tự nhiên và nhân duyên hòa
hiệp, mà cái “ly” đó cũng không còn nữa, như thế mới phải là
chỗ rốt ráo (vô hí luận).
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này là Phật chỉ đến chỗ cứu cánh tuyệt đối, nếu còn nói
năng phân biệt, thì chưa phải là tuyệt đối.
XII. Phật
quở ông A Nan học nhiều không tu, thì chẳng có lợi ích gì
- A Nan! Ông đối với quả Bồ đề Niết Bàn của Phật hãy còn
cách xa lắm! Nếu ông không siêng năng, trải qua nhiều kiếp
chịu cực nhọc tu hành, thì dầu cho có nhớ hết nghĩa lý nhiệm
mầu trong mười hai bộ kinh của mười phương các đức Phật,
nhiều như số cát sông Hằng, cũng chỉ giúp thêm cho ông việc
nói giỏi mà thôi, chớ không lợi chi cho ông cả.
Ông nay luận bàn về thuyết nhân duyên và tự nhiên rất là
thông suốt. Người đời khen ông là bực học rộng nghe
nhiều. Nếu trong nhiều kiếp ông chỉ chứa chất cái học suông
này mà không tu, thì không bao giờ khỏi được cái nạn Ma Ðăng
Già kia vậy.
Nếu cái học và nghe suông của ông đó có lợi thì cần gì phải
nhờ đến thần chú Lăng nghiêm của ta, để làm cho nàng Ma Ðăng
Già kia nguồn tình khô cạn, lửa dục tiêu tan, lại tinh tấn
tu hành, trong đạo pháp của ta, nàng chứng được quả thánh
thứ Ba (A Na Hàm). Khi đó ông mới được giải thoát.
XIII. So
sánh để khuyến khích tu hành
A Nan! Ông tuy nhiều kiếp ghi nhớ các nghĩa lý nhiệm mầu của
Như Lai, nhưng không bằng một ngày tu tập nghiệp vô lậu, xa
lìa hai cái khổ thương ghét (tham, sân) ở thế gian.
Bằng chứng rõ ràng, như nàng Ma Ðăng Già nguyên trước kia là
kẻ dâm nữ, do nhờ thần chú của ta, mà nguồn tình khô cạn,
lửa dục tiêu tan, lại xuất gia tu hành làm Tỳ kheo ni.
Còn bà Gia Du Ðà La là mẹ của La Hầu La, vì biết được nhân
đời trước, do tham ái mà nhiều đời phải chịu khổ, nên một
niệm tu theo nghiệp lành vô lậu, mà được ra khỏi tình
ái ân triền phược và đặng thọ ký.
Kẻ phụ nhân tu hành còn được như thế, huống chi các ông là
nam tử, đã học rộng nghe nhiều mà trở lại chấp chỗ thấy,
nghe suông, chẳng biết tiến tu, sao tự khinh mình đến thế!
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật quở trách rất là thống thiết! Nếu chỉ học
nhiều mà không tu thì chẳng có lợi ích gì. Chúng ta đọc đoạn
này chớ nên nghĩ rằng: “Phật chỉ quở một mình ông A Nan”, mà
chính Ngài quở trách chung tất cả chúng ta vậy.
LƯU
Ý: Từ trước đến đây, Phật nói về phần lý, từ đây về sau,
Phật mới chỉ về đường lối tu hành
Mục Lục
I. A Nan thuật lại chỗ mình đã ngộ và thỉnh Phật chỉ dạy
phương pháp tu hành để nhập chơn tâm
II. Phật chỉ dạy phương pháp tu
III. Nghĩa quyết định thứ nhứt
IV. Nghĩa quyết định thứ hai
V. Vì vọng nổi lên nên chơn tâm bị ẩn
VI. Xoay vọng về chơn thì sáu căn được tự tại
VII. Dẫn chứng các vị thấy, nghe, hay, biết được tự tại,
không còn bị cuộc hạn nơi căn
VIII. A Nan nghi: Các giác quan hiện tiền là vọng, tại sao
Phật lại dạy nương nơi đó làm nhơn địa tu hành, để chứng
đặng quả Phật chơn thật
IX. Phật bảo đánh chuông để chứng nghiệm “tánh nghe” thường
còn
X. Phật chỉ khi ngủ, cái “nghe” cũng không mất
I. A Nan
thuật lại chỗ mình đã ngộ và thỉnh Phật chỉ dạy phương pháp
tu hành để nhập chơn tâm
Ông A Nan và đại chúng được Phật dạy bảo rất tường tất, nên
các điều nghi lầm đã trừ hết, ngộ được chơn tâm (thật
tướng), nhưng chưa biết làm sao chứng nhập, nên các ông cúi
đầu lạy Phật, chắp tay kính cẩn thưa rằng:
Bạch Thế Tôn, Ngài đã dùng đủ phương tiện dẫn dắt chúng con
ra khỏi sông mê bể khổ. Hôm nay, chúng con tuy ngộ được chơn
tâm của mình, biến khắp cả mười phương thế giới, nhưng còn
bị Như Lai quở trách, học nhiều mà không tu, chẳng bẳng
người lo tu tập.
Nay chúng con cũng như người bần cùng vất vả, được vị Thiên
Vương ban cho cái nhà lầu tốt đẹp, song chưa biết làm sao
vào nhà. Cúi xin đức Như Lai chỉ dạy cho chúng con, được vào
tri kiến của Phật (chứng nhập chơn tâm).
II. Phật chỉ dạy
phương pháp tu
Phật dạy A Nan và đại chúng: Các ông nếu phát tâm Bồ đề, đối
với các pháp môn tu hành chí quyết tăng tấn, tâm không giải
đãi thì khi mới phát tâm, trước phải phân biệt rành rõ hai
nghĩa quyết định.
III. Nghĩa quyết
định thứ nhứt
Này A Nan! Các ông muốn bỏ Tiểu thừa Thinh văn, tu theo Ðại
thừa Bồ tát, vào tri kiến của Phật, thì trước phải quan sát
cái nhơn địa phát tâm cùng với quả vị sẽ chứng là đồng hay
khác?
Nếu các
ông dùng cái vọng tâm sanh diệt làm nhơn tu hành, mà mong
cầu cho đặng quả Phật, thường còn không sanh diệt thì không
thể được. Ðây là điều quyết định thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn trước Phật đã dạy: Nếu dùng vọng tâm làm tu nhơn, mà
muốn đặng quả thường trụ, thì như người nấu cát muốn cho
thành cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng không thể
được. Hành giả phải an trụ nơi chơn tâm làm nhơn địa tu
hành, thì mới đặng quả Phật bất sanh bất diệt.
***
A Nan! Ông hãy xét coi: trong thế gian những vật gì có làm
ra, đều phải hoại diệt, chứ chưa từng nghe cái hư không có
hoại diệt bao giờ, vì hư không không phải là vật bị làm ra
vậy (hư không dụ chơn tâm, các vật là dụ vọng tâm có sanh
diệt)
Xét lại trong thân ông, những vật cứng dẻo (da, thịt, gân,
xương) là đất; những vật đượm ướt (máu, huyết, mồ hôi, mỡ)
là nước; chất ấm, nóng trong người thuộc về lửa; những vật
lưu động (hơi thở ra vào) là thuộc về gió. Do bốn món này nó
phiền phược và phân chia cái chơn tâm của ông, thành ra có
thấy, nghe, hay, biết, từ thỉ chí chung năm lớp ngầu đục
(ngũ trược).
Tỷ dụ như nước trong sạch có người lấy bụi đất quăng vào,
thì đất sẽ mất chất cứng, còn nước mất chất trong sạch, trở
thành ngầu đục, nên gọi là ô trược.
A Nan! Nay ông muốn cho cái thấy, nghe, hay, biết (các giác
quan) trở lại để hiệp với bốn đức Niết bàn của Như Lai:
Thường, lạc, ngã, tịnh, thì trước ông phải lựa ra cái gốc rễ
sanh tử (vọng tâm) và y theo chơn tâm thanh tịnh viên mãn
bất sanh bất diệt làm nhơn địa tu hành.
LƯỢC GIẢI
Vì còn ở trong vòng mê nên gọi là các giác quan: thấy, nghe,
hay, biết; đến khi ngộ rồi thì các giác quan này trở lại
thành bốn đức Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.
Chúng ta cũng nên phân biệt cho rõ nghĩa: 1. chơn tâm, 2.
các giác quan, 3. vọng niệm phân biệt. Như nước biển trong
veo, (dụ chơn tâm) chảy vào các sông ngòi lẫn lộn bùng đục
(dụ cho chơn tâm lưu lộ nơi các căn, thành các giác quan;
“đục” là dụ còn ở nơi mé) nổi sóng ba đào (dụ cho vọng niệm
phân biệt)
***
Các ông hãy xoay cái hư vọng sanh diệt trở lại chơn tâm
thanh tịnh không sanh diệt; phải lấy chơn tâm không sanh
diệt này làm nhơn địa tu hành, thì sau mới chứng được quả
Phật thường trụ.
Cách tu hành cũng như lóng nước. Nước đục để yên tịnh trong
một cái bình, để lâu thì những bụi cát từ từ chìm lặn, mà
nước trong hiện ra; hễ càng yên tỉnh thì nước càng
trong. Ðây là dụ cho giai đoạn thứ nhứt, khi mới hàng phục
được phiền não khách trần (phiền não vừa lặng). Ðến chừng
lọc bỏ cặn đục chỉ còn toàn là nước trong, là dụ cho giai
đoạn thứ hai, khi đã đoạn trừ căn bản vô minh.
Ðến khi chỉ còn hoàn toàn là nước trong, thì dù lắc cho mấy
nó cũng vẫn trong. Còn khi đoạn được căn bản vô minh, chỉ
còn chơn tâm thanh tịnh hiện tiền, lúc bấy giờ dầu có tạo
tác thi vi làm đủ mọi việc, song cũng đều là chơn, vẫn hiệp
với đức tánh thanh tịnh mầu nhiệm của Niết bàn, không
còn bị phiền não nhiễu loạn.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này hay lắm; Phật dạy lối tu rất rõ ràng và thật
tế. Hiệp với đoạn trước Phật dạy: “Khi đối cảnh không khởi
phân biệt, thì vọng niệm chẳng sanh. Vọng niệm không sanh
thời chơn tâm tự hiện”.
Cũng như nước đứng trong, thì cặn cáu lóng chìm. Lóng càng
lâu thì nước càng trong. Ðến khi dứt sạch căn bản vô minh,
chỉ còn toàn thể chơn tâm, thì hành
động thi vi
chi cũng đều là thanh tịnh. Nên kinh nói: “Như Lai án túc
hải ấn phát quang v.v...” (Phật vừa để chơn, thì biển trong
in ánh sáng). Như nước đã lọc bõ cặn rồi thì lắc mấy cũng
vẫn trong. Ðoạn này cũng chỉ rõ cái nghĩa “thành Phật rồi
không trở lại làm chúng sanh”.
Các đạo khác tu hành dẫu cao siêu cho mấy, chẳng qua cũng
như nước lóng mà chưa lọc bỏ được cặn. Lâu lâu phiền não nổi
lên, thì phải đọa trở lại, nên gọi là hữu lậu (còn sa rớt).
***
IV. Nghĩa quyết
định thứ hai
A Nan, các ông phát tâm dõng mãnh, quyết định dẹp trừ các
tướng hữu vi, cầu quả đại thừa, thì cần phải xét rõ gốc rễ
của phiền não: Từ vô thỉ đến nay, cái nào là phát nghiệp vô
minh (bất giác vọng động) cái nào nhuận sanh vô minh (ái,
thủ) cái gì tạo (lục thức), cái gì lãnh thọ (bát thức). Ðây
là nghĩa quyết định thứ hai.
Các ông tu đạo Bồ đề, nếu không xét rõ gốc rễ của phiền não,
thì đối với căn và trần hư vọng này, không thể biết được cái
“điên đảo” ở chỗ nào. Cái chỗ ở còn không biết thời làm sao
hàng phục được giặc phiền não để chứng quả Phật.
Các ông hãy xem trong thế gian, những người mở gút, nếu họ
chẳng thấy được mối, thì không mong gì mở được. Chưa từng
nghe cái hư không bị ai mở được, vì hư không vô hình chẳng
có gút và mở vậy (hư không dụ cho chơn tâm).
Ông nên hiểu: Hiện tiền sáu căn của ông đây: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý, chúng làm mai mối cho sáu giặc (sáu thức),
đến cướp giựt của báu nhà ông. Bởi thế nên các ông cùng tất
cả chúng sanh, từ vô thỉ đến nay bị triền phược trong vòng
luân hồi, không vượt ra ngoài ba cõi được.
LƯỢC GIẢI
Vì sáu căn làm mai mối, dẫn chúng sanh ra sáu thức là lục
tặc, cướp hại chơn tánh. Nghĩa là vì căn đối với cảnh, khởi
vọng niệm phân biệt, nên chơn tâm phải bị mờ. Cũng như gió
xao động, cặn cáu nổi lên, nên tánh nước trong phải ẩn.
***
V. Vì vọng nổi lên nên chơn tâm
bị ẩn
Này A Nan, sáu căn của ông như vậy, do vô minh vọng động nổi
lên, nên chơn tâm bị ẩn. Từ đây về sau, mỗi khi chiếu soi
thì gồm cả vọng đều phát.
Bởi thế nên rời tối và sáng, thời mắt ông không thấy, rời
động và tịnh thì tai ông không nghe, rời thông và nghẹt thì
mũi ông không ngửi, rời các vị ra thời lưỡi ông không nếm,
rời các xúc trần thì thân ông không biết, rời cả pháp trần
thì ý ông không phân biệt.
VI. Xoay vọng về
chơn thì sáu căn được tự tại
Chỉ sáu căn của ông không theo sáu trần cảnh khởi vọng niệm
phân biệt, tùy ông mở gút (vọng nhiễm) được một căn nào thì
các căn đều được giải thoát. Nghĩa là ngoài không cùng với
trần cảnh gút chặt, trong thâu phục phiền não trở lại với
chơn tâm sáng suốt, thì năm căn bị gút chặt kia cũng đều
được hoàn toàn giải thoát. Lúc bấy giờ sáu căn tự tại, thay
nhau cần dùng, các giác quan: thấy, nghe, hay, biết, không
còn bị cuộc hạn nơi các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi v.v... chỉ
nương các căn phát ra tác dụng; không cần có trần cảnh đối
chiếu mà cũng vẫn thấy, nghe, hay, biết.
VII. Dẫn chứng
các vị thấy, nghe, hay, biết được tự tại, không còn bị cuộc
hạn nơi căn
A Nan! Ông đã thấy trong hội này, như ông A Na Luật Ðà không
có con mắt mà vẫn thấy. Rồng Bạt Nan Ðà không lỗ tai mà vẫn
nghe. Thần nữ Căn Dà không lỗ mũi mà ngửi được mùi. Ông Kiều
Phạm Bác Ðề cái lưỡi không phải lưỡi người, mà biết được các
món ăn của người. Ông Thần Thuấn Nhã Ða không có thân mà vẫn
biết xúc. Ông Ma Ha Ca Diếp tu diệt tận định, dứt trừ ý căn
đã lâu, mà vẫn phân biệt được rõ ràng.
A Nan! Hiện nay các căn của ông nếu hoàn toàn gỡ hết cái gút
chặt nơi trần cảnh (không theo trần cảnh phân biệt) trong
chinh phục được phiền não, trở về với chơn tâm rồi thì hiện
tiền thân căn và thế giới đây đều không còn; cũng như nước
nóng băng tan, ông liền chứng được quả Phật.
A Nan! Như người thế gian, cái thấy của họ chỉ gom ở con
mắt. Nếu bảo họ nhắm mắt lại, thì hiện tiền tối đen, sáu căn
mờ mịt, đầu chân in nhau. Người kia lấy tay rờ khắp cả thân
thể, tuy mắt họ không thấy, mà cũng vẫn biết đâu là đầu và
đâu là chân; cái hiểu biết đồng nhau (đây cũng là một bằng
chứng: các giác quan chẳng bị cuộc hạn nơi căn và trần).
A Nan, nhơn sáng mới thấy, nếu tối thời không thấy. Nay
không cần sáng mà cũng thấy biết, như thế thì cái tối kia
không thể làm mờ (mất) cái “thấy biết” của ông được. Căn và
trần các vọng đã tiêu rồi, thì liền trở lại với chơn tánh.
VIII. A Nan nghi:
các giác quan hiện tiền là vọng, tại sao Phật lại dạy nương
nơi đó làm nhơn địa tu hành, để chứng đặng quả Phật chơn
thật
A Nan thưa: Bạch Thế tôn, như lời Phật dạy: “Muốn cầu quả
Phật thường còn, thì cái nhơn địa phát tâm tu hành phải chơn
thật, mới chứng được quả vị chơn thật”.
Bạch Thế tôn! Bồ đề, Niết bàn, Chơn như, Pháp tánh, Yêm ma
la thức, Không Như Lai tạng và Ðại viên cảnh trí, bảy danh
từ tuy khác, chớ cũng đồng một quả Phật thanh tịnh thường
còn không hoại.
Còn cái thấy, nghe, hay, biết, các giác quan của con đây,
nếu rời các trần cảnh hiện tiền: tối, sáng, động, tịnh,
v.v…, thời không còn thấy, nghe, hay, biết nữa. Quanh quẩn
tới lui, chín chắn suy tìm, thì cái tâm của con hoàn toàn
không chơn thật. Tại làm sao Phật dạy lấy cái hư vọng đoạn
diệt này làm nhơn tu, để cầu quả Phật thường còn không
sanh-diệt cho được. Vậy thì lời nói của Phật trước sau trái
nhau, làm sao gọi là “Như Lai nói thật”, xin đức Từ tôn, từ
bi vén mở chỗ mê mờ cho chúng con.
IX. Phật bảo đánh
chuông để chứng nghiệm “tánh nghe” thường còn
Phật dạy: A Nan, ông tuy học rộng, nghe nhiều, nhưng các
phiền não hữu lậu (mê lầm) chưa hết, nên ông chỉ biết suông
cái tên “điên đảo”. Ðến lúc cái “điên đảo” thật hiện tiền,
thì ông lại không biết. Như thế thì sự tin hiểu của ông chưa
được chắc chắn. Tôi nay đem những việc thường trong đời, để
trừ các nghi lầm cho ông.
Khi đó
Phật liền bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi
ông A Nan rằng:
-Ông có nghe
không?
A Nan thưa: Nghe.
Ðến lúc chuông hết ngân, Phật lại hỏi:
Ông có nghe không?
A Nan thưa: Không nghe.
Phật lại bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa và hỏi:
Ông có nghe không?
A Nan đáp: Nghe.
Phật hỏi: Thế
nào là nghe và thế nào là không nghe?
A Nan thưa: Vì đánh chuông có tiếng ngân, nên con nghe, đến
khi tiếng chuông hết ngân thì con không nghe.
Phật dạy: A Nan! Khi tiếng chuông hết ngân, ông nói rằng:
“không nghe”; nếu ông thật không có “cái nghe” thì ông đồng
như cây đá, tại sao khi đánh tiếng chuông thứ hai, ông
lại có nghe?
Vậy cho biết:
cái “tiếng” (cảnh) khi có khi không, chớ cái “nghe” (tâm)
của ông lúc nào cũng có. Nếu cái “nghe” của ông thật không,
thì cái gì biết được “không nghe” đó?
Thế nên ông phải biết: cái “tiếng” đối với cái “tiếng” nó tự
sanh và diệt, chớ ở cái “nghe” (tâm) của ông, không phải vì
tiếng sanh mà nó “có”, tiếng diệt mà nó “không”. Tại ông
điên đảo hôn mê, nhận cái “thường” (tánh nghe) làm đoạn diệt
(tiếng), chớ không phải rời sáu trần cảnh: sắc, thinh,
hương, v.v... mà các giác quan thấy, nghe, hay, biết của ông
không có.
LƯỢC GIẢI
Ðây là lần thứ
bảy, Phật chỉ rất rõ ràng các giác quan: thấy, nghe v.v...
là tâm và thường còn.
***
X. Phật chỉ khi
ngủ, cái “nghe” cũng không mất
Bằng chứng thứ hai: Như người đang ngủ, nằm trên giường
chõng, trong nhà có người giã gạo, khi đó người ngủ kia mơ
màng, tưởng là tiếng trống hoặc tiếng chuông, đến chừng thức
dậy rồi mới nhận rõ đó là tiếng chày giã gạo.
A Nan! Người ngủ kia, mặc dù đối với cảnh vật hiện tiền, họ
không thấy biết, mà cái “nghe” của họ cũng không mất.
Dù cho thân thể ông đến khi già chết tiêu tan, mà cái “tánh
nghe” này cũng không vì ông già, chết đó mà tiêu diệt. Bởi
chúng sanh từ vô thỉ đến giờ, cứ theo các trần cảnh, khởi
vọng niệm phân biệt lăng xăng, chưa từng ngộ được chơn, tâm
thường còn của mình
Vì cứ nương theo vọng niệm phân biệt, chẳng nương theo chơn
tâm thường trụ, cho nên đời đời nhiễm ô, trôi lăn trong vòng
sanh tử. Vậy các ông phải bỏ cái vọng niệm sanh diệt, theo
về với chơn tâm thường trụ. Khi chơn tâm thanh tịnh sáng
suốt hiện tiền rồi, thì căn thân, trần cảnh và vọng trần và
tâm cấu nhiễm đã tiêu rồi, lúc bấy giờ lo gì chẳng thành quả
Phật vô thượng.
Ngài A Nan
hỏi Phật: Trói Cột Ở chỗ Nào và Làm Sao Mở được
Mục Lục
I. Ngài A Nan hỏi
Phật: Trói cột ở chỗ nào và làm sao mở được?
II. Phật chỉ chỗ trói cột (gút)
III. A Nan hỏi: Tại sao bị sanh tử luân hồi hay được tự tại
giải thoát cũng vì sáu căn?
IV. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
V. Vọng hết thì chơn hiện
I. Ngài A Nan hỏi Phật: trói cột
ở chỗ nào và làm sao mở được?
A Nan thưa: Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy về cái nghĩa thứ
hai là phải biết rõ gốc rễ của phiền não ở chỗ nào, mới có
thể trừ được. Cũng như người mở gút, nếu không biết mối gút
ở đâu thì không bao giờ mở được.
Bạch Thế tôn! Chính thế, chúng con đây cũng vậy, từ vô thỉ
đến nay, cùng với các vô minh chung (đồng) sanh và chung
diệt; tuy mang danh xuất gia, học rộng nghe nhiều, thật ra
cũng như người bị bệnh rét (làm cử) cách ngày (giác thời tự
ngộ, xúc cảnh hoàn mê).
Cúi xin đức Như Lai thương xót những kẻ trầm luân hiện tại
cũng như vị lai chỉ dạy cho ở nơi thân tâm này, chỗ nào
triền phược (gút), và làm sao mở được?
II. Phật chỉ chỗ trói cột (gút)
Khi đó Phật cùng với mười phương chư Phật, đều thương xót A
Nan và đại chúng cùng các chúng sanh đời sau, nên trên đảnh
các Ngài đồng phóng hào quang quý báu chiếu khắp tất cả,
đồng gọi A Nan cùng đại chúng và dạy rằng:
- Nay các ông muốn biết cái “câu sanh vô minh” (vô minh
chung cùng sanh từ vô thỉ đến nay) để trừ, và “quả vô thượng
Bồ đề” để tu chứng, vậy nay ta sẽ chỉ rõ cho các ông.
Này A Nan, khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi,
chỉ vì sáu căn, mà làm cho các ông chứng được đạo quả Bồ đề
an vui giải thoát, cũng chỉ vì sáu căn của các ông mà thôi.
LƯỢC GIẢI
Mười phương các đức Phật, đồng phóng hào quang, đồng dạy như
vậy, là để cho A Nan và đại chúng đều biết: đây là một
phương pháp duy nhứt, không những một mình đức Thích Ca, mà
cả mười phương chư Phật cũng đồng chỉ dạy như thế.
***
III. A Nan
hỏi: Tại sao bị sanh tử luân hồi hay được tự tại giải thoát
cũng vì sáu căn?
Ông A Nan đã nghe Phật chỉ dạy, nhưng chưa hiểu nên kính cẩn
hỏi Phật:
- Bạch Thế tôn, tại sao làm cho chúng con nhiều kiếp sanh tử
luân hồi cũng vì sáu căn, còn được an vui giải thoát cũng
chỉ do sáu căn, chứ không phải do vật gì khác?
Phật dạy rằng: Căn và trần đồng một thể (tâm), triền phược
và giải thoát không hai (mê thì triền phược, ngộ thì giải
thoát). Các thức hư vọng, cũng như hoa đốm giữa hư không.
LƯỢC GIẢI
Căn trần không lỗi mà lỗi tại vọng thức phân biệt, song thức
thì hư vọng không có thật thể như hoa đốm giữa hư không.
Cũng đồng căn và trần này, song phàm phu vì mê, khởi vọng
thức phân biệt ngã, pháp, nên bị triền phược, gọi là kiết
(gút). Thánh nhơn cũng đồng căn trần này, song vì giác ngộ
không khởi phân biệt chấp thật có ngã, pháp nên được giải
thoát, thế gọi là (mở).
***
A Nan, vì có trần cảnh, nên ở nơi căn mới khởi ra phân
biệt. Vì đã có cái năng phân biệt ở nơi căn, nên mới hiện ra
cái tướng bị phân biệt là cảnh. Căn (kiến) và cảnh (tướng)
đối đãi nhau vọng hiện, chớ không thật có (vô tánh). Cũng
như hình cây lau gác nhau.
LƯỢC GIẢI
Vì các cây lau gác nhau, nên ở xa xem như có hình người hay
vật. Cái hình này không thật. Ðây là dụ cho căn trần hư
huyễn không thật, vì đối đãi nhau nên vọng hiện ra mà thôi.
***
- Thế nên, khi thấy, nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân
biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà
không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chơn
tâm thanh tịnh, không có dung chứa vật gì cả.
LƯỢC GIẢI
Ðoạn này Phật dạy, khi sáu căn đối với sáu trần cảnh, nếu
khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc của vô minh triền phược
(trói cột). Bởi thế nên Phật nói: “vì sáu căn làm cho các
ông sanh tử luân hồi”. Trái lại, khi sáu căn đối với sáu
trần, mà không khởi vọng niệm phân biệt đó là Niết bàn, là
giải thoát (mở gút), nên Phật nói: “Làm cho các ông được an
vui giải thoát cũng vì sáu căn”.
***
IV.
Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
Khi đó Phật muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ ý
nghĩa như vầy:
NGUYÊN VĂN CHỮ
HÁN
Chơn tánh hữu vi
không
Duyên sanh có như
huyễn
Vô vi vô khởi diệt
Bất thật như
không hoa
Ngôn vọng hiển
chư chơn
Vọng, chơn đồng
nhị vọng
Do phi chơn phi
chơn
Vân hà kiến sở
kiến
Trung gian vô
thật tánh
Thị cố nhược giao
lô
Giải kết đồng sở
nhơn
Thánh phàm vô nhị
lộ
Nhữ quán giao
trung tánh
Không hữu nhị câu
phi
Mê hối tức vô
minh
Phát minh tiện
giải thoát
Giải kết nhơn thứ
đệ
Lục giải nhứt
diệc vong
Căn tuyển trạch
Viên Thông
Nhập lưu thành
Chánh giác
Ðà na vi tế thức
Tập khí thành bộc
lưu
Chơn phi chơn
khủng mê
Ngã thường bất
khai diễn
Tự tâm thủ tự tâm
Phi huyễn thành
huyễn pháp
Bất thủ vô phi
huyễn
Phi huyễn thường
bất sanh
Huyễn pháp vân hà
lập
Thị danh diệu
liên hoa
Kim cang vương
bảo giác
Như huyễn tam ma
đề
Ðàn chĩ siêu vô
học
Thử A tỳ đạt ma
Thập phương Bạc
Già phạm
Nhứt lộ Niết bàn
môn
DỊCH NGHĨA BÀI KỆ
Xứng theo chơn tánh (chơn tâm) thì các pháp hữu vi (vọng)
không thật có, do nhơn duyên sanh, cũng như vật huyễn
thuật.
Xứng về chơn tánh thì vô vi (chơn) cũng không thật có, vì nó
không sanh diệt, như hoa đốm giữa hư không.
Nói hữu vi là vọng, để hiển vô vi kia là chơn. Vì đối đãi
nhau mà có, nên “chơn” và “vọng” cũng đồng vọng cả. Ðến lý
này, còn không thể nói là “chơn” hay “phi chơn”, thì làm sao
gọi nó là cái “thấy” (căn) hay cái “bị thấy” (trần) được. Vì
nó như vật huyễn, chẳng có thật tánh, cũng như hình cây lau
gác.
Giải thoát hay triền phược đồng do sáu căn. Ðược chứng Thánh
hay bị đọa phàm cũng bởi sáu căn, chớ không có con đường nào
khác. Các ông cứ xem hình cây lau gác kia, nói có hay nói
không đều không thể được. Hễ mê muội là vô minh, còn giác
ngộ thì giải thoát.
Cột gút lại hay mở ra, đều phải theo thứ lớp. Khi sáu gút
(sáu căn) mở rồi, thì cái tên một cũng không còn (vì không
còn đối đãi, nên không thể kêu gọi). Các ông lựa được căn
viên thông tu hành, thì mau đặng thành quả Phật.
Thức A Ðà Na (thức thứ tám) rất là tinh tế, các chủng tử
trong thức này nó sanh diệt rất vi tế, như giòng nước chảy
mau. Ta đối với phàm phu và tiểu thừa không hề giảng nói
(thức này) vì sợ chúng mê lầm chấp là “chơn” hay là “vọng”,
đều có hại cả.
Tự nơi tâm các ông, trở lại chấp lấy tự tâm các ông. Chơn
tâm không phải huyễn mà trở lại thành hư huyễn. Nếu đối với
các “chơn” mà các ông không sanh tâm chấp thủ; với cái
“chơn” kia hãy còn không sanh, huống chi là cái “hư huyễn”
làm gì có được.
Ðây là con đường duy nhứt của mười phương các đức Phật tu
hành đến cảnh Niết bàn. Pháp này tên là Diệu Liên Hoa, cũng
tên Kim Cang Vương Bảo Giác và cũng tên là Như huyễn Tam ma
đề. Chỉ tu trong giây phút thì được quả vô học.
Khi đó A Nan và đại chúng nghe Phật nói bài kệ nghĩa lý thâm
trầm, nên tâm trí mỗi người đều trở nên sáng suốt, được lợi
ích chưa từng có.
LƯỢC GIẢI
Ông A Nan đã mấy lần cầu Phật chỉ dạy phương pháp nào mười
phương các đức Phật tu hành để được thành đạo chứng
quả. Ðiều ấy, Phật chỉ dạy đến đây đã tường tận.
Từ
trước đến đây là nói về phần đốn tu và đốn chứng. Từ đây về
sau Phật mới dạy về phần tiệm tu.
***
V. Vọng hết
thì chơn hiện
- Này A Nan, tùy ông lựa chọn sáu căn mà tu hành, nếu sự
kiết phược ở nơi căn của ông trừ rồi, thì các trần tướng
kia, tự diệt; khi các vọng đã tiêu hết, thì đó là “chơn” chứ
gì nữa!
A Nan, ông hãy xem cái khăn đã cột sáu gút đây, có thể đồng
một thời mở được hết sáu gút được không?
A Nan thưa: - Bạch Thế tôn, sáu gút tuy đồng một cái khăn,
song khi cột, đã tuần tự mà cột, thì khi mở cũng phải theo
thứ lớp mà mở, không thể đồng một thời mở được hết.
Phật dạy: - Sáu căn của ông khi giải trừ cũng phải như
vậy. Mở gút đầu tiên là phá trừ ngã chấp (chấp ta) trước
chứng đặng nhơn không. Tiến đến từng thứ hai là phá trừ pháp
chấp, sau mới chứng đặng pháp không. Ngã, pháp đều không
sanh, thế mới gọi là Bồ tát đặng Vô sanh nhẫn (an nhẫn nơi
nhơn, pháp đều không sanh)
Bài Thứ
Mười Hai: Ngài
A Nan hỏi Phật pháp tu viên thông
Mục Lục
I. Ngài A Nan hỏi
Phật pháp tu viên thông.
II. Phật hỏi hai mươi lăm vị Thánh, do tu pháp môn gì mà
được chứng quả.
III. Hai mươi lăm vị Thánh đều thuật lại pháp tu của mình
được chứng đạo quả.
IV. Ngài Quán Âm kể lại sự kết quả.
I. Ngài A Nan hỏi Phật pháp tu
viên thông
Ngài A Nan và đại chúng nhờ Phật khai thị trí tuệ sáng suốt,
tâm hết nghi lầm, nên đồng lạy Phật, quỳ gối chắp tay và
kính cẩn thưa rằng:
- Bạch Thế tôn, chúng con là kẻ phiêu linh nhiều kiếp bần
cùng cô quạnh, không biết nhờ có hạnh phúc gì mà được làm em
của Phật, cũng như đứa hài nhi mất sữa đã lâu, nay lại gặp
được từ mẫu!
Bạch Thế tôn,
hôm nay chúng con thâm tâm đã được khai ngộ, hết những nghi
ngờ, nghe Phật chỉ dạy hiểu được cái nghĩa “sáu gút mở thì
cái tên một gút cũng không còn”. Nhưng chúng con còn chưa
hiểu “tu căn nào mới được viên thông”. Cúi xin đức Như Lai,
duỗi lòng đại bi khai thị cho chúng con lần cuối cùng, may
ra ở cơ hội này, con trở lại với bản tâm thanh tịnh của
mình, được thành đạo quả.
II. Phật
hỏi hai mươi lăm vị Thánh, do tu pháp môn gì mà được chứng
quả
Khi đó đức Phật hỏi toàn thể đại chúng: - Các ông là người
tu hành trong đạo của ta, vậy khi các ông mới phát tâm, đối
với 18 giới (sáu căn, sáu trần và sáu thức) do tu theo
phương tiện nào mà được thành đạo quả?
LƯỢC GIẢI
Tuy nói 18 giới, chớ tóm lại thì có 6 căn. Do sáu căn tu
hành mà được thành đạo quả. Nên trước kia Phật nói: “Sanh tử
luân hồi hay an vui giải thoát, cũng chỉ tại sáu căn của các
ông” (vì muốn cho độc giả hiểu qua những pháp tu của 24 vị
Thánh, nên lần tái bản quyền Ðại cương Lăng nghiêm này,
chúng tôi có trích một đoạn (từ trang 166 đến 201) trong bản
kinh Lăng nghiêm do ông Tâm Minh dịch in thêm vào đây, để
giúp độc giả nghiên cứu)
***
III. Hai
mươi lăm vị Thánh đều thuật lại pháp tu của mình được chứng
đạo quả
1- DO THANH TRẦN CHỨNG A
LA HÁN
Ông Kiều Trần Như trong hàng năm vị Tỳ kheo, liền từ chỗ
ngồi đứng dạy bạch Phật rằng: - Con ở nơi Lộc Uyển và Kê
Viên, gặp đức Như Lai khi mới thành đạo; nhân nghe âm thanh
thuyết pháp của Phật mà tỏ ngộ lý Tứ đế. Phật hỏi các Tỳ
kheo, thì con trước hết được gọi là “hiểu”; Như Lai ấn chứng
cho con tên là A Nhã Ða. Con do nơi âm thanh vi diệu viên
mãn mà thành bực A La Hán. Nay Phật hỏi pháp tu viên thông,
thì như chỗ sở chứng của con, âm thanh là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Viên dung thông nhập Như lai tạng diệu chơn như tánh của các
pháp nên gọi là viên thông. Bất cứ tu pháp nào mà chứng được
chơn như của tất cả Pháp thì đều gọi pháp đó là viên thông.
Trong các đoạn trước, Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy: sanh
tử luân hồi do nơi sáu căn, mà được an vui diệu thường cũng
do nơi sáu căn; sáu căn tuy vọng, nhưng không thể ngoài sáu
căn mà tìm cái chơn được, vì rằng trong khi đang mê, chúng
ta đem sáu căn này mà thấy nghe cảm xúc; đến khi giác ngộ
chúng ta, chúng ta cũng chỉ đem sáu căn này mà tiếp xúc với
trần cảnh. Vậy mà khi mê thì các căn bị ràng buộc nên gọi là
gút (kiết); đến khi ngộ thì sáu căn được viên thoát nên gọi
là mở.
Vì sao mà thành ra cột gút, và làm sao để mở gút thì trước
Phật đã dùng phương tiện cột khăn mở khăn để chỉ dạy rõ
ràng. Ðồng một tánh Như Lai tạng mà vì nguyên do mê lầm nên
hiện ra sáu căn ràng buộc. Bởi thế nên nếu nói rằng vọng,
thì căn nào cũng vọng; mà nói rằng chơn, thì căn nào cũng
chơn. Nếu một căn được chơn thì tất cả các căn đều chơn. Lúc
bấy giờ các căn tự tại không còn bị bó buộc trong phạm vi:
mắt chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe tiếng, mũi chỉ ngưởi mùi
v.v... mà trái lại sáu căn tự tại thọ dụng. Vậy nên tu nhãn
căn, không phải là liệt, tu nhĩ căn không phải là thắng
v.v... cho đến bất luận tu một căn nào hay một món đại nào
cũng như nhau cả, không gì hơn chẳng gì kém, miễn làm sao
thấy rõ thật tánh của một pháp thì được viên ngộ viên
thoát. Ông A Nan tuy đã thâm ngộ cái ý nghĩa viên ngộ viên
tu ấy, nhưng hiện tiền chưa rõ sáu căn, căn nào thích hợp
với trình độ của mình và chúng sanh ở cõi Ta bà này, nên cầu
Phật chỉ bày. Phật liền gạn hỏi trong đại chúng, các vị Bồ
tát và các vị A La Hán đã chứng quả vô học, để xem mỗi
người, khi ban sơ phát tâm, tu theo phương tiện gì mà đặng
ngộ đạo. Một điều mà chúng ta nên chú ý là Phật gạn hỏi chỗ
ngộ đạo của các bậc Thánh hiền tăng, đây không phải để so
sánh chỗ hơn kém, mà cốt để chứng minh lời Phật đã dạy
trước, để chỉ rõ lối tu viên đốn của Ðại thừa, khác lối tu
tiêm thứ của Nhị thừa, và để cho ngài A Nan nhân đó, tự lựa
căn nào viên thông thích hợp với trình độ của mình mà tu để
được giải thoát. Không riêng ông A Nan, nếu chúng ta sau khi
nghe hiểu và biết lựa lấy một pháp thích hợp để tu hành, thì
sẽ đặng ngộ nhập viên thông tam muội.
Ông Kiều Trần Như cùng bốn thầy Tỳ kheo (5 ông này theo Phật
tu khổ hạnh và được Phật hóa độ trước nhứt) nhân âm thanh
của Phật thuyết pháp mà ngộ lý Tứ đế, chứng viên thông; nên
đối với pháp môn thích hợp làm cho ông chứng ngộ, thì thanh
trần là hơn cả. Thứ nhứt nhờ âm thanh của Phật giảng về Tứ
đế mà ngộ được lý Tứ đế (khổ, tập, diệt, đạo). Thứ hai ông
quan sát rõ thấu thật tướng của âm thanh, mà ngộ đạo. Thật
tướng của âm thanh là vô tướng, không đọa về nhân duyên, tự
nhiên, hòa hợp, phi hòa hợp như trước Phật đã chỉ dạy; nó
thường vắng lặng, cùng khắp 10 phương, theo nghiệp cảm, theo
tâm lượng của chúng sanh mà phát hiện, nên tuy khi chúng ta
không đem tâm phân biệt, mà khi ấy tiếng cũng chẳng phải
không, chẳng phải các chúng sanh khác cũng tuyệt không nghe
thấy như ta. Xưa nay chúng ta chỉ phân biệt theo giả ảnh của
thanh trần sanh diệt đối đãi với ta, nên bị thống khổ theo
khi có tiếng, hay khi không có tiếng, chứ chưa hề lắng lòng
định trí rời vọng trần để quán thật tánh của những tiếng
động tịnh là từ đâu, nên cũng chưa hề liễu nhập tánh âm
thanh vốn là tánh diệu chơn như của Như Lai tạng. Thật tướng
âm thanh đã như vậy, thì thật tướng trí do âm thanh thuyết
minh cũng vậy.
***
2- DO SẮC TRẦN CHỨNG A LA HÁN
Ông Ưu Ba Ni Sa Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dây đảnh lễ chân
Phật mà bạch rằng:
- Con gặp Phật lúc mới thành đạo, nhơn quán tướng bất tịnh,
sanh tâm rất nhàm chán xa lìa; từ tướng bất tịnh đến tướng
xương trắng, vi trần rồi tan về hư không, sắc không, không
hai, ngộ thật tánh các sắc, thành vô học đạo. Ðức Như lai ấn
chứng cho con tên Ni Sa Ðà, sắc phù trần tiêu hết, sắc diệu
tánh châu mật viên dung. Con từ sắc tướng kia mà thành bực A
La Hán. Nay Phật hỏi viên thông thì như chỗ sở chứng của
con, quán sắc làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ưu Ba Ni sa Ðà (Tàu dịch là Trần Tánh, theo chỗ ngộ mà
đặt tên), nhơn quán sắc tướng mà chứng quả. Hàng Nhị thừa
thì quán bất tịnh để sanh tâm nhàm chán diệt tham dục, cầu
chứng Niết bàn. Trái lại hàng Bồ tát quán bất tịnh để nhận
rõ nhân duyên thống khổ, chỗ đảo chấp Bất tịnh kế tịnh của
chúng sanh mà hóa độ, phá trừ tâm tham đắm sắc thân ngũ
dục.
Ông Ưu Ba Ni Sa Ðà tu theo pháp quán đó, tịnh tâm nhiếp ý,
quán sát thân phần của chúng sanh, chỉ toàn là một vật nhơ
nhớp thối tha, cả từ đầu đến chân, từ trong ra ngoài, và rõ
ràng nhứt khi thân ấy đã thành một tử thi phình trướng bầm
xanh, bại hoại, máu mủ chảy ra, gân thịt úa rửa, cầm thú rúc
ăn, xương gân ly tán, chỉ còn nắm xương khô, lần lần tiêu ra
tro bụi, biến vào hư không. Các sắc thân đã tan về hư không,
đâu có phân biệt chia rẽ sai khác; chỉ vì đem tâm phân biệt,
tương đối với sắc mà gọi là không, tương đối với không mà
gọi là sắc, vậy nên sắc, không đều không tự tánh.
***
3- DO HƯƠNG
TRẦN CHỨNG A LA HÁN
Ông Hương Nghiêm Ðồng tử liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ
chân Phật mà bạch rằng: - Con nghe đức Như Lai dạy con chín
chắn quán các tướng hữu vi. Con liền từ tạ Phật lui về nhà
thanh trai yên tịnh, trông thấy các thầy Tỳ kheo đốt hương
trầm thủy, mùi hương lặng lẽ bay vào trong mũi; con quan sát
mùi hương đó: Chẳng phải là gỗ, chẳng phải hư không, chẳng
phải khói, chẳng phải lửa, đi không chỗ tới, đến không chỗ
bắt đầu, do đó vọng ý thức con tiêu diệt, phát minh tánh vô
lậu. Ðức Như lai ấn chứng cho con hiệu là Hương Nghiêm, hơi
hương phù trần thoạt diệt, hơi hương hiệu tánh được mật
viên. Con do nơi hương trần kia mà thành bực A La Hán. Nay
Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, hương
nghiêm là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Hương Nghiêm Ðồng tử (theo chỗ ngộ mà đặt tên) nhân quan
sát cái tướng hữu vi là hương trần mà chứng được viên
thông. Thường thường chúng ta chỉ tưởng mùi hương là một thứ
sẵn có của gỗ trầm v.v... hễ có gỗ trầm là có hương; nhưng
xét kỹ thì mùi hương ấy đâu phải chỉ do gỗ trầm mà có được;
còn do không khí, do lửa đốt và do tỷ căn của ta tiếp xúc,
tỷ thức giác xúc, ý thức phân biệt nữa,nếu ngoài công năng
của hai thứ năng tri, sở tri trên ra thì không thành mùi
hương được. Vậy thật ra tánh chơn thật hương trần không phải
là năng tri sở tri, cũng không phải là ly năng tri sở tri mà
nó có ra, chỉ tùy theo nghiệp của mỗi chúng sanh mà phát
hiện.
***
4- DO VỊ TRẦN
CHỨNG BỒ TÁT
Hai vị Pháp vương tử Dược Vương và Dược Thượng cùng năm trăm
Phạm thiên trong hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
dưới chân Phật mà bạch rằng: - Con từ vô thỉ kiếp làm lương
y trong đời, miệng con từng nếm các vị cỏ, cây, vàng, đá của
thế giới Ta bà này, số đến mười vạn tám nghìn thứ; như vậy
đều biết hết thảy vị của: đắng, cay, chua, ngọt, mặn, lạt,
các vị hòa hiệp, câu xanh, biến dị, cho đến nào là lạnh, là
nóng, có độc, không độc, đều biết khắp cả. Sau con lại nhân
thừa sự đức Như Lai mà hiểu rõ vị tánh, chẳng phải không,
chẳng phải có, chẳng phải tức thân tâm, chẳng phải ly thân
tâm, phân biệt vị trần, mà đặng khai ngộ. Do đó, Phật ấn
chứng cho anh em con hiệu là Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng
Bồ tát và làm pháp vương tử ở trong hội này; chúng con nhơn
vị trần mà đặng giác ngộ, lên hàng Bồ tát. Nay Phật hỏi viên
thông, thì như chỗ sở chứng của con, quán vị trần làm nhơn
là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Vị trần là các vị cay, chua, đắng, ngọt; vị hòa hiệp như các
món ăn do nhiều thức hiệp lại; vị câu sanh như ớt sẵn cay,
bồ hòn sẵn đắng; vị biến dị là do thay đổi mà ra, như mật
ông để lâu hóa chua, rượu để lâu thì lạt...
Ngài Dược Vương, Dược thượng Bồ tát do phân biệt quán sát
bổn nhân của vị trần mà chứng đạo. Quán sát nguyên nhân của
vị, như thế nào? Nếu nói vị cho hư không thì sao nếm hư
không, không biết ngọt, đắng; nói rằng vị thiệt có, thì vị
vốn vô hình; nói rằng vị tức là thân tâm, thành ra nó có
tánh biết; còn nói vị ly thân tâm thì cái gì phân biệt mà
biết vị. Hai vị Bồ tát quan sát như vậy, ngộ nhập cái tánh
phi tức, phi ly, phi không, phi hữu của vị trần, nên vọng ý
tiêu tan, mà giác tánh được tỏ bày vậy.
***
5- DO XÚC TRẦN MÀ CHỨNG
THÁNH
Ông Bạt Ðà Bà La với mười sáu người bạn Bồ tát sơ phát tâm,
liền từ chỗ ngồi, đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà bạch rằng: -
Kiếp trước, lúc đức Phật Oai Âm Vương ra đời, chúng con nhân
đặng gặp Phật, nghe pháp mà xuất gia, trong ngày chúng Tăng
tắm gội, con theo thứ tự vào nhà tắm, thì thoạt nhiên ngộ
biết thủy trần vốn rửa bụi trần hay không rửa bụi trần, tâm
giác thường vắng lặng, không có tướng gì... do tập quán cũ
ấy nhớ mãi cho đến ngày nay, theo Phật xuất gia được thành
bậc vô học. Ðức Oai âm vương gọi tên con là Bạt Ðà Bà La,
nhân diệu xúc tỏ bày sáng suốt, thành vị Phật tử trụ. Nay
Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, quán xúc
trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Bạt Ðà Bà La
(Tàu dịch là Thiên Thủ hay Hiền Hộ) nhân quán xúc trần mà
ngộ nhập viên thông. Xúc là đụng chạm, tiếp xúc. Cảnh bị
biết của thân căn, hay nói cách khác là cảnh ứng hợp thân
cần phát sanh, nhận biết có lạnh, nóng, trơn, nhám v.v...
đều là xúc trần. Như vậy, xúc trần được phát hiện là bởi có
thân căn với sắc cảnh, thiếu một không thành, xúc trần hư
dối. Vả lại như khi đối trước một lò lửa, nếu kẻ rét thì có
cảm xúc ấm, còn kẻ ấm thì lại có cảm xúc nóng thêm. Vậy thì
chỉ tùy chúng sanh mà thành lạnh hay nóng, không có thật thể
nhất định. Ðối với nước cũng vậy, khi chúng ta dùng nước tắm
gội thân thể, nước chảy trên mình mà sinh ra cảm giác thế
này thế khác, gọi là xúc trần. Nhưng xét nghiệm kỹ thì khi
ta gọi là tắm rửa, ấy là rửa thân thể hay rửa bụi trần? Nếu
nói là rửa thân thể, thì như không bụi trần lấy gì để rửa,
nếu nói là rửa bụi trần, thì như nước chảy trên đất cũng gọi
là tắm rửa đặng sao? Thế thì nước, bụi trần, thân thể vốn
thật an nhiên, nước không phải hay rửa (năng), mà bụi trần
và thân thể không phải bị rửa (sở), cho nên xúc trần chỉ là
tướng giả dối, đối đãi theo vọng nghiệp chúng sanh không xúc
mà hiện xúc, nên xúc trần đều là như huyễn: phi hữu, phi
vô. Ngộ được như vậy mà tu hành, tức thành bực vô học.
***
6- DO PHÁP
TRẦN CHỨNG A LA HÁN
Ông Ma Ha Ca Diếp và Tỳ kheo ni Tử Kim Quang, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật và bạch rằng: - Con
nhớ kiếp trước, trong thế giới này có nhiều đức Phật ra đời
hiệu Nhựt Nguyệt Ðăng, con được thân cận nghe pháp tu học,
sau khi Phật diệt độ thì cúng dường xá lợi, đốt đèn nối ánh
sáng, lại dùng vàng tử kim sáng chói mà thếp hình tượng của
Phật. Từ đó đến nay đời đời thân con thường được đầy đặn,
ánh sáng như đồng vàng tử kim, còn Tỳ kheo ni Tử Kim Quang
này chính là quyến thuộc của con, từng đã cùng phát tâm một
lúc với con. Con xem thấy thế gian sáu trần biến hoại, nên
chỉ đem tâm không tịch tu hành, thành diệt tận định. Thân
tâm tự tại hay vượt qua trăm ngàn kiếp, dường như khảy móng
tay. Con do quán sát pháp không tịch mà thành bậc A La Hán;
đức Thế tôn cho con là người tu hạnh đầu đà bậc nhứt. Diệu
pháp mở sáng, các lậu tiêu trừ. Nay Phật hỏi viên thông, thì
như chỗ sở chứng của con, quán pháp trần làm nhơn là hơn cả.
LƯỢC GIẢI
Ông Ma Ha Ca Diếp nhân quán pháp trần mà ngộ nhập viên
thông. Pháp trần là tất cả ấn tượng của tiền trần: sắc,
thanh, hương, vị, xúc, lưu lại trong tâm ý mà làm cảnh sở
duyên cho ý thức. Tất cả cảnh giới thế gian tóm lại không
ngoài sáu trần; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ấy. Những
pháp đó luôn luôn biến chuyển hoặc âm thầm kín đáo, hoặc rõ
rệt phô bày, chứ không niệm nào yên lặng dừng nghỉ. Vừa vị
lai đã thành hiện tại, vừa hiện tại đã thành quá khứ; như
vậy hãy chỉ vào đâu mà cho là có pháp thiệt. Chỉ vào vị lai
ư? Hay chỉ vào quá khứ, hiện tại? Thiệt không thể chỉ vào
đâu được. Pháp trần đã không thiệt, pháp trần là chơn không,
thì các món thọ tưởng, hư vọng phiền não, nương pháp trần
sanh ra cũng liền tiêu diệt, phá trừ ý thức, chứng diệt tận
định. Khi ấy thân tâm tự tại, đối với không gian cũng như
đối với thời gian: không rời chỗ ngồi mà ở khắp mười phương,
vượt trăm ngàn kiếp mà dường như trong giây phút khảy móng
tay, thoát ngoài vòng chướng ngại của những sự lâu, mau, xa,
gần, hạn cuộc.
Sáu vị trên đây do tu sáu trần mà được chứng quả.
***
7- DO NHÃN CĂN
CHỨNG A LA HÁN
Ông A Na Luật Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật
và bạch rằng: - Con mới xuất gia thường ưa ngủ nghỉ, nên bị
Như Lai quở trách là loại súc sanh. Nghe lời Phật quở, con
khóc lóc tự trách, thức suốt bảy ngày không ngủ, hư cả hai
mắt. Ðức Thế tôn dạy cho con phép Tam muội nhạo kiến chiếu
minh kim cang. Con không do con mắt mà vẫn xem thấy mười
phương, tánh chơn rỗng suốt, như xem cái trái trong bàn
tay. Như lai ấn chứng cho con thành bực A La Hán. Nay Phật
hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, xoay cái thấy
trở về tánh nguyên, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông A Na Luật Ðà nhân tu về nhãn căn, xả bỏ sắc trần, xoay
cái thấy (hư vọng) trở về kiến tinh (chơn tánh) mà thành bậc
vô học.
Kiến tánh thường diệu thường minh, nương nơi con mắt mà phát
ra cái dụng thấy sắc gọi là nhãn căn; kiến tánh vốn đã diệu
minh, cho nên kiến dụng chẳng lúc nào không minh không
diệu. Chúng sanh nhiều kiếp mê lầm không tự nhận biết, trở
lại chấp rằng cái thấy chỉ do con mắt mà có sắc trần; hễ có
sắc trần thì gọi rằng có thấy; còn không sắc trần thì gọi
rằng không thấy: mở mắt là thấy, nhắm mắt là không. Ðã đem
tánh thấy viên dung cùng khắp mà khuôn khổ một nơi, nên bị
cách ngại, thấy không ngoài sống mũi, thấy không thấu đặng
hai đời. Dẫu khi nhắm mắt, khi ngủ mê không thấy đã đành, mà
khi mở mắt cũng chẳng thấy được sự thật của muôn pháp. Trong
một đoạn trước, Phật gạn hỏi ông A Nan về cái thấy là tâm
hay con mắt? Và Ngài đã bảo: Tâm thấy chớ không phải mắt
thấy. Ðây Phật chỉ cái kiến tánh này cho đến cái văn tánh,
khứu tánh, v.v... cho chúng sanh rõ. Thế nên biết rằng: Có
mắt không tâm, không thành có thấy; có tâm không mắt cũng
thấy khắp mười phương, ấy gọi là “nhạo kiến chiếu minh”.
Kiến tánh bản minh đó, xưa nay không hề lay chuyển, ấy gọi
là kim cang Tam muội.
8- DO TỶ CĂN
MÀ CHỨNG A LA HÁN
Ông Châu Lợi Bàn Ðặc Ca, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ
chân Phật và bạch rằng: - Con vì thiếu sự tụng trì, nên tánh
tình ngu độn, khi mới gặp Phật, nghe pháp xuất gia, chỉ tụng
trì một câu kệ của Như Lai, mà trong trăm ngày không thuộc,
hễ nhớ trước thì quên sau, nhớ sau thì quên trước; Phật
thương con ngu muội, dạy pháp an cư, điều hòa hơi thở ra
vào; con liền quán hơi thở đến vi tế cùng tột, thấy các hạnh
sanh, trụ, dị, diệt từng mỗi sát na, mà tâm được rỗng rang
tự tại không chút ngăn ngại; hết các món lậu thành A La Hán,
ở dưới tòa của Phật, được ấn chứng thành vô học đạo. Nay
Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, xoay hơi
thở trở về tánh không, ấy là thứ nhất.
LƯỢC GIẢI
Ông Châu Lợi Bàn Ðặc Ca (là hai anh em, Tàu dịch là Ðại Lộ
Biên và Tiểu Lộ Biên. Ðây là chi ông em) nhân tu tỷ căn mà
chứng nhập viên thông.
Kiếp xưa, ông là một vị Ðại pháp sư vì tâm bỏn xẻn Phật
pháp, không muốn nói cho ai nghe, nên bị quả báo ngu mê
thiếu tánh nghe nhiều, hiểu rộng. Nhân đó Phật mới dạy
phương pháp nhiếp tâm là điều hòa hơi thở ra vào, đếm từ một
đến trăm, từ trăm lui một; sau khi tâm định tĩnh, xét cùng
tột đến tướng vi tế của hơi thở, thảy đều sanh, trụ, dị,
diệt từng mỗi sát na. Tâm chỉ chú vào hơi thở, ngoài hơi thở
không riêng có sự vật gì, cũng không có tướng hơi thở nữa,
bởi vì hơi thở đã từng sát na chuyển biến, hơi thở không có
thật tánh; vậy do tánh yên lặng, quán cảnh thanh tịnh, mà
được rỗng rang sáng suốt.
***
9- DO THIỆT
CĂN CHỨNG A LA HÁN
Ông Kiều Phạm Bác Ðề, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân
Phật mà bạch rằng: - Con bị khẫu nghiệp nặng nề; trong kiếp
quá khứ đã chê bai vị Sa Môn, nên đời đời mắc bệnh, miệng
thường nhơi như trâu. Ðức Như Lai dạy cho pháp môn Nhứt vị
thanh tịnh tâm địa; con nhân đó mà tâm được tịch diệt vào
tam ma địa, quán sát cái tánh biết vị không phải thân, cũng
không phải vật; liền trong miệng ấy, vượt bỏ các lậu thế
gian, bề trong giải thoát thân tâm, bề ngoài không dính mắc
thế giới, xa lìa ba cõi như chim ra khỏi lồng, tiêu hết các
món trần cấu, nên đặng con mắt pháp thanh tịnh, thành A La
Hán. Ðức Như Lai ấn chứng cho con thành vô học đạo. Nay Phật
hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con, xoay về quán
sát tánh biết vị ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Kiều Phạm Bác Ðề (Tàu dịch là Ngưu từ) nhân tu thiệt căn
mà chứng nhập viên thông. Trong một kiếp quá khứ, ông từng
buông lời chê bai vị lão Tăng, nên nhiều đời mắc lấy cái tật
miệng thường nhơi suông như trâu.
Phật thuyết pháp lúc nào cũng tùy căn cơ, tùy tập quán của
chúng sanh cả; nên Ngài đã tùy tập quán của ông, mà dạy cho
pháp môn nhứt vị thanh tịnh tâm địa; nghĩa là quán cái tánh
biết vị khắp hiện nơi thiệt căn, vốn thường thanh tịnh không
phải đối đãi giả dối, không thay đổi theo mặn, đắng, ngọt,
cay, nên gọi là nhứt vị. Ðã vậy, thì cái tánh chẳng phải
trần nên chẳng phải vô tri, mà chẳng phải căn nên không giả
dối; vì vậy, các món dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu, trong
thế gian không thể ô nhiễm buộc ràng; tuy ở trong ba cõi, mà
vốn xa lìa ba cõi, như chim ra khỏi lồng, thông dung tự tại,
thấy biết rộng xa. Ấy gọi là Pháp nhãn thanh tịnh thành A La
Hán, không còn thọ sanh trong vòng luân hồi sanh tử.
***
10- DO THÂN
CĂN CHỨNG A LA HÁN
Ông Tất Lăng Già Bà Ta liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy
chân Phật và bạch rằng: - Lúc con mới xuất gia theo Phật
nhập đạo, thường nghe đức Như Lai dạy những điều thống khổ
trong thế gian; con đi khất thực trong thành, để tâm tư niệm
pháp môn đó, bất giác giữa đường đạp nhằm gai độc, chân bị
thương, sự đau nhức khắp cùng thân thể. Con liền nghĩ
rằng: có tánh biết mới biết sự đau nhức đó. Tánh biết ấy
chính là giác tâm thanh tịnh, tuy biết cái “biết đau” mà nó
không phải bị đau. Con lại suy nghĩ: Nếu như vậy thì một
thân lẽ nào lại có hai tánh biết? Con nhiếp niệm chưa bao
lâu, thân tâm bỗng nhiên không tịnh; trong hai mươi mốt ngày
thì các lậu tập tiêu hết, thành quả A La Hán, được Phật ấn
ký, chứng bậc vô học. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ
sở chứng của con, là xả bỏ thân chấp, thuần một giác tánh,
ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Tất Lăng già Bà Ta (Tàu dịch là Dư Tập) nhân tu thân căn
mà ngộ nhập viên thông. Giác tâm thanh tịnh vốn thường bất
biến, hàm dung không có năng sở, không có trong ngoài, không
bị khổ vui làm lay động; chúng sinh nhơn mê, khởi ra vọng
tưởng phân biệt, chấp có ngoại cảnh, có nội thân, cuộc tánh
biết nơi thân căn làm nơi y chỉ, mà lãnh nạp các cảnh thuận
nghịch giữa thế gian. Vì vậy nên không tránh khỏi các món
khổ. Ông Tất Lăng Già Bà Ta nghe theo lời Phật, quán khổ đế
giữa thế gian trong khi đi khất thực, bất giác chân đạp nhằm
gai độc, đau buốt toàn thân, mà càng chứng rõ khổ đế một
cách thống thiết. Nhân đau nhức mà phát suy nghĩ: tự mình
biết mình đang đau; vậy đã có cái đau lại có cái biết đau;
đau là cái biết hư vọng nơi thân căn, tùy nhân duyên ngoại
cảnh mà phát hiện có năng có sở; chữ “biết đau” chính là chỉ
giác tâm thanh tịnh, ra ngoài có không, dù đau hay không đau
cũng không thể làm tăng giảm. Ngặt vì trong lúc tâm ngã pháp
chưa tiêu, nên tướng năng sở vẫn còn hiện tiền, cần phải
nhiếp niệm vậy, sau mới không cả thân tâm, đoạn trừ năng sở,
không thấy có cái tướng đau, không thấy cái tướng bị đau,
chỉ thuần một giác tâm thanh tịnh. Lúc ấy, chẳng những giác
tức là giác mà mê cũng tức là giác; tánh giác hoàn toàn viên
mãn không còn bị điều chi ô nhiễm.
11- DO Ý CĂN MÀ CHỨNG A LA HÁN
Ông Tu Bồ Ðề liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đầu lạy chân Phật và
bạch rằng: - Nhiều kiếp lại đây, tâm con rỗng rang không
ngại, nhớ lại kiếp thọ sanh nhiều như số cát sông Hằng, lúc
còn ở trong thai liền biết muôn pháp không tịch, như thế cho
đến thấy cả mười phương toàn không, và giáo hóa khiến cho
chúng sanh chứng đặng không tánh. Nhờ đức Như Lai phát minh
tánh chơn không của bản giác tánh “không” viên mãn sáng
suốt, chứng A La Hán, liền vào biển giác không tịch sáng
suốt tôn quý của Như Lai, đồng tánh tri kiến với Phật, nên
được ấn chứng thành bực vô học. Con do tánh không mà giải
thoát, không ai sánh bằng. Nay Phật hỏi viên thông thì như
chỗ sở chứng của con, là đem các tướng quy vào phi tướng, mà
năng phi sở phi cũng diệt, xoay tánh biết nơi ý căn về không
vô, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Tu Bồ Ðề (Tàu dịch là Không Sanh) nhân tiêu trừ ý căn mà
chứng nhập Viên thông. Ý căn là tánh hay hiểu biết tất cả
pháp trần, hễ có pháp trần thì có ý căn, mà ý căn tiêu trừ
thì pháp trần không tịch. Pháp pháp đều không tịch cả, dù
sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn tất cả đều không; ở
trong thân tâm chánh báo không, ở ngoài thế giới y báo cũng
không, nên tâm đặng tự tại không bị năm uẩn ngăn che, không
bị cái hôn mê cách ấm, khi ở trong thai cũng như ra khỏi
thai, chỉ là tùy tưởng thọ sanh mà vẫn không bị sắc thân
chướng cách. Tuy vậy, mặc dù ngộ được không lý, nhưng chưa
ngộ tánh chân như của Như Lai tạng là tức nơi không mà tùy
duyên hiện hữu, tức nơi diệu hữu mà vốn không, cái không ấy
mới thiệt là cái tánh chân không của đệ nhất nghĩa, của nhất
chân pháp giới; vậy nên nhất thời đốn ngộ tánh chân không,
ấy tức đồng một tánh thấy biết cùng khắp như chư Phật, không
có sai khác.
Năm vị trên đây do tu năm căn mà chứng đạo quả.
***
12- DO NHÃN
THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
Ông Xá Lợi Phất liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật
và bạch rằng: -Con nhiều kiếp lại đây, tâm thấy rất tanh
tịnh, như vậy trong nhiều đời thọ sanh như số cát sông Hằng,
mà đối với các pháp biến hóa của thế gian, xuất thế gian, hễ
một phen thấy liền thông suốt không bị ngăn ngại. Một hôm,
nhân ở giữa đường con gặp đặng hai anh em ông Ca Diếp Ba
cùng đi với nhau, tuyên nói kệ nhân duyên mà ngộ biết tự tâm
vốn không ngằn mé. Con theo Phật đi xuất gia, tánh thấy biết
viên mãn sáng suốt, được sức vô úy thành A La Hán làm trưởng
tử của Phật, từ miệng Phật mà có, do pháp Phật mà hóa
sanh. Nay Phật hỏi viên thông, thì như chỗ sở chứng của con
là do tâm thấy pháp sáng, sáng cùng tột các pháp sở tri, sở
kiến, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Xá Lợi Phất (Tàu dịch là Thu Tử) do tu nhãn thức mà
chứng nhập Viên thông. Do nhãn thức thanh tịnh nên tất cả
pháp tướng của thế gian đều thấy thông suốt cả; nhận thấy
thông suốt các pháp biến hóa ấy nên đến khi nghe thấy bài kệ
nhân duyên, liền ngộ đặng thật tướng trung đạo, ngộ Tạng tâm
cùng khắp pháp giới, không phải lớn nhỏ, không có ngằn mé
trong ngoài. Bài kệ nhân duyên theo Ðại thừa nghĩa là:
“Các pháp nhân
duyên sanh
Tôi nói nó là
không
Gọi nó là giả
danh
Cũng gọi nghĩa
trung đạo”
(Nhân duyên sở sanh pháp, ngã thuyết tức thị không, diệc
danh thị giả danh, diệc danh trung đạo nghĩa). Các pháp do
nhân duyên hòa hiệp sanh, không có thật tánh tức là không;
tuy không nhưng đã tùy vọng nghiệp cơ cảm của chúng sanh,
chẳng phải không có giả tướng phát hiện; ngoài giả không thể
có không, ngoài không không thể có giả, không và giả không
hai, ấy tức là thật tướng trung đạo của các pháp. Ðã ngộ lý
trung đạo tức là ngộ được Tạng tâm tùy duyên bất biến, bất
biến tùy duyên, không phải giả, không phải không, nhưng
không chỗ nào không có, không pháp nào không do Tạng tâm,
tùy duyên biến hiện, mà thấy biết cùng tận tất cả pháp,
không chút ngăn che sợ hãi.
***
13- DO NHĨ THỨC MÀ CHỨNG BỒ
TÁT
Ông Phổ Hiền Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân
Phật và bạch rằng:
- Con đã từng
làm vị Pháp vương tử với hằng sa đức Như Lai. Mười phương
các đức Như Lai mỗi khi dạy hàng đệ tử có căn cơ Bồ tát, tu
hạnh Phổ Hiền, thảy đều lấy tên con mà đặt tên. Bạch Thế
tôn! Con dùng tâm mà nghe và phân biệt mọi niệm lự, tri kiến
của chúng sanh; nếu ở phương nào khác, ngoài hằng sa cõi
nước, có một chúng sanh phát tâm tu niệm hạnh Phổ Hiền, thì
trong khi ấy, con liền cỡi voi trắng sáu ngà, phân hóa trăm
ngàn thân đến khắp các nơi ấy; dầu cho chúng sanh đó nghiệp
chướng sâu dày không thể thấy con, thì con nhân trong khi
tối tăm lấy tay rờ đầu, gia hộ an ủi khiến đặng thành công
đức. Nay Phật hỏi viên thông, như bổn nhân chứng ngộ của
con, là phát minh tánh nghe, phân biệt tự tại, ấy là thứ
nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Phổ Hiền Bồ tát (hạnh độ sanh cùng pháp giới là Phổ, gần
địa vị cực thánh là Hiền) nhân tu nhĩ thức mà chứng nhập
viên thông. Phổ Hiền có ba vị khác nhau:
1.Vị Tiền Phổ Hiền tức là hai vị Tư lương và Gia hạnh.
2.Ðương vị Phổ Hiền tức Sơ địa cho đến Ðẳng giác, Diệu giác.
3.Vị hậu Phổ Hiền, tức là khi chứng Phật quả rồi, nhưng
không quyến luyến cái vui nơi cảnh Niết bàn, chỉ vì nguyện
đại bi luôn luôn trở lại độ sanh tế vật, như Ngài Văn Thù,
Quán Âm, Phổ Hiền v.v... Vậy biết Ngài Phổ Hiền là vị Ðại Bồ
tát đã thành Phật mà trở lại độ sanh. Chính trong nhân địa,
Ngài đã phát 10 lời đại nguyện: Từ “lễ kỉnh chư Phật” cho
đến “Phổ giai hồi hướng”. Ngài đã phát minh tánh nghe chơn
thật của bản tâm thanh tịnh, không còn tùy tùng theo cái
nghe hư vọng của nhĩ căn và nhĩ thức, nên không bị điều chi
cách ngại; nên hễ có mỗi một chúng sanh nào cách xa hằng sa
thế giới mà phát tâm tu hạnh Phổ Hiền, thì Ngài liền quán
biết rõ ràng, phân vô số thân, cỡi voi trắng sáu ngà (biểu 6
độ của Bồ tát) đến tận nơi mà tìm cách an ủi, khuyên lơn,
tán thán, gia hộ khiến chúng sanh ấy mau thành tựu như
Ngài. Các vị muốn tu Bồ tát thừa sau khi thấy rõ chơn tâm,
phát minh căn bản trí, đều phải khởi sai biệt trí, tùy nghi
phương tiện mà giáo hóa độ sanh mới thành tựu viên mãn Phật
quả; nếu thiếu hạnh Phổ Hiền tế độ quần sanh thì hạnh giác
tha bị thiếu, nên Phật dạy các Bồ tát tu hạnh lợi tha đều
nên tu theo hạnh đức Phổ Hiền và cũng lấy tên ấy mà làm tên
của mình.
***
14- DO TỶ THỨC MÀ CHỨNG A LA
HÁN
Ông Tôn Ðà La Nan Ðà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân
Phật và bạch rằng: - Con lúc đầu xuất gia theo Phật nhập
đạo, tuy đối với giới luật (giới) giữ gìn đầy đủ, mà đối với
pháp Tam ma địa (định) thì tâm thường loạn động, nên chưa
thành vô lậu. Ðức Thế Tôn dạy con cùng ông Câu Thi La quán
tướng trắng trên chót sống mũi. Lúc đầu quán kỹ, trải qua 21
ngày thấy hơi trong mũi ra vào như khói, thân tâm thế giới
trong ngoài rỗng suốt, khắp đều trong sạch như ngọc Lưu
ly. Rồi dần dần tướng khói tiêu tan mà hơi thở lại biến
thành sắc trắng, tâm đặng khai ngộ; các lậu tiêu trừ, hơi
thở ra vào hóa thành ánh quang minh, soi cùng mười phương
thế giới, chứng quả A La Hán. Ðức Thế Tôn thọ ký cho con,
tương lai chứng đặng Bồ đề. Nay Phật hỏi viên thông, con do
tiêu trừ hơi thở; hơi thở tiêu nên tâm phát sáng, sáng càng
viên mãn, các lậu dứt trừ, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Tôn Ðà La Nan Ðà nhân tu về tỷ thức mà ngộ nhập Viên
thông; trên đường tu hành chơn chánh đến kết quả vô thượng
Bồ đề là phải đủ ba điều kiện cần yếu: giới luật, thiền định
và trí tuệ. Giới để ngăn ngừa tội lỗi, Ðịnh để đón dẹp vọng
tưởng tán loạn, Huệ để phá vô minh thấu rõ thật lý. Bởi vậy
mặc dầu giữ gìn giới luật hoàn toàn mà tâm thiếu thiền quán,
bị tán loạn, thì bao nhiêu hoặc lậu vô minh vẫn còn tương
tục ngăn che thánh quả vô lậu. Thiền quán cốt tại buộc tâm
vào một chỗ hay một pháp môn để quán sát. Như Phật dạy ông
Tôn Ðà La Nan Ðà, Câu Thi La chuyên tâm quán tướng trắng đầu
chót sống mũi; hễ quán tâm lần sâu xa, thì cảnh sở quán lần
thanh tịnh, nên thấy hơi thở có khi như hơi khói, có khi
thành trắng, đến khi hóa ra ánh sáng, đều do quán tâm sâu
cạn mà ra cả. Cảnh sở quán đã sáng suốt, tâm năng quán cũng
viên minh, thì thân tâm thế giới mười phương, thảy đều trong
suốt như chất lưu ly, không nhơ bợn, không ngăn cách, ấy là
dứt nhân sanh tử, được Phật thọ ký chứng quả Bồ đề.
***
15- DO THIỆT
THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
Ông Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ chân Phật và bạch rằng:
- Con từ nhiều
kiếp lại đây, biện tài vô ngại, tuyên nói các pháp khổ,
không đạt cùng thật tướng; như vậy cho đến tất cả pháp môn
bí mật của hằng sa Như Lai, con đều đem giải bày rất rõ
ràng, vi diệu ra giữa đại chúng không chút sợ sệt. Ðức Thế
Tôn biết con có tài hùng biện, nên dùng âm thanh tuyên nói
pháp luân dạy con đem ra truyền bá. Con ở trước Phật dùng
tiếng thuyết pháp như sư tử rống, để giúp Phật chuyển pháp
luân, đặng thành A La Hán. Ðức Thế Tôn ấn chứng con là người
thuyết pháp không ai bằng. Nay Phật hỏi viên thông, con do
pháp âm, hàng phục lũ ma oán, tiêu diệt các lậu, ấy là thứ
nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử, nhân tu thiệt thức mà ngộ
nhập viên thông. Thiệt thức có công năng biết vị và thuyết
pháp. Phật vì muốn cứu chúng sanh khỏi vòng điên đảo, chấp
mọi sự vật là thường, là lạc, là ngã, là tịnh, nên truyền
dạy Pháp vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Nhân đó mà hàng
Nhị thừa giải thoát phần đoạn sanh tử, chứng Vô dư y Niết
bàn và đem giáo hóa dẫn đạo chúng sanh. Thật ra trong khi
Phật dạy lý vô thường, khổ, Vô ngã, bất tịnh, là mật ý cốt
chỉ cho chúng sanh đương nơi bốn điều ấy nhận thấu thật
tướng, bình đẳng thường, lạc, ngã, tịnh, của tất cả các
pháp. Vì thật tướng ấy mới là pháp môn bí mật của hằng sa
đức Như Lai, là chỗ muốn chỉ cho âm thanh luân của Phật
tuyên nói; nếu ngọ đặng pháp môn ấy như ông Phú Lâu Na, thì
biện luận thuyết pháp không ai sánh bằng, mặc dù nói pháp
khổ, không mà không ly thật tướng; tuy không ly thật tướng
mà tự tại tuyên nói khổ không, để điều nhiếp chúng sanh,
hàng phục ma ngoại.
***
16- DO THÂN
THỨC MÀ CHỨNG A LA HÁN
Ông Ưu Ba Ly liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật mà
bạch rằng:
- Con thân hành theo Phật, thấy Ngài vượt thành xuất gia,
chính con quán thấy đức Như Lai, 6 năm tu khổ hạnh, hàng
phục loài ma, uốn dẹp ngoại đạo, giải thoát các tham dục thế
gian; lại được thừa lãnh giáo giới của Phật chế; như thế cho
đến 3.000 oai nghi, 84.000 hạnh vi tế, nào tánh nghiệp, nào
giá nghiệp, con đều gìn giữ thanh tịnh, thân tâm vắng lặng,
thành bậc A La Hán. Con là giềng mối trong chúng đệ tử của
Như Lai. Phật ấn chứng tâm con, giữ giới tu thân, chúng suy
tôn là bậc thượng thủ. Nay Phật hỏi viên thông thì con trước
do chấp giữ thân, thân đặng tự tại; sau lại do chấp giữ tâm,
tâm đặng thông suốt. Vậy sau tất cả thân tâm thảy đều thông
lợi, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Ưu Ba Ly nhân tu thân thức mà ngộ nhập Viên thông. Ông
là một người hầu cận của Phật trong khi Ngài còn làm Thái
tử, nên thấy rõ hành động của Phật khi xuất gia, khi tu khổ
hạnh cho đến khi thuyết phục tà ma, thành đạo quả và thiết
chế giới luật, lại là vị đệ tử trì luật thứ nhứt, lãnh thọ
giới luật, thanh tịnh tu trì. Nào những điều thể tánh vốn ác
như sát, đạo, dâm, vọng, gọi là tánh nghiệp; những điều thể
tánh tuy không ác nhưng vì hay mở đường tội lỗi như rượu
v.v... mà Phật chế ngăn gọi là giá nghiệp, cho đến 3.000 oai
nghi (250 giới đều có 4 cử động là đi, đứng, ngồi, nằm, 250
x 4 = 1.000; 1.000 đối với 3 tụ giới thành ra 3.000).
84.000 tế hạnh (3.000 oai nghi đem phối với bảy chi: sát,
đạo, dâm, lưỡng thiệt, vọng ngôn, ác khẩu, ỷ ngữ, thành
21.000; lại phối với 4 phần phiền não là đa tham, đa sân, đa
si, tham si đồng phần, thành ra 84.000) thảy đều giữ gìn,
không giới nào khuyết phạm, thân thường ở trong giới, toàn
thân tức là giới, khi giới đã đặng thanh tịnh, thì thân ấy
là thân tịch diệt, mà tâm ấy là tâm chơn thường diệu giác,
mặc dù ở trong thế gian uế ác mà không bao giờ ô nhiễm như
diệu liên hoa vậy.
***
17- DO Ý THỨC MÀ CHỨNG A LA
HÁN
Ông Ðại Mục Kiền Liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
chân Phật và bạch rằng:
- Lúc trước con đi khất thực, giữa đường gặp ba anh em ông
Ca Diếp Ba, là Ông Ưu Lầu Tần Loa, ông Già Da và ông Na Đề
tuyên nói nghĩa nhân duyên sâu xa của Như Lai; con liền phát
tâm, thấu suốt rộng lớn, đức Như Lai cho con mặc y ca sa,
râu tóc con tự rụng hết. Con dạo đi cùng mười phương, không
bị ngăn ngại, phát minh thần thông, được chúng suy tôn con
là hơn hết và thành A La Hán. Ðâu chỉ một mình Thế Tôn, mà
mười phương Như Lai củng đều khen thần lực con, tròn sáng
thanh tịnh, tự tại không e sợ. Nay Phật hỏi viên thông, con
xoay ý thức về tánh viên trạm, tam quang mở bày, ví như lắng
dòng nước đục, lâu ngày thành trong suốt, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Ðại Mục Kiền Liên nhân tu ý thức mà ngộ nhập viên
thông. Sau khi nghe ba anh em ông Ca Diếp Ba nói lý nhân
duyên của Phật, liền ngộ đặng nhân duyên thâm nghĩa, không
phải như nghĩa thông thường, nói các pháp có ra là do nghiều
cái họp lại; hơn nữa các pháp nhơn duyên sanh tức không
thiệt có, tức là như huyễn, tức là trung đạo thật tướng;
chính nơi các pháp đối đãi sanh diệt, mà nhận ra thật tướng,
tuyệt đối không sanh diệt. Vậy nên dầu gần dầu xa, dầu lớn
dầu nhỏ, không còn chút gì ngăn ngại, xứng ý thật tướng,
phát hiện thần thông để độ chúng sanh và phụng thờ chư Phật.
Vì được như vậy nên ông Mục Kiền Liên mới được gọi là thần
thông bực nhứt.
Sáu vị trên đây là do tu sáu thức mà được viên thông.
18- DO LỬA MÀ
CHỨNG A LA HÁN
Ông Ô Sô Sắc Ma ở trước Như Lai chắp tay cúi đầu đảnh lễ
chân Phật và bạch rằng: - Con thường nhớ lại nhiều kiếp xa
xôi về trước, tánh nhiều tham dục. Có đức Phật ra đời hiệu
là Không Vương. Ngài dạy: người nhiều dâm tánh là thành đống
lửa hãi hùng, lại dạy con quán khắp 100 hài 4 vóc, các khí
lạnh, nóng và tinh thần bề trong mà được ngưng tịnh, hóa tâm
đa dâm thành ra lửa trí huệ. Từ đó chư Phật đều gọi con là
Hỏa đầu. Con do sức hỏa quang tam muội mà thành A La Hán,
tâm phát nguyện lớn: “Hễ chư Phật thành đạo thì con làm
người lực sĩ hầu cận, uốn dẹp lũ ma oán”. Nay Phật hỏi viên
thông, con do quán sát cái xúc nóng nơi thân tâm, rỗng suốt
không ngại, các lậu tiêu trừ, phát sanh lửa trí huệ lớn báu,
lên bậc vô thượng giác, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Ô Sô Sắc Ma nhân tu về Hỏa đại mà ngộ nhập viên
thông. Chỉ vì còn vọng tưởng nên còn tánh tham dâm; do tánh
tham dâm mới kết thành lửa nghiệp hẩy hừng đốt cháy thân
tâm, lu mờ ánh sáng trí huệ. Nhưng vọng tưởng chỉ là tâm,
tham dâm chỉ là tâm, mà trí huệ cũng chỉ là tâm; nếu tâm
vọng tưởng tham dâm ngừng tiêu, thì lửa trí huệ phát
hiện. Ông Ô Sô Sắc Ma vốn người nhiều dâm dục; sau khi nghe
đức Phật Không Vương dạy cho biết người đa dâm biến thành
đống lửa dữ, mới chuyên tâm quán sát toàn thân tứ đại vốn
không chủ tể; 100 hài và 4 vóc, khi lạnh khi nóng v.v... đều
thuộc về tứ đại; tâm đa dâm vốn không tự tánh, tất cả đều do
vọng tưởng mà ra; bởi tạng tâm tùy duyên biến hiện, ngộ được
tất cả vô tánh, tức thành định lực hỏa quang tam muội đốt
cháy hết thảy thế gian và oán ma sanh tử.
***
19- DO ÐẤT MÀ
ÐƯỢC CHỨNG BỒ TÁT
Ông Trì Ðịa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân
Phật và bạch rằng: - Con nhớ kiếp xưa thuở đức Phổ Quang Như
Lai hiện thân ra đời. Con làm thầy Tỳ kheo thường đi đến các
nẻo đường, bến đò, ruộng đất hiểm trở, hoặc không được bằng
phẳng, phòng hai xe ngựa, thi con đắp ngay ngắn, hoặc làm
cầu cống, hoặc gánh cát, đất, siêng năng khổ nhọc như vậy,
trải qua vô lượng đức Phật ra đời. Hoặc có chúng sanh ở chỗ
chợ búa, cần người chuyển vật, con vì họ trước hơn ai cả,
chuyển đi đến nơi tận chỗ để đổ vật xuống, liền đi ngay, chứ
không nhận lấy tiền thuê. Trong khoảng đức Phật Tỳ Xá Phù ra
đời, ở thế gian, phần nhiều bị đói thiếu, con làm người
chuyên chở không kể gần xa, chỉ lấy thuê một tiền; nếu có xe
trâu mắc phải bùn lầy thì con đem sức lực vì chúng đẩy xe,
cứu vớt sự khổ não. Vị quốc vương thuở ấy, mời Phật thiết
trai cúng dường; bấy giờ con sửa sang đất đai bằng phẳng chờ
Phật đi qua. Ðức Tỳ Xá Như Lai khi đi ngang qua, xoa đầu con
và bảo: “Hãy bình tâm địa thì thế giới đại địa tất cả đều
bình”. Tâm con liền đặng mở mang, thấy rõ vi trần tạo thành
ra thế giới, bình đẳng không khác; tự tánh của vi trần không
chạm lẫn nhau, cho đến đao binh cũng chẳng hề đụng chạm;
trong các pháp tự tánh, ngộ được vô sanh nhẫn, thành bực A
La Hán. Xoay tâm tiểu thừa này vào trong vị Bồ tát, nghe các
Như Lai nói chỗ tri kiến Phật như Diệu Liên Hoa; con đặng
chứng tỏ lần đầu tiên mà làm vị thượng thủ. Nay Phật hỏi
viên thông, con do chỗ đế quán hai thứ vi trần của căn thân
và thế giới bình đẳng như nhau, vốn từ Như Lai tạng hư vọng
phát sinh trần cấu, trần cấu tiêu rồi thí trí viên mãn,
thành Bồ tát, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ngài Trì Ðịa Bồ Tát nhân nơi địa đại mà chứng ngộ viên
thông. Phàm những vị phát tâm hướng cầu Bồ đề mà tu Bồ tát
hạnh, thường xem việc lợi tha làm trọng, lợi kỷ làm khinh,
lắm khi vì xả kỷ để mà lợi nhân cũng không tiếc. Nhưng
phương tiện thực hành Bồ tát hạnh sai khác nhau, có vị dùng
lời nói dịu dàng thuyết pháp để lợi ích chúng sanh, có vị
đem tiền tài của cải bố thí để lợi ích chúng sanh v..v...
còn như ngài Trì Ðịa thì thường đem thân lực mạnh khỏe mà
giúp ích nhiếp hóa chúng sanh; từ kiếp đức Phật Phổ Quang
xuất thế, mãi về sau vô lượng kiếp Ngài thường đi qua các
nẻo đường, bến đò, và bất cứ nơi nào hiểm trở lầy lội,
phương ngại người đi, ngài đều ra công tự gánh đất cát sửa
sang bằng phẳng, xây dựng cầu cống hoặc gánh gồng mang chở
vật nặng giúp người về tận nơi chỗ mà không lấy tiền thuê,
cho đến đẩy dùm xe trâu bùn lầy tự đi không nổi v.v... Sau
nhân gặp đức Tỳ Xá Như Lai dạy một câu rằng: “Nên bình tâm
địa thì đại địa thế giới tất cả đều bình”. Tâm liền khai
ngộ, Ngài chứng quả vô sanh. Câu ấy nghĩa là tất cả đại địa
vi trần từ trong thân đến ngoài thế giới đều giả dối, không
có tự tánh, chỉ do nhất tâm biến hiện. Chúng sanh vì mê
không ngộ cảnh sở hiện ấy toàn là duy tâm, vốn không trong
ngoài, năng sở cao thấp, nên mới thấy tướng bất bình; nếu
gạt bỏ hết các vọng tưởng đảo điên, mà bình được tâm địa nơi
mình thì đại địa ở ngoài thế giới tự nhiên bằng phẳng, xem
thấy các vi trần hiệp thành nơi thân, vi trần hiệp thành
ngoại giới vốn đồng một tâm, tâm đồng một tánh, bình đẳng
như như, không ngăn ngại nhau thì dù dao cắt vào thân thể
như rạch vào hư không; vi trần không diệt cũng như băng tiêu
tức thành nước, chỉ băng diệt chứ không bị mất. Pháp tánh
vốn tự viên dung, chẳng có gì thêm, bớt, sanh, diệt. Nếu ngộ
pháp tánh ấy tức là nhập chỗ tri kiến của Phật.
***
20- DO NƯỚC MÀ ÐƯỢC CHỨNG BỒ
TÁT
Ông Nguyệt Quang Ðồng tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ
dưới chân Phật và bạch rằng:
- Con nhớ hằng hà sa số kiếp về trước, có đức Phật ra đời
hiệu là Thủy Thiên, dạy các vị Bồ tát tu phép quán nước,
chứng nhập chánh định. Quán nước ở trong thân, tánh nó không
cướp đoạt nhau. Ðầu tiên quán từ nước miếng, rồi đến mồ hôi,
tinh huyết, đại tiện, tiểu tiện xoay vần trong thân mà vẫn
đồng một tánh nước. Quán thấy nước ở trong thân cùng nước
biển hương thủy nơi cõi phù tràng vương ngoài thế giới bình
đẳng không sai khác. Lúc con mới thành pháp quán nước, thì
chỉ trong thấy nước mà chưa được không thân (nghĩa còn chấp
có thân này). Ðang lúc còn làm Tỳ kheo yên lặng tu thiền ở
trong nhà, thì có người đệ tử từ nơi cửa sổ ngó vào, chỉ
thấy nước trong khắp đầy cả nhà, không thấy gì khác, nó trẻ
dại không biết, liền lấy một viên ngói quăng vào trong nước
quấy nước lên tiếng, ngó quanh quẩn rồi bỏ đi; sau khi con
xuất định, liền cảm nghe đau bụng, giống như ông Xá Lợi Phất
gặp phải nạn quỷ vi hại. Con tự suy nghĩ: Nay ta đã được quả
A La Hán, khỏi bịnh duyên lâu ngày, vì sao nay bỗng phát
sinh đau bụng, chừng bị thối thất chăng! Bấy giờ đứa nhỏ
thẳng đến trước con, nói lại việc như trên; con liền
bảo: “Hễ ngươi trông thấy nước lại, thì nên liền mở cửa vào
lượm viên ngói quăng đi”. Ðứa nhỏ vâng lời, lúc sau con nhập
định, nó trở lại thấy nước và viên ngói rõ ràng, liền mở cửa
lượm ra. Ðến khi con xuất định, thần thể lại y như cũ. Gặp
vô lượng Phật, như vậy đến đời đức Sơn Hải Tự Tại Thông
Vương Như Lai, con được vong thân, thân cùng nước biển hương
thủy khắp mười phương hiệp một tánh chơn không, không hai
không khác. Ngày nay đối trước Như Lai được danh hiệu Ðồng
Chơn, dự hội Bồ tát. Nay Phật hỏi viên thông con do thủy
tánh, một vị lưu thông, chứng được phép vô sanh nhẫn, viên
mãn đạo Bồ đề, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Nguyệt Quang đồng tử nhân quán thủy đại mà ngộ nhập viên
thông. Thủy đại là chỉ tất cả nước trong biển cả, nước lưu
hành trong thân v.v... thủy thấy in tuồng có trong có ngoài,
mà vốn dung thông. Quán thủy đại dung thông cùng khắp thế
giới, không chỗ nào không phải nước, toàn một tướng nước mà
thôi, thì tâm phân biệt tiêu diệt, chân trí vô phân biệt
hiện ra. Nhưng đây ông Nguyệt Quang lúc đầu vì chưa chứng
được chơn tự tánh; tánh thủy tức là chơn không, tánh thân
tức là chơn không, tất cả đều chơn, tất cả đều không; nên
ông thấy còn có thân, còn đem thân nhập định, dụng tâm quán
nước, chứ chưa phải tâm tức là định, định tức là tâm, tâm
tức là nước, nước tức là tâm. Vậy nên khi nhập định quán
nước, có tướng nước hiện tiền, đứa đồng tử thấy nước quăng
ngói vào trong, đến khi xuất định tướng nước không còn, lại
nghe tâm đau; về sau gặp đời đức Sơn Hải Tự Tại Thông Vương
xuất thế mới được vong thân; thân đã vong, pháp cũng diệt,
thì cùng mười phương đồng một tánh thủy chơn không, không
hai không khác, chẳng nhập định xuất định, mà tự nhiên chứng
được vô sanh pháp nhẫn.
***
21- DO GIÓ MÀ
CHỨNG THÁNH QUẢ
Ông Lưu Ly Quang Pháp vương tử, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ chân Phật và bạch rằng:
- Con còn nhớ trải qua hằng hà sa số kiếp trước, có đức Phật
ra đời hiệu Vô Lượng Thanh, khai thị tánh Bổn giác diệu minh
cho các hàng Bồ tát, quán thế giới này và các thân chúng
sanh, đều bởi sức gió nhân duyên hư vọng chuyển biến ra. Lúc
bấy giờ con quán cõi nước đứng yên, quán thời gian qua lại,
quán thân phần đi đứng, quán tâm niệm động lay, tất cả các
thứ động không hai, như nhau không sai khác.
Con hiểu biết rằng tánh của các món động ấy, đến thì không
có chỗ ban đầu, đi không nơi cùng tột; chúng sanh điên đảo
số như vi trần trong mười phương, đều đồng một tánh hư vọng
cả. Như vậy cho đến những loại chúng sanh ở trong một Tam
thiên đại thiên thế giới, chẳng khác nào trong một cái đồ
chứa hàng trăm mòng muỗi vo vo loạn lạc, ở trong phân tấc
nổi sanh cuồng náo, gặp Phật chưa bao lâu mà chứng vô sanh
nhẫn; bây giờ tâm địa mở mang, trông thấy phương đông cõi
Phật bất động, làm con đấng Pháp vương (Phật), kính thờ mười
phương Phật, thân tâm phát sáng, rỗng suốt không ngăn
ngại. Nay Phật hỏi viên thông, con do quán sát phong lực giả
dối không chỗ nương, ngộ tâm Bồ đề chứng nhập tam ma địa,
hiệp với mười phương Phật, toàn một diệu giác tâm, ấy là thứ
nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ông Lưu Ly Quang pháp vương tử do phong đại mà ngộ nhập viên
thông. Tánh bổn giác diệu minh thường không diêu động, nhân
xem thấy sự chuyển lay gọi là phong đại hay phong lực. Ông
Lưu ly Quang thường quán tất cả thân tâm thế giới đều nhơn
phong lực chuyển biến, nào sự thành lập phương cõi, sự qua
lại của thời gian; sự động chỉ nơi thân, sự động niệm nơi
tâm, thảy đều không tự tánh, đều do sức gió hư vọng phát
sanh, không thật có đến có đi, hay có sanh diệt; chúng sanh
không nhận biết, chỉ do một tánh hư vọng như thế, nên cuộc
chấp nơi thân phần bé nhỏ, thân lại ràng buộc vào thế giới;
rồi tự chịu lấy sự sanh tử luân hồi rất là đảo điên oan
uổng; không khác nào trăm ngàn con mòng muỗi vô tri ở trong
đồ hẹp bé gang tấc, tự kêu la inh ỏi, diêu động lăng xăng,
mà thật ra gió hư vọng không chỗ nương, chỉ nương Bồ đề bổn
giác. Như sóng nổi từ nước, hễ gió hư vọng tiêu, tức Bồ đề
hiển lộ thông suốt không ngại. Mười phương chư Phật đều lấy
cái đó làm tâm; hết thảy chúng sanh cũng lấy đó làm tâm, chỉ
một diệu tâm vô nhị ấy; nhưng mà chứng nhập được là phải
diệt hết mê lầm.
***
22- DO HƯ
KHÔNG MÀ CHỨNG BỒ TÁT
Ông Hư Không Tạng Bồ tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ
chân Phật và bạch rằng:
- Con với đức Như Lai cùng ở thời đức Phật Ðịnh Quang (Phật
Nhiên Ðăng) chứng được vô biên thân, lúc ấy tay cẩm 4 viên
bảo châu lớn, chiếu sáng mười phương cõi Phật số như vi
trần, đều hóa thành hư không. Lại nơi tự tâm hiện ra cái
gương tròn lớn, từ gương phóng ra mười ánh sáng vi diệu quý
báu; trong ánh sáng lưu xuất mười phương các cõi nước khắp
hư không, rồi trở lại vào trong gương và lần vào thân con.
Thân đồng như hư không, chẳng còn sợ ngăn ngại, nên có thể
khéo léo hiện thân vào các quốc độ số như vi trần, rộng làm
Phật sự, được công đức tùy thuận rộng lớn.
Ðạt thần lực như thế ấy là con chín chắn quán sát tứ đại
không chỗ nương, sanh diệt theo vọng tưởng; hư không không
hai và cõi Phật vốn đồng, phát minh tới chỗ đồng, chứng đặng
vô sanh nhẫn. Nay Phật hỏi viên thông, con do quán sát hư
không không ngằn, ngộ nhập Tam ma địa, diệu lực viên mãn
sáng suốt, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ngài Hư Không Tạng Bồ tát nhân tu không đại mà chứng nhập
viên thông. Quán sát 4 món đại là giả dối, như huyễn đều do
vọng tưởng của chúng sanh phát hiện; mà vọng tưởng không có
thiệt tánh, y nơi nhứt tâm; khi đã ngộ lý duy tâm triệt để
thì cả 4 đại sắc không, bổn lai bình đẳng như hư không. Như
bài kệ nói:
Hư không chẳng phải cao, thấp cũng không thể có; các pháp
cũng như vậy, tánh vốn không cao thấp. Bồ tát Hư Không Tạng,
đặng kho tàng hư không. Ðầy đủ cho hữu tình, thức ấy không
cùng tận.
Ðem thức tâm hư không vô tận ấy mà ấn nhập tất cả pháp, thì
pháp nào cũng vô tận, toàn tâm là sắc, vậy nên tất cả pháp
đều duy tâm sở hiện, duy tâm không có trong ngoài.
Trong bài này, ngọc châu là tiêu biểu sắc pháp, gương sáng
là tiêu biểu tâm pháp. Toàn sắc là tâm không phân chia chủ
bạn, nên hay soi chiếu mười phương vi trần cõi Phật hóa
thành hư không. Toàn tâm là sắc, không phải xa rời nơi bổn
tế. Nên hay phóng quang hiện phương cõi, đều vào trong
gương, trong thân không chút nào ngăn ngại; chính nơi thân
mà hiện độ, nơi độ mà hiện thân, để hoằng pháp độ sanh, tiếp
nối Phật chủng mà không bao giờ trái với tánh bình đẳng
thanh tịnh của pháp thân, nên gọi là đức tùy thuận rộng lớn.
***
23- DO THỨC ÐẠI MÀ CHỨNG THÁNH
QUẢ
Ngài Di Lặc Bồ tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân
Phật và bạch rằng:
- Con nhớ trải qua vi trần số kiếp về trước, có đức Phật ra
đời là Nhựt Nguyệt Ðăng Minh. Từ đức Phật ấy, con được xuất
gia, nhưng tâm con còn nặng nề thế danh, ưa giao du với các
giòng quyền quý. Lúc ấy đức Thế Tôn dạy con tu tập pháp định
duy tâm thức mà ngộ nhập Tam ma địa. Nhiều kiếp lại đây, do
sức Tam muội ấy, con kính thờ hằng hà sa số Phật và tâm ham
chuộng thế danh kia nay đã hết. Ðến kiếp đức Phật Nhiên Ðăng
ra đời, con mới được chứng pháp vô thượng diệu viên thức tâm
tam muội, thấy khắp hư không, các cõi nước dù uế, tịnh, có,
không, thảy đều do tâm thức con biến hóa hiện ra. Bạch Thế
Tôn! Bởi con liễu chứng duy tâm thức tánh như vậy, từ thức
tánh xuất hiện vô lượng Như Lai, nên nay đặng Phật thọ ký sẽ
bổ xứ làm Phật. Nay Phật hỏi viên thông, con do chín chắn
quán sát mười phương đều là duy thức, thức tâm viên mãn sáng
suốt, chứng nhập tánh viên thành thật, xa lìa tánh y tha và
biến kế chấp, ngộ vô sanh nhẫn, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Ðức Di Lặc Bồ tát nhân tu duy thức mà ngộ viên thông.
Ngộ tất cả vạn Pháp đều do nơi thức biến hiện thì cảnh nào
cũng là tánh cảnh, cũng là tánh viên thành thật. Không ngộ
tất cả vạn pháp do nơi thức biến hiện, in tuồng sanh mà
không thật sanh, in tuồng diệt mà không thật diệt; nếu chấp
thiệt có sanh diệt, thành pháp y tha. Các pháp do y tha
(nhân duyên) sanh khởi mà không nhận là y tha, lại so đo sai
lầm, chấp có ngã, ngã sở, cho nên thường bị danh tướng thế
gian ràng buộc. Tâm còn ham chuộng thế danh, vì còn cho thế
gian là thiệt. Trái lại, sau khi ngài Di Lặc tu tập phép duy
tâm, duy thức, quán sát tất cả danh là giả, tất cả tưởng là
giả, không vì duyên gì còn làm sanh trưởng tâm ham mê danh
vị được nữa. Lần lần chứng được vô thượng diệu viên thức tâm
tam muội (chơn duy thức tánh) chẳng những không thấy thiệt
có tướng vạn pháp, cũng không còn thấy thiệt có tướng duy
thức; vì mười phương Như Lai, quốc độ sắc không v.v... đều
không món nào ra ngoài thức tánh ấy mà tự có. Các pháp đã là
thức tánh, thì pháp pháp đều là tự tánh viên mãn, thành tựu
chân thật, nơi tánh viên thành, sanh vốn vô sanh. Cho nên xa
lìa y tha như huyễn, nơi tánh viên thành không thiệt có ngã
và ngã sở, xa lìa biến kế sai lầm, chứng pháp vô sanh nhẫn.
***
24- DO KIẾN ÐẠI MÀ CHỨNG THÁNH
QUẢ
Ngài Ðại Thế Chí pháp vương tử cùng các Bồ tát đồng hàng là
năm mươi hai vị, liền từ chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật và bạch
rằng:
- Con nhớ hằng sa số kiếp trước, có đức Phật ra đời hiệu Vô
Lượng Quang. Nội trong một kiếp ấy, mười hai đấng Như Lai kế
nhau ra đòi. Vị Phật sau hết hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt
Quang. Ngài dạy con tu phép Niệm Phật Tam muội. Ví như có
hai người, một đàng chuyên nhớ, một đàng chuyên quên, thì
hai người ấy hoặc gặp nhau cũng như chẳng gặp, dù thấy nhau
cũng như không thấy; nếu cả hai người nhớ nhau, hai mối nhớ
càng ăn sâu thì dù đời này cho đến trải qua đời khác, cũng
luôn luôn như bóng với hình, không bao giờ trái xa.
Mười phương các đức Như Lai thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ
con, nếu con trốn tránh, tuy mẹ nhớ cũng chẳng có ích gì;
nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không xa
cách nhau. Nếu chúng sanh đem tâm nhớ Phật, niệm Phật thì
hiện tại hay tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không
xa, chẳng cần tu hành phương tiện nào khác mà tự nhiên tâm
được khai ngộ. Cũng như người ướp hương mà thân có hương như
thế gọi là dùng hương quan để trang nghiêm vậy. Chỗ bổn nhơn
tu hành của con là do tâm niệm Phật mà ngộ vô sanh nhẫn,
nguyện ở cõi này để nhiếp hóa mọi người niệm Phật vãng sanh
Tịnh độ. Nay Phật hỏi viên thông, con vốn không lựa chọn,
chuyên thâu nhiếp cả sáu căn, khiến cho Tịnh niệm nối luôn,
được vào Tam ma địa, ấy là thứ nhứt.
LƯỢC GIẢI
Kiến đại cũng tức là căn đại; trước thức đại thuộc về thức,
đây kiến đại thuộc về căn. Ngài Ðại Thế Chí Pháp vương tử,
nhơn tu kiến đại mà ngộ nhập viên thông.
Không như các viên thông trước, chỉ lựa chọn từng căn để hạ
thủ công phu, mà trái lại ở đây, ngài Ðại Thế Chí nhân pháp
niệm Phật Tam muội nhiếp phục cả 6 căn, quy cả 6 căn đều
thâu về nơi nhứt niệm niệm Phật, không để tán loạn dong ruổi
theo ngoại duyên. Tịnh niệm thường nối luôn, không xen một
niệm gì khác, thì quyết nhiên chứng đặng niệm Phật tam muội,
thường thương xót tưởng niệm chúng sanh, như nhớ con dại;
nếu chúng sanh chuyên tâm nhớ Phật, niệm Phật như con biết
nhớ mẹ, như mẹ nhớ con, thì hiện tiền hoặc tương lai, quyết
định gặp Phật, thấy Phật, vì nhân nào quả nấy mảy mún không
sai. Trái lại, Phật tuy nhớ chúng sanh, mà chúng sanh cứ
trốn tránh không biết nhớ Phật; cũng như hai người, một bên
chuyên nhớ, còn một bên chuyên quên, thì gặp cũng như không
gặp, thấy cũng như không thấy, chẳng ích gì.
Vả chăng, tâm mê ngộ của chúng sanh cũng như mẹ và con
vậy. Tâm ngộ như mẹ, tâm mê như con, ngộ luôn luôn có trong
mê, ví như mẹ thương nhớ con, mà mê thì không biết tự nhận,
niệm niệm chuyển dời trái tánh giác, hiệp trần lao, ví như
con trốn tránh không nhớ nghĩ đến mẹ, bởi vậy mà uổng chịu
luân hồi sanh tử! Nếu biết phản quán, đem tâm niệm Phật giác
ngộ nơi tự tâm, thì mỗi phút, mê hóa thành giác, năng sở đều
chứng nhập tánh pháp giới bình đẳng, không ly đương độ mà
nhiếp hóa những chúng sanh niệm Phật đồng vãng sanh Tịnh độ.
Bảy vị trên đây do tu bảy đại mà chứng đạo quả.
***
25- DO NHĨ CĂN
MÀ ÐƯỢC NGỘ ÐẠO
Khi đó, đức Quán Thế Âm Bồ tát đứng dậy cung kính lạy Phật
và thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn, con nhớ từ hằng hà sa số kiếp về trước, có
Phật ra đời, tên là Quán Âm. Con đối với trước Phật Quán Âm
phát tâm Bồ đề. Ngài dạy con từ nơi nghe rồi nhớ và tu mà
được vào chánh định (văn, tư, tu là điều cần yếu của người
tu hành).
Khi mới nghe tiếng, không chạy theo thinh trần, xoay cái
nghe trở vào chơn tánh (nhập lưu vong sở). Vì chỗ vào (chơn
tánh) đã yên lặng, nên độ và tịnh hai món trần cảnh không
sanh.
LƯỢC GIẢI
Ðại ý đoạn này nói: Khi cái nghe đối với tiếng, không khởi
vọng niệm phân biệt theo tiếng, do xoay cái nghe trở lại tự
tánh, nên tâm yên, cảnh tịch. Ðây mới giai đoạn thứ nhứt.
***
Như thế lần lần tăng tấn đến cái nghe (năng) và cảnh bị nghe
(sở) cũng hết (đoạn trên nói thinh trần yên tịnh, song còn
cái nghe; đoạn này nói “cái nghe” và “trần bị nghe” đều
hết).
Cũng không an trụ ở chỗ hết nghe. Cái biết hết và cái bị
biết củng không còn (đoạn trên nói “cái nghe với cái bị nghe
hết”, nhưng còn chấp ở nơi “cái hết”. Ðoạn này nói cũng
không chấp ở nơi chỗ hết. Song sợ e còn “cái biết hết”, nên
nói tiếp: cái biết và cái bị biết cũng không).
“Cái biết” và “cái bị biết” cả hai đều không, đến chỗ cùng
tột viên mãn. Song hãy còn cái “không”, phải tiến lên một
từng nữa là cái “không” với cái “bị không” cả hai đều diệt
hết. Khi các cái sanh và diệt đã diệt hết, thì cái chơn tâm
tịch diệt hiện tiền.
***
LƯỢC GIẢI
Cách tu hành của Ngài Quán Thế Âm Bồ tát là:
1. Bắt đầu từ khi cái nghe đối với thinh trần, không khởi
phân biệt theo thinh trần, nên thinh trần tự vắng lặng; song
còn cái “nghe”.
2. Ðến giai đoạn thứ hai cái nghe (năng, sở) cũng hết, song
còn cái “hết”.
3. Ðến từng thứ ba không chấp ở nơi hết, song còn cái “biết
hết”.
4. Ðến từng thứ tư là “cái biết” đó cũng không, song còn cái
“không”.
5. Lên đến từng thứ năm là cái “không” đó cũng không
còn. Lúc bấy giờ các cái vọng niệm phân biệt chấp trước đều
hết, thì chơn tâm thanh tịnh tự hiện bày; cũng như các cặn
đục đã hết, thì tánh nước trong tự hiện. Mười phương các đức
Phật hay các vị đại Bồ tát tu hành, chỉ có một con đường duy
nhứt là trừ hết “vọng” thì “chơn” hiện bày, như lau gương
sạch bụi, thì ánh sáng tự hiện, thế gọi là thành Phật, hay
là chứng đại Niết bàn.
***
IV. Ngài
Quán Âm kể lại sự kết quả
(Ðoạn trên là Ngài ngộ được chơn tâm, từ đây về sau là chơn
tâm khởi ra diệu dụng)
- Bạch Thế Tôn, do con tu như vậy, nên vượt ra khỏi thế
gian, và xuất thế gian. Vì đã được chơn tâm thanh tịnh sáng
suốt viên mãn khắp cả mười phương cùng với chư Phật và chúng
sanh đồng một thể tánh ấy, nên con được hai điều thù thắng:
a. Hiệp với đức “từ độ sanh” của chư Phật.
b. Hiệp vời lòng “bi ngưỡng mộ” của tất cả chúng sanh. Và
được các món diệu dụng như sau:
A. HIỆN RA 32 ỨNG
THÂN ÐỂ HÓA ÐỘ TẤT CẢ CHÚNG SANH
- Bạch Thế Tôn, con nhờ chứng được chỗ đồng thể đó, nên cùng
với chư Phật hiệp đức từ, hiện ra 32 ứng thân để tùy thuận
theo các chúng sanh mà hóa độ.
1. Hiện
thân Phật
2. Hiện
thân Ðộc giác
3. Hiện
thân Duyên giác
4. Hiện
thân Thinh văn
5. Hiện
thân Phạm vương
6. Hiện
thân Ðế thích
7. Hiện
thân Trời tự tại
8. Hiện
thân Trời đại tự tại
9. Hiện
thân Ðại tướng quân
10.Hiện thân Tứ
thiên vươong
11. Hiện thân
Thái tử
12. Hiện thân
vua
13. Hiện thân
trưởng giả
14. Hiện thân cư
sĩ
15. Hiện thân tể
quan
16. Hiện thân Bà
la môn
17. Hiện thân Tỳ
kheo
18. Hiện thân Tỳ
kheo ni
19. Hiện thân Ưu
bà tắc
20. Hiện thân Ưu
bà di
21. Hiện thân bà
Chúa
22. Hiện thân
đồng nam
23. Hiện thân
đồng nữ
24. Hiện thân
Trời
25. Hiện thân
Rồng
26. Hiện thân
Dược xoa
27. Hiện thân
Càn thát bà
28. Hiện thân A
tu la
29. Hiện thân
Khẩn na la
30. Hiện thân Ma
hầu la đà
31. Hiện thân
người
32. Hiện thân
các chúng sanh
B. ÐƯỢC 14 MÓN
KHÔNG SỢ
- Bạch Thế Tôn, con nhờ tu pháp này, chứng được chỗ đồng thể
với chúng sanh, nên cùng với chúng sanh đồng một lòng bi
ngưỡng mộ. Vì thế nên con khiến cho các chúng sanh đặng 14
món không sợ.
1. Chúng sanh
khổ não quán tiếng tăm được giải thoát
2. Vào lửa
không cháy
3. Vào nước
không chìm
4. Quỷ không
hại được
5. Dao chặt
không đứt
6. Quỷ không
thể thấy được
7. Không ai
trói cột được
8. Không ai
trộm cướp được
9. Lìa tâm dâm
dục
10. Lìa nóng giận
11. Lìa si mê
12. Cầu nam đặng nam
13. Cầu nữ đặng nữ
14. Niệm danh hiệu
Quán Thế Âm công đức bằng niệm danh hiệu của hằng sa Bồ tát
C. ÐƯỢC 4 MÓN
KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN
- Bạch Thế Tôn, con nhờ tu pháp môn này mà đặng bốn món thần
diệu không thể nghĩ bàn:
1. Hiện nhiều
đầu, nhiều tay và nhiều mắt
2. Hiện hình
nói thần chú
3. Chúng sanh
hy sinh tài sản cầu con thương xót
4. Chúng sanh
cầu chi được nấy
- Bạch Thế Tôn, do đó mà đức Phật Quán Âm thọ ký cho con tên
là Quán Thế Âm.
Bài Thứ
Mười Ba:
Phật
bảo Ngài Văn Thù lựa pháp tu viên thông
Mục Lục
I. Phật bảo Ngài Văn
Thù lựa pháp tu viên thông
II. Ngài Văn Thù vâng lời Phật lựa phương pháp tu
III. Chúng sanh ở thế giới ta bà này nhờ có nghe pháp mới
biết đường lối tu hành
IV. Công năng của nhĩ căn (tai nghe)
V. Ngài Văn Thù quở trách ông A Nan học nhiều mà không tu
VI. Các vị nghe pháp được chứng ngộ
VII. A Nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp để độ chúng
sanh đời sau
VIII. Phật dạy phải tu giới, định, huệ
IX. Ðây nói về đại thừa tâm giới có bốn: dâm, sát,
đạo, vọng
I. Phật bảo Ngài Văn Thù lựa pháp
tu viên thông
Khi ấy Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi:
-Ông đã nghe các vị đại Bồ tát và A La Hán vừa trình bày các
phương pháp tu hành được thành đạo quả. Thật ra 25 pháp tu
này, đối với các vị thánh, thì tu pháp nào cũng đều được
chứng quả cả, không có pháp nào hơn và kém. Song nay ta muốn
cho A Nan và chúng sanh đời sau, nếu muốn vào đại thừa Bồ
tát thì đối với 25 pháp tu này, ông nên lựa pháp nào tu hành
để mau thành đạo vô thượng Bồ đề.
II. Ngài Văn Thù
vâng lời Phật lựa phương pháp tu
Ngài Văn Thù Sư Lợi vâng lời Phật dạy, đứng dậy lạy Phật,
kính cẩn nói bài kệ, khen chơn tâm nhiệm mầu sáng suốt, chỉ
rõ cái “vọng” vốn không và lựa chọn pháp tu viên thông.
NGUYÊN VĂN CHỮ
HÁN
Giác hải tánh
trừng viên
Viên trừng giác
nguyên diệu
Nguyên minh
chiếu sanh sở
Sở lập chiếu
tánh vong
Mê vọng hữu hư
không
Y không lập thế
giới
Tưởng trừng
thành quốc độ
Trí giác nãi
chúng sanh
Không sanh đại
giác trung
Như hải nhứt âu
phát
Hữu lậu vi trần
quốc
Giai y không sở
sanh
Âu diệt không
bổn vô
Huống phục chư
tam hữu
Quy nguyên tánh
vô nhị
Phương tiện hữu
đa môn
Thánh tánh vô
bát thông
Thuận nghịch
giai phương tiện
Sơ tâm nhập tam
muội
Trì tốc bất đồng
luân...
DỊCH NGHĨA
-Chơn tâm thanh tịnh viên mãn lại nhiệm mầu, như biển đứng
lặng và rộng sâu. Vì vọng động chiếu soi (phân biệt) nên
sanh ra có cảnh bị chiếu (bị phân biệt). Khi năng, sở đã
vọng sanh, thì cái “tánh chơn” lại ẩn (chiếu tánh vong).
LƯỢC GIẢI
Như biển đứng lặng lóng trong, vì xao động nên thành sóng,
lúc bấy giờ tánh trong lặng của nước bị ẩn đi v.v...
***
Từ mê muội vọng động cho nên có hư không, nhơn hư
không mà có thế giới. Những vọng tưởng si mê lóng lại thành
ra thế giới, còn cái phân biệt hiểu biết thì làm chúng sanh.
Hư
không sanh ở trong chơn tâm rộng lớn này, cũng như chùm bọt
nổi trên mặt biển. Thế giới nhiều như vi trần đều y hư không
mà sanh; khi bọt tan cũng như hư không diệt, thì hằng sa thế
giới đều tiêu hết.
Trở về chơn tâm thì đồng một, nhưng trên đường tu có nhiều
phương tiện. Ðối với bực Thánh, tu pháp nào cũng đều là
phương tiện cả. Còn đối với kẻ sơ tâm tu hành lại có khó và
dễ, bởi căn cơ không đồng. Hôm nay con xét 25 pháp tu của
các vị Thánh vừa trình bày, thì duy có pháp tu nhĩ căn (tai
nghe) của ngài Quán Âm mới là viên thông.
III. Chúng sanh ở
thế giới ta bà này nhờ có nghe pháp mới biết đường lối tu
hành
Bạch Thế Tôn,
Phật ra đời ở thế giới Ta bà này, dùng âm thanh nói pháp để
giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh nhờ có nghe tiếng của Phật
nói pháp mới biết đường lối tu hành được thanh tịnh. Hôm nay
muốn đặng chánh định, quyết phải nhờ có nghe rồi mới tu
được.
IV. Công năng của
nhĩ căn (tai nghe)
- Bạch Thế Tôn, như lời Ngài Quán Thế Âm nói: “Ngài ở chỗ
thanh vắng, mười phương đồng đánh trống, nhứt thời đồng được
nghe”; nên duy có nhĩ căn (tai nghe) mới được viên
thông. Mắt xem còn bị cách ngại; miệng, mũi, thân và ý cũng
không bằng, chỉ có nhĩ căn là hơn hết. Mặc dầu bị cách vách,
hay tiếng ở xa gần, tai đều nghe được cả, nên nhĩ căn mới
thật là viên thông.
Âm thanh khi có, khi không, còn cái nghe lúc nào cũng
có. Khi không có tiếng, thế gian nói rằng: “không nghe”;
thật ra chẳng phải “cái nghe” không có. Không tiếng, cái
nghe không diệt; có tiếng, cái nghe cũng không sanh. Bởi cái
nghe không có sanh và diệt, nên nó mới thật là thường.
Dầu cho ở trong chiêm bao, tâm không có suy nghĩ phân biệt,
mà “cái nghe” ấy cũng không mất (vì khi chiêm bao vẫn còn
nghe tiếng chày giã gạo). Cái nghe, nó thoát ngoài tâm niệm
suy nghĩ phân biệt, nên thân và tâm (thức thứ sáu) đều không
bằng (không bằng tiếng nghe).
V. Ngài Văn Thù quở trách ông A
Nan học nhiều mà không tu
- Nay chúng sanh ở thế giới Ta bà này, nhờ có nghe nói chỉ
dạy, nên mới hiểu biết tu hành. Song chúng sanh vì mê cái
“tánh nghe thường còn” của mình, cứ chạy theo tiếng nói phân
biệt, cho nên mới bị lưu chuyển.
A Nan, ông tuy học rộng nhớ nhiều, nhưng vì chạy theo vọng
trần phân biệt, nên không khỏi đọa lạc theo tà. Nếu ông xoay
cái nghe trở vào tự tánh, thì sẽ đặng hết vọng.
A Nan,
ông nên chú ý nghe: Tôi vâng oai thần của Phật, nói pháp môn
tu hành này. Ông đem cái nghe của ông, nghe tất cả pháp môn
thâm mật của chư Phật, nhiều như vi trần, nếu các phiền não
dục lậu không trừ, thì cái nghe càng thêm lầm lỗi. Ông biết
đem cái nghe của ông, nghe các pháp môn của chư Phật, sao
ông không đem cái nghe đó, trở lại nghe “tánh nghe” (chơn
tánh) của mình.
A Nan, cái “nghe” nó không phải tự nhiên sanh, do có tiếng
(thinh trần) nên mới gọi rằng “nghe”. Nếu xoay cái nghe trở
vào tự tánh, không chạy theo tiếng, thế là thoát ly được cái
tiếng (thinh trần) lúc bấy giờ cái nghe này cũng không còn
gọi tên là nghe nữa (vì không còn đối đãi, nên chẳng tên kêu
gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản vọng trở về chơn rồi,
thì cả sáu căn cũng đều được giải thoát.
A Nan, các trí giác: thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều
là hư huyễn, như con mắt bị nhặm. Còn ba cõi sum la vạn
tượng đây, cũng không thật, đều như hoa đốm giữa hư
không. Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay trở lại chơn rồi,
thì cũng như con mắt kia hết nhặm. Khi cái vọng trần tiêu
hết, thì tâm ông được thanh tịnh.
LƯỢC GIẢI
Vì vọng động cho nên mới có thấy, nghe, hay, biết là năng
phân biệt. Bởi có năng phân biệt, nên mới có cảnh bị phân
biệt là ba cõi muôn vật. Ðến khi năng phân biệt hết, thì
cảnh bị phân biệt cũng tiêu, lúc bấy giờ chơn tánh hiện
bày. Cũng như vì mắt nhặm nên mới thấy hoa đốm, đến khi nhặm
hết thì hoa đốm không còn, và chỉ còn con mắt trong sáng.
***
Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thí cái trí quang sáng
suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch tịnh lại vừa
chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới,
lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian
này, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế
rồi thì nàng Ma đăng già ở trong mộng kia làm gì bắt ông
được!
A Nan dụ như các nhà huyễn thuật, làm các thứ hình, tuy có
thấy cử động, nhưng cốt yếu là tại cái máy rút. Nếu máy kia
thôi rút, thì các hình huyễn kia yên lặng, đều không có tự
tánh.
Sáu căn của ông cũng thế, gốc từ nơi tâm, vì vô minh vọng
động thành ra sáu căn, nếu một căn được phản vọng về chơn
rồi, thì sáu dụng kia (sáu giác quan) đều không thành. Nếu
trần cấu còn thì ông vẫn còn ở địa vị hữu học (còn phải
tu). Khi trần cấu hết, thì tâm tánh ông được hoàn toàn sáng
suốt, đó là Phật.
A Nan, ông chỉ xoay cái nghe của mình trở về chơn tánh,
không chạy theo phân biệt vọng trần bên ngoài, thì ông liền
thành đạo vô thượng, đây thật là pháp tu viên thông.
Các đức Phật nhiều như số vi trần cũng đều do một con đường
này mà đến cửa Niết bàn. Hiện tại các vị Bồ tát và những
người tu hành đời sau, đều y pháp môn này mà thành
đạo. Chính tôi cũng nhờ pháp môn này mà được chứng quả, đâu
phải một mình Ngài Quán Thế Âm tu mà thôi.
Nay Phật dạy cho con lựa pháp môn tu hành, để cho người đời
sau tu hành mau thành đạo quả, thì duy có pháp tu của Ngài
Quán Thế Âm là hơn hết. Còn bao nhiêu các pháp tu hành khác,
đều nhờ oai thần của Phật gia hộ mới được thành tựu. Các
pháp ấy đều từ nơi sự tướng mà dẹp trừ trần lao, nên không
phải là một phương pháp trường kỳ tu tập.
Kính lạy đức Như Lai, xin Ngài gia hộ cho chúng sanh đời
sau, đối với pháp môn này không còn mê lầm. Bạch Thế Tôn,
phương pháp này rất là dễ tu, mau được thành đạo quả, có thể
đem dạy A Nan và chúng sanh đời sau, y theo đây tu hành thì
hơn các phương pháp khác. Ðây là do lòng thành của con lựa
chọn như thế.
VI. Các vị nghe
pháp được chứng ngộ
A Nan và đại chúng nghe ngài Văn Thù nói bài kệ rồi thì tâm
tánh đều được khai ngộ, đối với quả Phật Bồ đề và đại Niết
bàn hiểu rất rành rõ, cũng như người đi xa quê hương, đã
biết rõ con đường về nhà, nhưng chưa có dịp trở về. Trong
đại hội có vô số Thiên, Long, Bát bộ, các hàng Nhị thừa hữu
học và các vị Bồ tát mới phát tâm, đều được xa lìa trần cấu,
ngộ được chơn tâm. Bà Tánh Tỳ kheo ni nghe bài kệ này rồi,
đặng thánh A La Hán và vô lượng chúng sanh đều phát Bồ đề
tâm.
_______________________
LƯU Ý:
Từ trước đến đây
là nói về phần y ngộ đốn tu
Từ đây về sau là nói
phần tiệm tu
VII. A Nan cầu Phật chỉ dạy
phương pháp để độ chúng sanh đời sau
A Nan cúi đầu lạy Phật kính cẩn thưa rằng: -Bạch Thế Tôn,
con nay đã hiểu pháp môn tu
hành để thành
Phật rồi; trên đường tu hành con không lầm lạc nữa. Nhưng
con thường nghe Phật dạy:
“Người chưa được ngộ mà muốn độ người, đó là tâm Bồ tát. Còn
người đã được giác ngộ hoàn toàn, rồi giác ngộ cho người, đó
là việc làm của Như Lai”. Nay con chưa được độ, mà phát tâm
muốn độ tất cả chúng sanh đời sau.
Bạch Thế Tôn, tất cả chúng sanh đời sau cách Phật càng xa,
lại gặp chúng tà sư ngoại đạo nói pháp nhiều như cát
bụi. Vậy nếu có chúng sanh phát tâm tu hành, thì làm sao để
tránh xa các ma chướng, đối với con đường Bồ đề, tâm không
thối lui?
VIII. Phật dạy
phải tu giới, định, huệ
Phật khen A Nan và dạy rằng: -Ông hỏi phương pháp tu hành để
độ chúng sanh trầm luân đời sau, vậy ông nên chú ý nghe, ta
sẽ vì ông chỉ dạy.
- Này A Nan, ông đã thường nghe ta dạy, người tu hành quyết
định phải đủ ba điều cần yếu:
1- Dùng giới luật nhiếp phục tự tâm
2- Nhơn giữ giới, tâm mới sanh định
3- Nhơn định, tâm phát huệ
Ðây gọi là ba món tu vô lậu.
(Vì tu ba phép này, thì không còn sa đọa)
LƯỢC GIẢI
Ngài An Pháp sư nói: “Giới, định, huệ là cái cửa của người
và đạo, cũng là cái ải trọng yếu để vào thành Niết bàn”.
Ngài La Thập Pháp sư nói: “Trì giới mới hay chiết phục được
phiền não làm cho phiền não yếu thế. Thiền định như bốn cái
núi để ngăn giòng nước phiền não. Trí huệ diệt được hết
phiền não”.
Trong kinh Niết bàn nói: “Có phiền não thì không trí huệ, có
trí huệ thì không phiền não”.
***
IX. Ðây nói
về đại thừa tâm giới có bốn: dâm, sát, đạo, vọng
A. Trước đoạn lòng dâm: -A Nan, tại sao dùng giới
luật để nhiếp phục tự tâm?
- Này A Nan, nếu các chúng sanh trong tâm không còn nghĩ đến
việc dâm dục nữa, thì sẽ ra khỏi sanh tử luân hồi.
Ông tu hành quyết cầu ra khỏi trần lao, nếu tâm dâm dục
không trừ, thì cảnh trần lao không bao giờ ra khỏi. Dầu cho
ông hiện tiền đặng nhiều trí huệ và thiền định, cũng sẽ đọa
vào ma đạo. Thượng phẩm làm ma chúa, trung phẩm làm ma dân,
hạ phẩm làm ma nữ. Các loài ma kia cũng đều có đồ đệ và tự
xưng đã thành đạo vô thượng Bồ đề.
Sau khi
ta nhập diệt rồi, vào đời mạt pháp, chúng ma này rất thạnh
hành trong thế gian, ưa làm việc tham dục, xưng là thiện tri
thức của chúng sanh, khiến cho chúng sanh đọa vào hầm tà
kiến, mất con đường Bồ đề.
A Nan, ông tu thiền định, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng
như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trải bao nhiêu
kiếp cũng không thể thành cơm được.
Ông đem
tâm dâm dục để cầu quả Phật, dầu cho ông có được diệu ngộ đi
nữa, cũng không ra khỏi tam giới, vì gốc của nó là dâm thì
làm sao ra khỏi sanh tử luân hồi được; huốn chi quả Niết bàn
của Phật, ông làm sao chứng được.
Nên quyết định phải đoạn trừ dâm cơ: trong tâm ngoài thân
đều đoạn, cho đến cái biết đoạn cũng không còn, được như thế
thì đối với quả Phật Bồ đề, ông mới có hy vọng!
Vậy ông nên dạy người tu hành, điều thứ nhứt là quyết định
phải đoạn trừ lòng dâm, đây là lời chỉ dạy sáng suốt trong
sạch của ta và của các đức Phật quá khứ. Như lời ta dạy đây
mới gọi là Phật nói, trái lại là Thiên Ma Ba tuần nói.
LƯỢC GIẢI
Ðây là Ðại thừa giới, cao siêu và khó hơn Tiểu thừa giới
nhiều. Nếu tâm còn nghĩ tưởng đến dâm, sát, đạo và vọng, thế
là phạm giới rồi.
Tổ Ðơn Hà dạy: “Nếu người chưa tỏ ngộ được chơn tâm thanh
tịnh của mình, thì hột giống dâm còn ẩn núp”. Nói cho dễ
hiểu, nếu còn vô minh, thì chơn tâm sáng suốt chẳng hiện,
thế là giới thể chưa thanh tịnh.
Phật tử đọc đến đoạn này, chớ nên thấy khó mà nản lòng. Phải
biết rằng việc tu hành cũng như lóng nước để lâu quyết định
sẽ trong, và cũng như lột bẹ chuối, lột mãi sẽ đến lỏi.
Người tu hành cũng thế, trước đoạn phần thô thiển ngoài
thân, sau dần dần trừ đến phần tế nhị trong tâm, lâu ngày
thành tánh quen, thì quyết định có ngày sẽ được thanh
tịnh. Ðiều cốt yếu là nên nhớ lời Phật dạy có bốn chữ “bất
tùy phân biệt”. Nghĩa là khi đối cảnh không khởi vọng niệm
phân biệt, thì tham, sân, si không khởi. Tham, sân, si không
khởi thì sát, đạo, dâm chẳng sanh. Ðây là lối tu tắt của Ðại
thừa, để trở lại với chơn tâm thanh tịnh.
***
B. Ðoạn lòng sát hại: - A Nan, nếu các chúng sanh
trong tâm không nghĩ tưởng đến việc sát hại, thì không còn
bị sanh tử luân hồi nữa. Ông tu hành quyết cầu ra khỏi trần
lao, nếu ông không đoạn trừ tâm sát hại, thì cảnh trần lao
không bao giờ ra khỏi. Dầu cho hiện tiền ông được nhiều trí
huệ hay thiền định, nếu không đoạn tâm sát hại, thì ông chỉ
đọa vào thần đạo. Bực thượng làm Ðại lực quỷ, bực trung làm
Phi hành dạ xoa và các loài quỷ soái, bực hạ làm Ðịa hành La
sát và các quỷ thần. Các loài quỷ thần này cũng có đồ đệ,
đều tự cho mình thành đạo vô thượng.
Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, các loài quỷ
thần này rất thạnh hành trong thế gian, và tuyên bố rằng “Ăn
thịt cũng được Bồ đề”. A Nan, trước kia ta cho các ông ăn
ngũ tịnh nhục, là vì ở nhằm địa phương đất chai, nhiều đá
sỏi, không trồng rau cải đưọc, nên ta tạm cho các ông
dùng. Sau khi ta diệt độ rồi, tại sao những người ăn
thịt chúng sanh, mà cũng xưng là tăng lữ.
LƯỢC GIẢI
Trong kinh Lăng Già, Phật dạy Ngài Ðại Huệ Bồ tát: “Ta trước
kia phương tiện cho các ông ăn năm thứ thịt hoặc mười thứ,
hôm nay tất cả đều cấm tuyệt”.
***
A Nan, những người ăn thịt, dầu cho có đặng tâm trí khai
ngộ, cũng thành quỷ Ðại la sát, đến khi mãn kiếp quỷ La sát
rồi, quyết định phải trầm luân trong biển khổ sanh tử. Giết
hại ăn thịt lẫn nhau, thì làm sao ra khỏi sanh tử luân hồi
được.
A Nan, ông tu thiền định, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn
cầu được đạo, thì cũng như người tự bịt hai lỗ tai của mình,
la tiếng thiệt lớn, mà muốn cho mọi người không nghe, thì
không thể được.
A Nan, ông nên dạy người tu hành, điều thứ hai là quyết định
phải đoạn trừ lòng sát hại. Ðây là lời sáng suốt trong sạch
của ta cũng là lời các đức Phật quá khứ đã chỉ dạy. Như lời
ta dạy đây mới gọi là Phật nói, trái lại là Thiên Ma Ba Tuần
nói.
C. Ðoạn trừ trộm cướp: A Nan, nếu các chúng sanh,
trong tâm không nghĩ tưởng đến đến việc (tham lam) trộm
cướp, thì không còn sanh tử luân hồi nữa. Các ông tu hành
quyết cầu ra khỏi cảnh trần lao, nếu tâm (tham lam) trộm
cướp không trừ, thì không bao giờ ra khỏi.
Dầu cho hiện tiền ông đặng nhiều trí huệ hay thiền định, nếu
không đoạn tâm (tham lam) trộm cướp thì quyết định đọa vào
tà đạo, bực thượng làm loài tinh linh, bực trung làm loài
yêu mỵ, bực hạ làm người tà, bị các loài tinh yêu này nhập
(dựa). Bọn ngày cũng có đồ đệ, đều tự xưng rằng đặng đạo vô
thượng.
Sau khi ta diệt độ rồi, trong đời mạt pháp, chúng tinh yêu
tà mị này rất thạnh hành trong đời, tự xưng là thiện trí
thức, dối gạt phỉnh phờ người, khiến cho người mất tâm chánh
tính; chúng nó đi đến đâu thì làm cho người tiêu hao tài sản
đến đó.
A nan, ông tu thiền định, nếu không đoạn trừ tâm trộm cướp,
mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót vào
chén bể, mà muốn cho đầy, dầu trải bao nhiêu kiếp cũng không
thể đầy được. Ông nên dạy người tu hành, điều thứ ba là
quyết định phải đoạn trừ tâm trộm cướp. Ðây là lời nói sáng
suốt trong sạch của ta cũng như của các đức Phật quá
khứ. Ðúng như lời ta dạy gọi là Phật nói, trái lại là Thiên
Ma Ba Tuần nói.
***
D. Ðoạn trừ vọng ngữ: A Nan, nếu các chúng
sanh, đã giữ hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm
rồi mà còn đại vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất
hột giống Phật, thành ma ái kiến. Thế nào là đại vọng
ngữ? Nghĩa là chưa đặng đạo nói mình đặng đạo, chưa chứng
quả nói mình chứng quả. Ðối với người đời, nói: “Ta đã chứng
Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật”, để trông cầu người
lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu diệt hột
giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Ða la
khi bị chặt đứt đọt rồi (như cây cau xứ ta) thì không thể
mọc chồi đâm tược được.
A Nan, ta có dạy các vị Bồ tát và A La Hán: “Sau khi ta diệt
độ rồi, các ông phải thị hiện thân hình, trong đời mạt pháp
để cứu độ các chúng sanh đang trầm luân, làm thầy sa môn, cư
sĩ, vua, quan, đồng nam, đồng nữ, cho đến hiện đàn bà góa,
kẻ dâm nữ, người gian giảo, kẻ trộm cướp, người hàng thịt,
kẻ buôn bán, để lẫn lộn trong từng lớp người, chung một nghề
nghiệp, đặng giáo hóa chúng sanh trở về chánh đạo”.
Nhưng các vị ấy quyết chẳng bao giờ nói: “Ta đây thật là Bồ
tát hoặc A La Hán v.v.” hay tỏ ra một vài cử chỉ gì làm tiết
lộ sự bí mật, để cho người ta biết mình là Thánh nhơn thị
hiện. Chỉ trừ sau khi mạng chung rồi, các vị ấy mới âm thầm
để lại một vài di tích cho người biết thôi.
LƯỢC GIÁI
Các Phật tử đọc đến đoạn này nên chú ý: Phật và Bồ tát thị
hiện, chúng ta không thể biết được; nếu chúng ta biết được
thì đó không phải thiệt Phật hay Bồ tát. Chỉ trừ khi nào các
vị ấy cởi bỏ xác phàm, mới lưu lại một vài di tích, lúc bấy
giờ chúng ta mới biết được. Nhưng khi biết, thì không gặp
các Ngài nữa.
Như Tổ Ðạt Ma hiện thân đến Trung Quốc, vua Lương Võ Ðế
không biết; đến khi biết được Ngài là Thánh thì không còn
thấy được Ngài.
Vậy hiện nay những người tự xưng mình là Phật hay Bồ tát
v.v... giáng thế, thì căn cứ vào đoạn kinh này, chúng ta
thấy rõ ràng và chắc chắn không phải thiệt Phật hay Bồ tát
rồi, chớ nên tin mà bị hại.
***
A Nan, chính thật Bồ tát hay A La Hán thị hiện, mà còn không
cho người biết, tại sao những người phàm phu lại dám mạo
xưng là Phật, Bồ tát, v.v... Cũng như người cùng đinh, mà
mạo xưng mình là Ðế vương, thì sẽ bị tội tru diệt.
A Nan, nếu người tu hành, không đoạn trừ đại vọng ngữ, mà
muốn được đạo, thì cũng như người lấy đồ hôi tanh, tô đắp
thành cái hình chiên đàn, muốn cho thơm chừng nào lại càng
hôi chừng nấy. Cái nhơn đã chẳng ngay, thì kết quả phải cong
vậy. Những người như thế mà cầu quả Phật Bồ đề, thì cũng như
người muốn tự cắn rún của mình, làm sao cắn được.
A Nan, ông nên dạy người tu hành điều thứ tư là quyết định
phải đoạn trừ đại vọng ngữ. Ðây là lời nói sáng suốt trong
sạch của ta, và các đức Phật quá khứ chỉ dạy. Ðúng như lời
ta dạy đây thì gọi là Phật nói, trái lại là Thiên Ma Ba Tuần
nói.
LƯỢC GIẢI
Bốn đoạn trên Phật ân cần nhắc nhở, nói đi lặp lại nhiều
lần. Phật tử chúng ta nên ghi xương tạc dạ những lời vàng
ngọc chỉ dạy rất thống thiết của đức Từ phụ.
I. Phật dạy trì chú
Lăng Nghiêm
II. A Nan cầu Phật nói lại thần chú
III. Phật phóng hào quang nói thần chú
IV.Công năng của thần chú
V. Các vị thiên thần phát nguyện bảo hộ người trì chú
VI. Ông A Nan hỏi Phật tu hành phải trải qua bao nhiêu địa
vị mới được thành Phật
VII. Phật dạy ba món tiệm thứ
VIII. Hành giả phải trải qua 55 địa vị mới đến qua Phật
IX. 50 món ma chướng (ngũ ấm ma)
X. Mười món ma về sắc ấm
I. Phật dạy trì chú Lăng Nghiêm
- A Nan, người tu hành phải gìn giữ bốn điều luật nghi cần
yếu: dâm, sát, đạo, vọng cho trong sạch, cũng như băng
tuyết, nơi tâm không khởi vọng niệm duyên theo ngoại cảnh,
thì chúng ma kia không làm sao sanh được (vì trong tâm vọng
động, nên ngoại ma mới ứng)
Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề, không thể trừ được, ông
nên dạy họ chí tâm trì chú Lăng nghiêm này, thì các nghiệp
chướng đều tiêu diệt. Bằng chứng là ông cùng với nàng Ma
Ðăng Già, tình ân ái chồng vợ đã khắn khít với nhau từ nhiều
kiếp, đâu phải mới một đời này; nhờ thần chú Lăng Nghiêm mà
nàng Ma Ðăng Già nguồn tình khô cạn và được thành A La Hán.
Ma Ðăng Già là kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành còn được quả
thánh, huống chi các ông là bực Thinh Văn, có chí cầu đạo vô
thượng, lại trì tụng chú này, thì quyết định thành Phật rất
dễ, cũng như thuận gió tung bụi, chẳng có khó gì.
LƯỢC GIẢI
Trong đoạn kinh này Phật dạy phương pháp tu hành để thành
Phật, tóm lại có ba điều:
1.Bất tùy phân biệt: Nghĩa là, khi đối cảnh không khởi vọng
tâm phân biệt, thì tham, sân, si chẳng sanh. Tham, sân, si
không sanh thì các nghiệp sát, đạo, dâm chẳng tạo. Nghiệp
nhơn không tạo thì quả báo chẳng có. Nói tóm lại là “xoay
các tri giác trở về chơn tâm”, không duyên theo trần cảnh
thì vọng niệm không sanh; vọng không sanh thì chơn tâm hiện
bày.
Tổ sư có dạy: “Kiến sắc phi can sắc, văn thinh bất thị
thinh”; nghĩa là thấy sắc không can hệ gì đến sắc, nghe
tiếng cũng không dính líu gì đến tiếng. Hay như câu: “Ngộ
thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa, kiến lợi kiến danh
như nhãn trung trước tiết”: Gặp sắc đẹp hay nghe tiếng hay,
như hoa trồng trên đá (không dính líu gì); thấy tài lợi và
danh vọng như bụi rớt trong con mắt. Nếu người đến trình độ
này rồi, thì dầu vào thanh lâu hay tửu điếm cũng đều là đạo
tràng thanh tịnh (dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo
tràng).
2.Trì giới: Phải giữ gìn giới luật, trong tâm ngoài
thân đều thanh tịnh như băng tuyết.
3.Trì chú Lăng Nghiêm: Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề,
thì phải trì tụng chú Lăng Nghiêm sẽ mau đặng thành đạo
quả. Trong ba pháp tu này, bực thượng căn, trung căn và hạ
căn đều tu được cả. Thật là lòng từ bi của Phật vô lượng,
mưa pháp khắp trùm, cỏ cây lớn nhỏ đều được thấm nhuần.
***
II. A Nan cầu Phật nói lại
thần chú
Ông A Nan đứng dậy đảnh lễ Phật và kính cẩn bạch rằng: -
“Con từ khi xuất gia đến nay, vì ỷ lại lòng thương yêu của
Phật, chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng chuyên tu tập, nên
chẳng chứng được đạo quả, thành thử phải bị tà thuật của
Phạm Thiên bắt; trong tâm con tuy thông suốt mà năng lực
không được tự do, nên con phải nhờ Ngài Văn Thù đến cứu
độ. Con tuy nhờ thần chú Lăng Nghiêm của Phật mới được giải
thoát, nhưng chính con chưa được nghe, cúi xin đức Thế Tôn
từ bi nói lại, khiến cho những người tu hành hiện tại và
chúng sanh luân hồi đời sau, nhờ thần chú này mà thân tâm
được giải thoát”.
III. Phật
phóng hào quang nói thần chú
Khi đó từ nơi nhục kế (đảnh) của Phật, phóng ra hào quang
trăm báu; trong hào quan xuất hiện ra hoa sen báu ngàn
cánh. Trong hoa sen có đức Hóa Phật ngồi, trên đảnh Ngài
phóng ra mười đạo hào quang sáng suốt trăm báu. Trong mỗi
đạo hào quang đều có thị hiện vô số thần kim cang: vị bưng
núi, vị cầm bảo tử v.v... đứng khắp cả hư không. Ðại chúng
trông thấy vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót chở che
và nhứt tâm chờ nghe Phật nói thần chú.
Phật nói
thần chú:
ÐỆ NHỨT
01. Nam-mô tát đát tha
02. Tô già đa da
03. A ra ha đế
04. Tam-miệu tam bồ đà tỏa
05. Tát đát tha
06. Phật đà cu tri sắc ni sam
07. Nam-mô tát bà
08. Bột đà bột địa
09. Tát đa bệ tệ
10. Nam-mô tát đa nẩm
11. Tam-miệu tam bồ đà
12. Cu tri nẩm
13. Ta xá ra bà ca
14. Tăng già nẩm
15. Nam-mô lô kê A-La-Hán đa nẩm.
16. Nam-mô tô lô đa ba na nẩm.
17. Nam-mô ta yết rị đà dà di nẩm.
18. Nam-mô lô kê tam-miệu dà đa nẩm.
19. Tam-miệu dà ba ra
20. Ðể ba đa na nẩm.
21. Nam-mô đề bà ly sắc nỏa.
22. Nam-mô tất đà da
23. Tỳ địa da
24. Ðà ra ly sắc nỏa.
25. Xá ba noa
26. Yết ra ha
27. Ta ha ta ra ma tha nẩm
28. Nam-mô bạt ra ha ma ni
29. Nam-mô nhơn dà ra da
30. Nam-mô bà dà bà đế
31. Lô đà ra da.
32. Ô ma bát đế
33. Ta hê dạ da.
34. Nam-mô bà dà bà đế
35. Na ra dả
36. Noa da
37. Bàn dá ma ha tam mộ đà ra
38. Nam-mô tất yết rị đa da
39. Nam-mô bà dà bà đế
40. Ma ha ca ra da
41. Ðịa rị bác lặc na Dà ra
42. Tỳ đà ra
43. Ba noa ca ra da.
44. A địa mục đế
45. Thi ma xá na nê
46. Bà tất nê
47. Ma đát rị già noa
48. Nam-mô tất yết rị đa da
49. Nam-mô bà dà bà đế
50. Ða tha dà đa câu ra da
51. Nam-mô bát đầu ma câu ra da.
52. Nam-mô bạc xà ra câu ra da.
53. Nam-mô ma ni câu ra da
54. Nam-mô dà xà câu ra da
55. Nam-mô bà dà bà đế
56. Ðế rị trà
57. Du ra tây na.
58. Ba ra ha ra noa ra xà da
59. Ða tha dà đa da
60. Nam-mô bà dà bà đế
61. Nam-mô A di đa bà da
62. Ða tha dà đa da
63. A ra ha đế.
64. Tam-miệu tam bồ đà da
65. Nam-mô bà dà bà đế
66. A sô bệ da
67. Ða tha dà đa da
68. A ra ha đế
69. Tam-miệu tam bồ đà da
70. Nam-mô bà dà bà đế
71. Bệ xa xà da
72. Câu lô phệ trụ rị da
73. Bác ra bà ra xà da
74. Ða tha dà đa da.
75. Nam-mô bà dà bà đế
76. Tam bổ sư tỷ đa
77. Tát lân nại ra lặc xà da
78. Ða tha dà đa da
79. A ra ha đế
80. Tam-miệu tam bồ đà da
81. Nam-mô bà dà bà đế
82. Xá kê dã mẫu na duệ
83. Ða tha dà đa da
84. A ra ha đế
85. Tam-miệu tam bồ đà da
86. Nam-mô bà dà bà đế
87. Lặc đát na kê đô ra xà da
88. Ða tha dà đa da
89. A ra ha đế
90. Tam-miệu tam bồ đề da
91. Ðế biều
92. Nam-mô tát yết rị đa
93. ế đàm bà dà bà đa
94. Tát đác tha dà đô sắc ni sam
95. Tát đác đa bát đác lam
96. Nam-mô a bà ra thị đam
97. Bác ra đế
98. Dương kỳ ra
99. Tát ra bà
100. Bộ đa yết ra ha
101. Ni yết ra ha
102. Yết ca ra ha ni
103. Bạt ra tỷ địa da
104. Sất đà nể
105. A ca ra
106. Mật rị trụ
107. Bát rị đác ra da
108. Nảnh yết rị
109. Tát ra bà
110. Bàn đà na
111. Mục xoa ni
112. Tát ra bà
113. Ðột sắc tra
114. Ðột tất phạp
115. Bát na nể
116. Phạt ra ni
117. Giả đô ra
118. Thất đế nẩm
119. Yết ra ha
120. Ta ha tát ra nhã xà
121. Tỳ đa băng ta na yết rị
122. A sắc tra băng xá đế nẩm
123. Na xoa sát đác ra nhã xà
124. Ba ra tát đà na yết rị
125. A sắc tra nẩm
126. Ma ha yết ra ha nhã xà
127. Tỳ đa băng tát na yết rị
128. Tát bà xá đô lô
129. Nể bà ra nhã xà
130. Hô lam đột tất phạp
131. Nan giá na xá ni
132. Tỷ sa xá
133. Tất đác ra
134. A kiết ni
135. Ô đà ca ra nhã xà
136. A bát ra thị đa câu ra
137. Ma ha bác ra chiến trì
138. Ma ha điệp đa
139. Ma ha đế xà
140 Ma ha thuế đa xà bà ra
141. Ma ha bạt ra bàn đà ra
142. Bà tất nể
143. A rị da đa ra
144. Tỳ rị câu tri
145. Thệ bà tỳ xà da
146. Bạt xà ra ma lễ để
147. Tỳ xá lô đa
148. Bột đằng dõng ca
149. Bạt xà ra chế hắt na a giá
150. Ma ra chế bà
151. Bát ra chất đa
152. Bạt xà ra thiện trì
153. Tỳ xá ra giá
154. Phiến đa xá
155. Bệ để bà
156. Bổ thị đa
157. Tô ma lô ba
158. Ma ha thuế đa
159. A rị da đa ra
160. Ma ha bà ra a bác ra
161. Bạt xà ra thương yết ra chế bà
162. Bạt xà ra câu ma rị
163. Câu lam đà rị
164. Bạt xà ra hắt tát đa giá
165. Tỳ địa da
166. Kiền dá na
167. Ma rị ca
168. Khuất tô mẫu
169. Bà yết ra đa na
170. Bệ lô giá na
171. Câu rị da
172. Dạ ra thố
173. Sắc ni sam
174. Tỳ chiếc lam bà ma ni giá.
175. Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.
176. Lồ xà na
177. Bạt xà ra đốn trỉ giá
178. Thuế đa giá
179. Ca ma ra
180. Sát sa thi
181. Ba ra bà.
182. ế đế di đế
183. Mẫu đà ra
184. Yết noa.
185. Ta bệ ra sám
186. Quật phạm đô
187. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Nhị
188. Ô Hồng
189. Rị sắc yết noa
190. Bác lặc xá tất đa
191. Tát đác tha
192. Già đô sắc ni sam
193. Hổ hồng đô lô ung
194. Chiêm bà na
195. Hổ hồng đô lô ung
196. Tất đam bà na
197. Hổ hồng đô lô ung
198. Ba ra sắc địa da
199. Tam bác xoa
200. Noa yết ra
201. Hổ hồng đô lô ung
202. Tát bà dược xoa
203. Hắt ra sát ta
204. Yết ra ha nhã xà
205. Tỳ đằng băng tát na yết ra
206. Hổ hồng đô lô ung
207. Giả đô ra
208. Thi để nẩm
209. Yết ra ha
210. Ta ha tát ra nẩm
211. Tỳ đằng băng tát na ra
212. Hổ hồng đô lô ung
213. Ra xoa
214. Bà già phạm
215. Tát đác tha
216. Già đô sắc ni sam
217. Ba ra điểm
218. Xà kiết rị
219. Ma ha ta ha tát ra
220. Bột thọ ta ha tát ra
221. Thất rị sa
222. Câu tri ta ha tát nê
223. Ðế lệ a tệ đề thị bà rị đa
224. Tra tra anh ca
225. Ma ha bạt xà lô đà ra
226. Ðế rị bồ đà na
227. Man trà ra
228. Ô hồng
229. Ta tất đế
230. Bạt bà đô
231. Mạ mạ
232. ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Tam
233. Ra xà bà dạ
234. Chủ ra bạt dạ
235. A kỳ ni bà dạ
236. Ô đà ca bà dạ
237. Tỳ xa bà dạ
238. Xá tát đa ra bà dạ
239. Bà ra chước yết ra bà dạ
240. Ðột sắc xoa bà dạ
241. A xá nể bà dạ
242. A ca ra
243. Mật rị trụ bà dạ
244. Ðà ra nị bộ di kiếm
245. Ba già ba đà bà dạ
246. Ô ra ca bà đa bà dạ
247. Lặc xà đàn trà bà dạ
248. Na dà bà dạ
249. Tỳ điều đát bà dạ
250. Tô ba ra noa bà dạ
251. Dược xoa yết ra ha
252. Ra xoa tư yết ra ha
253. Tất rị đa yết ra ha
254. Tỳ xá giá yết ra ha
255. Bô đa yết ra ha
256. Cưu bàn trà yết ra ha
257. Bổ đơn na yết ra ha
258. Ca tra bổ đơn na yết ra ha
259. Tất kiền độ yết ra ha
260. A bá tất ma ra yết ra ha
261. Ô đàn ma đà yết ra ha
262. Xa dạ yết ra ha
263. Hê rị bà đế yết ra ha
264. Xả đa ha rị nẩm
265. Yết bà ha rị nẩm
266. Lô địa ra ha rị nẩm
267. Man ta ha rị nẩm
268. Mê đà ha rị nẩm
269. Ma xà ha rị nẩm
270. Xà đa ha rị nữ
271. Thị tỷ đa ha rị nẩm
272. Tỳ đa ha rị nẩm
273. Bà đa ha rị nẩm
274. A du giá ha rị nữ
275. Chất đa ha rị nữ
276. Ðế sam tát bệ sam
277. Tát bà yết ra ha nẩm
278. Tỳ đà dạ xà
279. Sân đà dạ di
280. Kê ra dạ di
281. Ba rị bạt ra giả ca
282. Hất rị đởm
283. Tỳ đà dạ xà
284. Sân đà dạ di
285. Kê ra dạ di
286. Trà diễn ni
287. Hất rị đởm
288. Tỳ đà dạ xà
289. Sân đà dạ di
290. Kê ra dạ di
291. Ma ha bát du bát đát dạ
292. Lô đà ra
293. Hất rị đởm
294. Tỳ đà dạ xà
295. Sân đà dạ di
296. Kê ra dạ di
297. Na ra dạ noa
298. Hất rị đởm
299. Tỳ đà dạ xà
300. Sân đà dạ di
301. Kê ra dạ di
302. Ðát đỏa dà lô trà tây
303. Hất rị đởm
304. Tỳ đà dạ xà
305. Sân đà dạ di
306. Kê ra dạ di
307. Ma ha ca ra
308. Ma đác rị già noa
309. Hất rị đởm
310. Tỳ đà dạ xà
311. Sân đà dạ di
312. Kê ra dạ di
313. Ca ba rị ca
314. Hất rị đởm
315. Tỳ đà dạ xà
316. Sân đà dạ di.
317. Kê ra dạ di
318. Xà dạ yết ra
319. Ma độ yết ra
320. Tát bà ra tha ta đạt na
321. Hất rị đởm
322. Tỳ đà dạ xà
323. Sân dà dạ di
324. Kê ra dạ di
325. Giả đốt ra
326. Bà kỳ nể
327. Hất rị đởm
328. Tỳ đà dạ xà
329. Sân đà dạ di
330. Kê ra dạ di
331. Tỳ rị dương hất rị tri
332. Nan đà kê sa ra
333. Dà noa bác đế
334. Sách hê dạ
335. Hất rị đởm
336. Tỳ đà dạ xà
337. Sân đà dạ di
338. Kê ra dạ di
339. Na yết na xá ra bà noa
340. Hất rị đởm
341. Tỳ đà dạ xà
342. Sân đà dạ di
343. Kê ra dạ di
344. A-la-hán
345. Hất rị đởm
346. Tỳ đà dạ xà
347. Sân đà dạ di
348. Kê ra dạ di
349. Tỳ đa ra dà
350. Hất rị đởm
351. Tỳ đà dạ xà
352. Sân đà dạ di
353. Kê ra dạ di
354. Bạt xà ra ba nể
355. Câu hê dạ câu hê dạ
356. Ca địa bát đế
357. Hất rị đởm
358. Tỳ đà dạ xà
359. Sân đà dạ di
360. Kê ra dạ di
361. Ra xoa vỏng
362. Bà dà phạm
363. Án thố na mạ mạ tỏa
Ðệ Tứ
364. Bà dà phạm
365. Tát đác đa bát đác ra
366. Nam-mô tý đô đế
367. A tất đa na ra lặc ca
368. Ba ra bà
369. Tất phổ tra
370. Tỳ ca tát đác đa bát đế rị
371. Thập Phật ra thập Phật ra
372. Ðà ra đà ra
373. Tần đà ra tần đà ra
374. Sân đà sân đà
375. Hổ hồng hổ hồng.
376. Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.
377. Ta ha
378. Hê hê phấn
379. A mâu ca da phấn
380. A ba ra đề ha đa phấn
381. Ba ra bà ra đà phấn
382. A tố ra
383. Tỳ đà ra
384. Ba ca phấn
385. Tát bà đề bệ tệ phấn
386. Tát bà na dà tệ phấn
387. Tát bà dược xoa tệ phấn
388. Tát bà kiền thát bà tệ phấn
389. Tát bà bổ đơn na tệ phấn
390. Ca tra bổ đơn na tệ phấn
391. Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.
392. Tát bà đột sáp tỷ lê
393. Hất sắc đế tệ phấn
394. Tát bà thập bà lê tệ phấn
395. Tát bà a bá tất ma lê tệ phấn
396. Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.
397. Tát bà địa đế kê tệ phấn
398. Tát bà đát ma đà kê tệ phấn
399. Tát bà tỳ đà da
400. Ra thệ giá lê tệ phấn
401. Xà dạ yết ra
402. Ma độ yết ra
403. Tát bà dạ tha ta đà kê tệ phấn.
404. Tỳ địa dạ
405. Giá lê tệ phấn
406. Giả đô ra
407. Phược kỳ nể tệ phấn
408. Bạt xà ra
409. Câu ma rị;
410. Tỳ đà dạ
411. Ra thệ tệ phấn
412. Ma ha ba ra đinh dương
413. Xoa kỳ rị tệ phấn
414. Bạt xà ra thương yết ra dạ
415. Ba ra trượng kỳ ra xà da phấn
416. Ma ha ca ra dạ
417. Ma ha mạt đát rị ca noa
418. Nam-mô ta yết rị đa da phấn.
419. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn
420. Bột ra ha mâu ni duệ phấn
421. A kỳ ni duệ phấn
422. Ma ha yết rị duệ phấn
423. Yết ra đàn tri duệ phấn
424. Miệc đát rị duệ phấn
425. Lao đát rị duệ phấn
426. Giá văn trà duệ phấn
427. Yết la ra đác rị duệ phấn.
428. Ca bát rị duệ phấn
429. A địa mục chất đa
430. Ca thi ma xá na
431. Bà tư nể duệ phấn
432. Diễn kiết chất
433. Tát đỏa bà tỏa
434. Mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
Ðệ Ngũ
435. Ðột sắc tra chất đa
436. A mạt đác rị chất đa
437. Ô xà ha ra
438. Dà bà ha ra
439. Lô địa ra ha ra
440. Ta bà ha ra
441. Ma xà ha ra
442. Xà đa ha ra
443. Thị tỉ đa ha ra
444. Bạt lược dạ ha ra
445. Kiền đà ha ra
446. Bố sữ ba ha ra
447. Phả ra ha ra
448. Bà tả ha ra
449. Bát ba chất đa
450. Ðột sắc tra chất đa.
451. Lao đà ra chất đa
452. Dược xoa yết ra ha
453. Ra sát ta yết ra ha
454. Bế lệ đa yết ra ha
455. Tỳ xá giá yết ra ha
456. Bộ đa yết ra ha
457. Cưu bàn trà yết ra ha
458. Tất kiền đà yết ra ha
459. Ô đát ma đà yết ra ha
460. Xa dạ yết ra ha
461. A bá tất ma ra yết ra ha.
462. Trạch khê cách
463. Trà kỳ ni yết ra ha
464. Rị Phật đế yết ra ha
465. Xà di ca yết ra ha
466. Xá câu ni yết ra ha
467. Lao đà ra
468. Nan địa ca yết ra ha
469. A lam bà yết ra ha
470. Kiền độ ba ni yết ra ha
471. Thập phạt ra
472. Yên ca hê ca
473. Trị đế dược ca
474. Ðát lệ đế dược ca
475. Giả đột thác ca
476. Ni đề thập phạt ra
477. Tỉ sam ma thập phạt ra
478. Bạt để ca
479. Tỷ để ca
480. Thất lệ sắc mật ca
481. Ta nể bát để ca
482. Tát bà thập phạt ra
483. Thất lô kiết đế
484. Mạt đà bệ đạt lô chế kiếm
485. A ỷ lô kiềm
486. Mục khê lô kiềm
487. Yết rị đột lô kiềm
488. Yết ra ha
489. Yết lam yết noa du lam
490. Ðản đa du lam
491. Hất rị dạ du lam
492. Mạt mạ du lam
493. Bạt rị thất bà du lam
494. Tỷ lật sắc tra du lam
495. Ô đà ra du lam
496. Yết tri du lam
497. Bạt tất đế du lam
498. Ô lô du lam
499. Thường dà du lam
500. Hắc tất đa du lam
501. Bạt đà du lam
502. Ta phòng án dà
503. Bát ra trượng dà du lam
504. Bộ đa tỷ đa trà
505. Trà kỳ ni
506. Thập bà ra
507. Ðà đột lô ca
508. Kiến đốt lô kiết tri
509. Bà lộ đa tỳ
510. Tát bát lô
511. Ha lăng già
512. Du sa đát ra
513. Ta na yết ra
514. Tỳ sa dụ ca
515. A kỳ ni
516. Ô đà ca
517. Mạt ra bệ ra
518. Kiến đa ra
519. A ca ra
520. Mật rị đốt
521. Ðát liểm bộ ca
522. Ðịa lật lặc tra
523. Tỷ rị sắc chất ca
524. Tát bà na câu ra
525. Tứ dẫn dà tệ
526. Yết ra rị dược xoa
527. Ðác ra sô
528. Mạt ra thị
529. Phệ đế sam
530. Ta bệ sam
531. Tất đát đa bát đác ra
532. Ma ha bạt xà lô
533. Sắc ni sam
534. Ma ha bát lặc trượng kỳ lam
535. Dạ ba đột đà
536. Xá dụ xà na
537. Biện đát lệ noa
538. Tỳ đà da
539. Bàn đàm ca lô di
540. Ðế thù
541. Bàn đàm ca lô di
542. Bát ra tỳ đà
543. Bàn đàm ca lô di
544. Ðát điệt tha
545. Án
546. A na lệ
547. Tỳ xá đề
548. Bệ ra
549. Bạt xà ra
550. Ðà rị
551. Bàn đà bàn đà nể
552. Bạt xà ra bán ni phấn
553. Hổ hồng đô lô ung phấn
554. Ta bà ha.
LƯỢC GIẢI
Tổ Ðơn Hà nói: Từ xưa đến nay không có ai dịch nghĩa thần
chú. Vì có năm nguyên nhân: 1. Lời bí mật của Phật, duy có
Phật với Phật mới biết, ngoài các vị thánh cũng không thể
biết được. 2. Vì một chữ hoặc một câu có hàm vô số nghĩa. 3.
Hoặc tên của các vị quỷ thần, kêu gọi các vị ấy liền đến để
bảo hộ người tu. 4. Mặt ấn của chư Phật, kẻ âm người dương
đều phải tuân theo, cũng như ấn sắc của nhà vua. 5. Người
chí tâm tụng trì, sẽ được diệt trừ tội nặng và mau chứng quả
Thánh.
Các nhà phiên âm có khác, song hành giả chí tâm trì tụng một
bổn nào cũng đều được hiệu quả.
***
IV. Công năng của
thần chú
A Nan, mười phương các đức Như Lai đều nhờ “tâm chú” này mà
hàng phục các ma, ngăn dẹp ngoại đạo, được thành quả
Phật. Mười phương chư Phật đều nhờ “tâm chú” này mà cứu độ
tất cả chúng sanh khỏi các tai nạn khổ não như thủy tai, hỏa
tai, cơ cẩn v.v... và cứu độ chúng sanh ở địa ngục, ngạ quỷ,
súc sanh, đều được giải thoát.
Các ông là hàng Thinh văn hữu học chưa khỏi luân hồi, phát
tâm cầu quả A la hán, nếu không trì chú này, mà muốn cho
khỏi các ma chướng thì không thể được.
Sau khi ta diệt độ, các chúng sanh đời sau, nếu có người trì
tụng chú này, thì các tai nạn: thủy tai, hỏa hoạn, thuốc
độc, độc trùng, ác thú, yêu tinh, qủy quái v.v... đều chẳng
hại được.
Nếu người phạm tội ngũ nghịch, phá trai, phạm giới, khi chí
tâm trì chú này, thì các tội đều tiêu, cũng như nước nóng
làm giá tan. Những người không con, muốn cầu con, tụng chú
này sẽ được con, cầu trường thọ v.v... được trường thọ, mỗi
mỗi đều như ý nguyện.
V. Các vị thiên thần phát nguyện
bảo hộ người trì chú
Khi Phật nói thần chú này rồi, trong hội có vô số thần Kim
cang, đồng lạy Phật và phát lời thệ nguyện: -Chúng con xin
sẽ thành tâm bảo hộ cho người trì chú này.
Lại có vô số các vị chư Thiên và Thánh Thần đều đứng dậy lạy
Phật và phát nguyện bảo hộ người trì chú này, khiến cho họ
khỏi các ma chướng và mau đặng thành đạo vô thượng Bồ đề.
Lại có vô số vị Kim cang Tạng Bồ tát, đồng đứng trước Phật,
phát lời thệ rằng:
- Con tu hành chẳng chịu vào Niết bàn, nguyện ở lại đời sau
để theo bảo hộ người tu hành, không cho các loài ác ma đến
nhiễu hại, chúng nó phải ở cách xa người tu ngoài mười do
tuần. Nếu có loài ác ma nào lai vãng đến người trì chú này,
thì con dùng cây báo sử đánh nó nát như bụi, để cho người tu
hành được như nguyện.
VI. Ông A
Nan hỏi Phật tu hành phải trải qua bao nhiêu địa vị mới được
thành Phật
A Nan đứng dậy lạy Phật và thưa rằng: - Bạch Thế Tôn, người
tu hành từ khi phát tâm cho đến thành Phật, phải trải qua
bao nhiêu địa vị, và thứ lớp tu hành như thế nào? Xin Phật
từ bi chỉ dạy cho kẻ mê muội này.
Phật khen không A Nan và dạy rằng: - Ta sẽ vì ông và chúng
sanh đời sau cầu quả Ðại thừa, chỉ dạy con đường tu hành từ
địa vị phàm phu, cho đến khi vào đại Niết bàn, vậy các ông
phải chăm chú nghe ta chỉ dạy:
- A Nan, các ông phải biết: Từ nơi chơn tâm thanh tịnh, rời
các danh tướng, không có thế giới và chúng sanh, vì vọng
động nên có sanh, nhờ sanh có diệt; sanh diệt cũng đều là
vọng, diệt hết vọng gọi là chơn, thế gọi là Vô thượng Bồ đề
và đại Niết bàn là hai quả chuyển y của Như Lai vậy.
VII. Phật
dạy ba món tiệm thứ
- A Nan, ông nay muốn tu hành để thành Phật, thì phải tuần
tự y theo ba món tiệm thứ này, mới có thể diệt trừ được gốc
rễ của loạn tưởng, cũng như người muốn súc sạch cái bình để
đựng đồ quý, thì trước hết phải đổ độc ra, kế dùng tro chùi
rửa, sau dùng nước nóng và chất thơm rửa lại thiệt sạch, rồi
mới có thể đựng vị cam lồ được.
Ba món tiệm thứ là:
1.Trừ các trợ duyên bên ngoài: Ăn, không nên ăn những
vật không hợp với người tu hành, như ăn thịt uống rượu và
ngũ vị tân v.v... Ngũ vị tân, ăn sống thì nó tăng trưởng
tánh nóng giận, ăn chín hay sanh tham dục, tụng kinh trì chú
chẳng hiệu nghiệm, Thánh thần không bảo hộ. Còn chỗ ở tu thì
phải tìm chỗ nào cho hợp với hoàn cảnh của người tu hành.
2.Trừ các chánh nhơn bên trong: Cốt yếu là hành giả phải
nghiêm trì tịnh giới, không dâm, sát, đạo và vọng, gìn giữ
ngoài thân không phạm, trong tâm không động, thân và tâm đều
thanh tịnh như băng tuyết.
3.Trừ các nghiệp hiện tiền: Khi tiếp xúc với trần cảnh,
không khởi vọng niệm phân biệt theo sáu trần, xoay các cảm
giác trở về bản tâm thanh tịnh. Do ngoài không duyên theo
trần cảnh, trong sáu căn không vọng động, đồng một thể thanh
tịnh, nên mười phương thế giới đều được thanh tịnh sáng
suốt; cũng như trong ngọc lưu ly có hàm chứa mặt trăng
sáng. Hành giả lúc bấy giờ thân tâm thơ thới, chứng đặng vô
sanh pháp nhẫn, mười phương chư Phật đều hiện trong tâm
người ấy. Từ đây hành giả lần lần tăng tiến tu hành, tiến
lên các quả Thánh.
VIII. Hành giả
phải trải qua 55 địa vị mới đến qua Phật
A Nan, người tu hành khi ái dục khô khan, sáu căn không còn
chạy theo sáu trần nhiễm trước, lúc bấy giờ chỉ có trí huệ
khô khan, chưa thấm nhuần nước pháp của Phật. Ðây là địa vị
đầu tiên tên Càn huê địa (huệ khô), lần lần tấn tu vào địa
vị Thập tín (mười món tin):
1. Tín tâm trụ
2. Niệm
tâm trụ
3. Tinh
tấn tâm
4. Huệ tâm
trụ
5. Ðịnh
tâm trụ
6. Bất
thối tâm
7. Hộ pháp
tâm
8. Hồi
hướng tâm
9. Giới
tâm trụ
10. Nguyện tâm
trụ
MÃN ÐỊA VỊ THẬP TÍN ÐẾN THẬP TRỤ
Phát tâm trụ
Trị địa trụ
Tu hành trụ
Sanh quý trụ
Phương tiện cụ
túc trụ
Chánh tâm trụ
Bất thối trụ
Ðồng chơn trụ
Pháp vương tử
trụ
Quán đảnh trụ
MÃN THẬP TRỤ ÐẾN
THẬP HẠNH
1.Hoan hỷ hạnh
2.Nhiêu ích
hạnh
3.Vô sân hận
hạnh
4.Vô tận hạnh
5.Ly si loạn
hạnh
6.Thiện hiện
hạnh
7.Vô trước hạnh
8.Tôn trọng
hạnh
9.Thiện pháp
hạnh
10.Chơn thật
hạnh
MÃN THẬP HẠNH ÐẾN
THẬP HỒI HƯỚNG
1.Cứu độ nhứt thế
chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng
2.Bất hoại hồi
hướng
3.Ðẳng nhứt thế
Phật hồi hướng
4.Chí nhứt thế
xứ hồi hướng
5.Vô tận công
đức tạng hồi hướng
6.Tùy thuận bình
đẳng thiện căn hồi hướng
7.Tùy thuận đẳng
quán nhứt thế chúng sanh hồi hướng
8.Chơn như tướng
hồi hướng
9.Vô phược giải
thoát hồi hướng
10.Pháp giới vô
lượng hồi hướng
MÃN THẬP HỒI HƯỚNG
ÐẾN TỨ GIA HẠNH
1.Noãn địa
2.Ðảnh địa
3.Nhẫn địa
4.Thế đệ nhứt
địa
MÃN TỨ GIA HẠNH ÐẾN
THẬP ÐỊA
1.Hoan hỷ địa
2.Ly cấu địa
3.Phát quang
địa
4.Diệm huệ địa
5.Nan thắng địa
6.Hiện tiền địa
7.Viễn thành
địa
8.Bất động địa
9.Thiện huệ địa
10.Pháp vân địa
(Khi mãn Thập địa đến địa vị Ðẳng giác, qua Ðẳng giác đến
Diệu giác tức là Phật. Trừ địa vị Càn huệ ra, thì từ địa vị
Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh,
Thập địa và Ðẳng giác, nghĩa là phải trải qua 55 địa vị này
mới được quả Phật.
Song trong khi trải qua 55 địa vị này, phải gặp 50 món ma là
những điều nguy hiểm nhứt trên đường tu hành).
IX. 50 món ma
chướng (ngũ ấm ma)
Thuyết pháp gần xong, đức Như Lai đứng dậy, tay vịn ghế thất
bửu, kêu Ngài A Nan và đại chúng dạy thêm rằng:
- Các ông chưa rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma
rất là nguy hiểm. Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà
kiến thì đọa vào ác đạo, cũng như người nhận lầm giặc làm
con, thì bị hại chẳng ít. Vậy các ông phải chăm chú nghe, ta
sẽ chín chắn chỉ dạy cho.
Này A Nan, tất cả chúng sanh cùng với người mười phương chư
Phật, đồng một thể chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các
ông bị vô minh vọng tưởng, nên sanh ra mười phương hư không
và thế giới nhiều như vi trần, nhưng mười phương hư không và
hằng sa thế giới đó đều sanh ở trong chơn tâm của các ông,
chẳng khác nào một điểm mây nhỏ sanh trong trời xanh. Nếu
người ngộ được chơn tâm rồi thì mười phương hư không và thế
giới đều tiêu hết.
Bởi các loài ma kia thấy người tu hành sanh tâm lo sợ cho bà
con quyến thuộc của chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ
thần lực đến nhiễu hại người tu. Chúng nó cũng đủ năm phép
thần thông biến hóa chỉ chưa được lậu tận thông.
Mặc dầu chúng đủ năm phép thần thông và sức mạnh, song vẫn
còn ở trong vòng trần lao; nếu các ông trong khi tu thiền
tâm được thanh tịnh sáng suốt, không vọng động, thì chúng ma
kia không làm sao hại được. Cũng như dao chặt xuống nước,
gió thổi ánh sáng, hoàn toàn không dính líu gì. Chúng ma kia
phải lần lần tiêu diệt như băng bị nước nóng chế vào và tối
tăm bị ánh sáng phá trừ; chỉ lo một điều là các ông cũng như
chủ nhà, nếu chủ nhà mê muội rồi thì các ma chướng kia như
khách dễ bề nhiễu hại, rồi các ông trở làm con cái của ma,
sau thành người ma.
Ma Ðăng Già là thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm ông phá một giới
trong tám muôn giới mà thôi, nhờ tâm ông thanh tịnh nên
chẳng bị trầm luân. Còn các chúng ma này rất là nguy hiểm,
nó phá tan giới thân huệ mạng làm cho ông nhiều kiếp luân
hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị cách chức, gia tài
sự sản bị tịch thâu, trở thành một người dân trắng, không
thể cầu cứu với ai được.
X. Mười món ma về sắc ấm
1.THÂN THỂ KHÔNG BỊ
CHƯỚNG NGẠI
Này A Nan, người trong khi tu thiền do sức dụng công, nên
tâm tánh được nhiệm mầu sáng suốt, tự thấy thân thể mình
trong giây phút qua lại tự tại, không bị cái gì làm chướng
ngại. Vì công dụng tu luyện, nên tạm hiện ra các việc như
vậy, không phải là chứng Thánh; nếu sanh tâm nghĩ mình chứng
Thánh, thì bị ma cám dỗ.
2.LƯỢM BỎ TRÙNG ÐỘC
TRONG THÂN
A Nan, hành giả trong lúc dụng công tu thiền, thoạt thấy
thân thể mình trong suốt, các loài trùng độc, sên bò qua
lại, rồi lượm bỏ ra ngoài mà thân không đau đớn. Vì dụng
công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng
Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma nó cám dỗ.
3.NGHE TRONG HƯ
KHÔNG CÓ TIẾNG NÓI PHÁP
Hành giả trong lúc tu thiền, nghe trong hư không có tiếng
thuyết pháp, hoặc nghe Thánh, Hiền, Tiên, Phật trong mười
phương thế giới đều nói ra nghĩa lý nhiệm mầu. Ðây vì hành
giả dụng công tu luyện nên tự tâm biến hiện ra cảnh giới như
vậy, không phải chứng Thánh, nếu nghĩ mình chứng Thánh, thì
bị ma ám ảnh.
4.THẤY PHẬT HIỆN VÀ
HOA SEN NỞ
Người tu thiền định, khi tâm thanh tịnh rồi, tự phát ra ánh
sáng. Lúc bấy giờ thấy mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất
cả các vật loại hóa thành Phật cả. Lại thấy đức Phật Tỳ Lô
Giá Na ngồi trên đài thiên quang, các đức Phật ngồi xung
quanh và có vô số hoa sen đồng thời xuất hiện. Ðây do
hành giả dụng công tu thiền, nên thấy có cảnh tạm hiện ra
như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu nghĩ mình chứng
Thánh, thì bị ma cám dỗ.
5.THẤY CÁC VẬT BÁU
ÐẦY CẢ HƯ KHÔNG
Người trong khi tu thiền thấy mười phương hư không đều thành
bảy báu, nào màu xanh, sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số,
mà chẳng chướng ngại nhau. Ðây do trong lúc tu thiền, vì
hành giả dụng công đè nén vọng niệm thái quá, nên nó biến
hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng Thánh; nếu nghĩa mình
chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
6.THẤY BAN ÐÊM NHƯ
BAN NGÀY
Người tu thiền định, do tâm yên tịnh nên phát ra ánh
sáng. Lúc bấy giờ mặc dù nửa đêm, ở trong nhà tối mà vẫn
thấy rõ hết cả mọi vật, không khác chi ban ngày. Vì hành giả
dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như vậy, không phải
chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
7.THÂN THỂ KHÔNG
BIẾT ÐAU
Người tu thiền đến khi tâm tánh được rỗng không, thì thân
thể chẳng biết đau. Lúc bấy giờ lửa đốt không cháy, dao chặt
không đau. Ðây do sức dụng tâm tu luyện của hành giả nên tạm
được như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng
Thánh, thì bị ma cám dỗ.
8.THẤY CẢNH GIỚI
PHẬT HIỆN KHẮP NƠI
Người tu thiền định do dụng công cùng tột, nên thấy mười
phương núi sông toàn cả thế giới đều biến thành cõi Phật, đủ
cả bảy món báu chiếu sáng khắp giáp. Lại thấy hằng sa chư
Phật ở trong cung điện tốt đẹp hiện đầy cả hư không. Trông
lên trên thì thấy các cung trời, xem trở xuống lại thấy hết
các cõi địa ngục đều không có chướng ngại. Ðây do lúc tu
thiền, vì hành giả ngưng vọng tưởng lâu ngày, nên nó hóa
hiện như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng
Thánh, thì bị đọa vào đường tà.
9.BAN ÐÊM THẤY, NGHE
ÐƯỢC PHƯƠNG XA
Trong khi tu thiền, do tâm tham cứu sâu xa, nên trong lúc
giữa đêm thấy được nào là chợ búa, đường sá, bà con họ hàng
ở các phương xa, hoặc nghe được tiếng nói. Ðây do hành giả
kiềm thúc cái vọng tâm thái quá, nên tạm hiện ra như vậy,
không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa
vào đường tà.
10.THÂN HÌNH BIẾN
HÓA, NÓI PHÁP THÔNG SUỐT
Trong khi tu thiền, do hành giả dụng tâm tham cứu cùng tột,
nên thấy có các vị Thiện tri thức, chỉ trong giây phút mà
thân mình biến hóa nhiều cách. Ðây do trong khi tu thiền vì
hành giả sanh tâm chấp trước, nên bị ma ám ảnh, làm cho
người này thông suốt nghĩa mẩu, nói pháp vô ngại, không phải
chứng Thánh; nếu chẳng chấp trước thì cảnh ma này lần lần
tiêu; còn cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.
TÓM LẠI
Này A Nan! Mười cảnh ma này, đều do trong lúc tu
thiền, hành giả dụng tâm phá trừ sắc ấm, nên nó biến hiện ra
các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh ấy, mê lầm không
biết, cho mình đã chứng Thánh thì bị ma nó ám ảnh, rồi sanh
đại vọng ngữ, nói mình thành đạo chứng quả v.v... sau khi
chết rồi đọa vào địa ngục vô gián. Vậy khi ta nhập diệt rồi,
các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này giảng dạy
cho người tu hành đời sau, bảo hộ người tu hành đặng đạo
quả, chớ để cho họ bị thiên ma nhiễu hại.
Này A Nan, người tu
thiền định khi phá trừ sắc ấm rồi, tâm trí sáng suốt, do
hành giả dụng công dằn ép các vọng tưởng thái hóa, nên
phát sanh lòng thương xót các loài vật vô cùng, cho đến
thấy loài mòng muỗi, thương cũng như con ruột, thương
cho đến nỗi sa nước mắt khóc ròng. Nếu hành giả giác ngộ
thì cảnh ấy lần lần tiêu hết, không có hại chi; còn mê
lầm không biết, thì bị ma sầu bi ám ảnh vào tâm, rồi
thấy người tự khóc ròng, tâm mất chánh định, sau khi
chết rồi đọa vào cảnh ma.
2. Chí dõng mãnh bằng Phật
Này A Nan, người tu
thiền định khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, thấy có
nhiều điều linh ứng và những cảnh tốt đẹp hiện ra. Vì
trong lòng cảm khích thái quá, nên hành gỉả phát tâm đại
dõng mãnh, lập chí đồng với chư Phật, quyết tu một đời
thành Phật, không chịu trải qua bao vô số kiếp. Nếu hành
giả giác ngộ thì cảnh ấy lần lần tiêu diệt; còn mê lầm
không biết cho mình chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, thấy
người hay khoe khoang hống hách, ngã mạn không ai bằng,
cho đến trên thấy không có Phật, dưới thấy không có
người, mất chánh định, sau khi chết rồi bị đọa vào ác
đạo.
3. Tâm nghĩ tưởng khô khan
Lại nữa, người tu
thiền định, khi địa vị cũ đã qua khỏi, địa vị mới chưa
chứng, lúc ấy bơ vơ giữa chừng, vị trí lực suy kém, nên
trong tâm sanh ra rất khô khan, tất cả thời nhớ nghĩ vẩn
vơ, rồi tự cho đó là tinh tấn. Đây vì trong lúc tu
thiền, không có trí tuệ sáng suốt để phán đoán. Nếu hành
giả hiểu biết thì không có hại; còn mê lầm không biết,
cho mình chứng Thánh thì bị ma ám ảnh vào tâm, sớm chiều
bóc quăng trái tim của mính, mất chánh định, chết rồi
đọa vào ác đạo.
4. Đặng chút ít cho là đầy đủ
Người tu thiền định
khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, vì dùng huệ nhiều hơn
định, mất sự thăng bằng, nên gặp những cảnh thù thắng
hiện ra, sanh lòng nghi ngờ cho là Đức Tỳ Lô Giá Na
Phật, mới đặng chút ít cho là đầy đủ. Nếu hành giả hiểu
biết thì không có hại; còn mê lầm không biết cho mình là
Thánh, thì bị ma ám ảnh, khi gặp người tự xưng: “Ta đặng
đạo vô thượng Bồ đề”, sẽ mất chánh định, sau đọa vào
đường ma.
5. Tâm buồn rầu vô hạn
Người tu thiền
định, khi cảnh cũ đã mất, địa vị mới chưa chứng, tự thấy
bơ vơ; gặp cảnh gian nan nguy hiểm, sanh tâm buồn rầu vô
hạn, như ngồi trên chông sắt, như uống thốc độc, tâm
chẳng muốn sống, thường cầu xin người giết giúp thân
mạng mình, đặng sớm được giải thóat. Đây là do trong khi
tu hành, hành giả thiếu phương tiện để lướt qua những
cảnh ấy. Nếu liễu ngộ thì không hại; còn mê lầm chẳng
biết, hành giả cho mình chứng Thánh, thời bị ma u sầu ám
ảnh, rồi tự cầm gươm dao lóc lấy thịt mình, ưa bỏ thân
mạng, thường hay lo rầu hoặc vào ở trong núi non rừng
rú, không muốn thấy người, mất tâm chánh định, sau chết
rồi đọa vào đường ma.
6. Vui cười không thôi
Người tu thiền
định, khi tâm được thanh tịnh an ổn rồi, bỗng nhiên sanh
ra vui mừng vô hạn không thể ngăn được. Nếu hiểu biết
thời không có hại; còn mê lầm cho mình chứng Thánh, thì
bị ma nhập vào tâm phủ, Thấy người cười hoài, đi trên
đường sá một mình ca múa, tự cho rằng “Ta đã đặng vô
ngại giải thóat”, mất chánh định, sẽ đọa vào đường tà.
7. Sanh đại ngã mạn
Người tu thiền
định, khi thấy sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, tự cho mình
được như thế là đầy đủ rồi, sanh tâm ngã mạn, đối với
mười phương chư Phật còn khinh khi, huống hồ là
Thinh-văn, Duyên-giác. Nếu hiểu ngộ thì chẳng hại; còn
hành giả mê lầm không biết cho là chứng Thánh, thì bị ma
đại ngã mạn nó nhập tâm, không lạy Phật tổ, hủy họai
kinh tượng. Hạng người ấy thường nói với tín đồ rằng:
“Phật bằng cây, đất, đồng, chì; còn kinh tượng là giấy
mực, có gì mà kính lạy; nhục thân này mới là chơn thật
thường còn, sao chẳng cung kính, thật là điên đảo”. Tín
đồ nghe rồi tin theo, đốt kinh chôn Phật. Người làm cho
chúng sanh nghi lầm như thế, sau khi chết rồi bị đọa vào
địa ngục vô gián.
8. Tâm sanh khinh an
Người tu thiền
định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm sanh
ra vô lượng khinh an rồi tự cho mình đã chứng Thánh,
đặng đại tự tại. Nếu hành giả hiểu biết thời không hại;
còn mê lầm không biết thì bị ma nhập tâm, rồi tự cho
mình đã đầy đủ, không cần tu tấn, mất chánh định, sau
khi chết rồi bị đọa vào đường tà.
9. Chấp không
Người tu thiền
định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, trong tâm bỗng
sáng, rồi sanh ra chấp đọan diệt, bác không nhân quả,
không tội phước, tất cả đều không. Nếu hành giả hiểu
biết thời không hại; còn mê lầm không biết chấp mình
chứng Thánh thì bị ma nhập tâm, rồi chê bai người trì
giới cho là tu hành Tiểu thừa, tự xưng mình là Bồ-tát
ngộ chơn lý chơn không rồi, không còn trì giới và phạm
giới nữa, vẫn ăn thịt và uống rượu làm những việc tà
dục. Do thần lực của ma nó làm cho tín đồ say mê, thương
yêu cung phụng, luôn luôn trung thành, chẳng sanh lòng
nghi ngờ hủy báng. Vì ma nhập lâu ngày làm cho phải
điên, đến nỗi ăn uống những đồ nhơ uế, mà cho cũng như
là uống rượu ăn thịt, phá các giới cấm của Phật, hoàn
toàn chấp không, làm mất chánh kiến của mình, sau khi
chết rồi đọa vào đường tà.
10. Vì quá tham ái nên sanh ra cuồng
Người tu thiền
định, khi sắc ấm tiêu, thọ ấm hiện bày, sanh ra vô cùng
ái dục, đến đỗi phát cuồng. Nếu hành giả giác ngộ thì
cảnh đó hết dần, còn mê lầm không biết cho là chứng
Thánh, thì bị ma nhập tâm, rồi khuyến hóa người đời bình
đẳng hành dục, bảo họ rằng: “Hành dục là đạo Bồ-đề,
người hành dâm dục là kẻ duy trì chánh pháp. Do thần lực
của ma làm cho người cuồng kia chinh phục được cả ngàn
muôn người, đến chừng ma nhàm chán, bỏ người tu thiền
kia rồi, lúc bấy giờ hành giả không còn oai đức gì nữa,
bị luật nước giam cầm, đến khi lâm chung đọa vào địa
ngục vô gián.
Tóm lại
A Nan, mười cảnh ma
này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá
trừ thọ ấm, nên tự hiện ra các cảnh như vậy. Nếu hành
giả mê lầm không biết, cho rằng chứng Thánh, thì bị ma
dựa vào, làm nhiều hại đến thế; chết rồi đọa vào địa
ngục vô gián.
Sau khi Ta nhập
diệt, các ông nên đem lời Ta dạy đây mà truyền dạy cho
chúng sanh đời sau, bảo hộ người tu hành được thành đạo
Bồ-đề, chớ để cho họ gặp các loài ma chuớng làm hại, mà
phải bị đọa vào ác đạo.
II. MƯỜI MÓN MA VỀ TƯỞNG ẤM :
1. Tham cầu diệu dụng
A Nan, người tu
thiền định, khi phát minh được diệu định rồi, lại khởi
tâm tham cầu những việc diệu dụng và linh nghiệm. Khi đó
thiên ma được biết, gặp dịp thuận tiện, nên xuất hồn
nhập vào người, mà người bị nhập kia lại không biết, tự
cho mình đặng đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường nói ra
kinh pháp. Trong giây phút, thân mình người bị nhập kia,
biến hiện ông Thầy, cô Ni, vị Đế thích hay người phụ nữ
v.v… hoặc ở trong nhà tối, từ nơi thân họ chiếu ra hào
quang sáng ánh. Người đời lầm cho là Bồ-tát thật, rồi
tin nghe theo lời ma giáo hóa, sanh tâm buông lung, phá
giới luật của Phật, lén làm việc tham dục. Người này ưa
nói những điểm tai biến lạ lùng, hoặc nói chỗ kia có
Phật ra đời, năm nào nổi đao binh giặc giã, năm nào có
hỏa họan v.v… khủng bố tinh thần dân chúng, khiến cho
người hao tài tốn của. Đến khi ma kia nhàm chán bỏ đi,
thì thầy trò người bị ma nhập kia đều bị giam cầm. các
ông nếu biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm
không biết thì đọa vào ác đạo.
2. Tham cầu du ngọan
A Nan, hành giả khi
tu thiền, trong tâm muốn xuất thần dạo chơi. Lúc bấy giờ
Thiên ma Ba tuần hiểu biết, được dịp thuận tiện nhiễu
hại, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị nhập kia
lại không biết, tự nói mình đặng đạo vô thượng Niết-bàn,
miệng cũng nói kinh pháp thông suốt, làm cho những người
nghe đều tự thấy thân mình hóa ra sắc vàng sáng rỡ, ngồi
trên tòa sen báu, đặng những điều chưa từng có. Người
đời lầm tưởng là Bồ-tát thị hiện. Người bị ma nhập kia
lại dạy người phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc
tham dục, miệng ưa nói chuyện chư Phật giáng thế, như: ở
xứ kia, ông đó là Đức Phật nào thị hiện, người nọ là vị
Bồ-tát chi thị hiện v.v… làm cho người thấy, nghe sanh
lòng khao khát, dâm tà kiến thêm mạnh, giống trí tiêu
mòn. Đến lúc ma kia nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người
bị ma nhập ấy đều bị bắt cả. các ông nếu sớm giác ngộ
thì khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì đọa vào
địa ngục.
3. Cầu ngộ chơn lý
Lại nữa, người tu
thiền định, trong tâm tham, cầu ngộ chơn lý. Lúc bấy giờ
Thiên ma Ba tuần biết được ý muốn, nên xuất hồn nhập cho
người, mà người tự không biết, tự cho rằng ta đặng đạo
vô thượng niết-bàn, miệng cũng nói kinh pháp, làm cho
thính giả tuy chưa nghe pháp, mà tâm tự khai ngộ, biết
được việc nhiều đời trước, hoặc biết rõ được tâm tánh
người, hoặc thấy các cảnh địa ngục, biết trước những họa
phước ở nhơn gian, miệng tự đọc kinh hay nói kệ, mỗi
người đều tự vui mừng, cho là đặng những việc chưa từng
có. Người đời mê lầm cho là Bồ-tát thị hiện. Ma kia lại
ưa nói: “Phật có lớn nhỏ, Phật thiệt, Phật giả, Phật
nam, Phật nữ, Đức Phật kia là Đức Phật trước, Đức Phật
nọ là Đức Phật sau; Bồ-tát cũng vậy”, làm cho người mầt
chánh tín lại sanh tà kiến, tâm tánh buông lung, phá
giới luật của Phât, lén làm việc tham dục. Đến khi chúng
ma kia sanh tâm nhàm chán bỏ đi, thì thầy trò người bị
ma nhập kia đều bị bắt. Các ông biết trước thời khỏi bị
luân hồi; còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục.
4. Móng tâm muốn biết nguồn gốc của muôn loài
Lại nữa, người tu thiền định, khi ở trong định, móng tâm
muốn biết cùng tột căn nguyên của muôn vật, thỉ chung
sanh hóa thế nào. Khi đó Thiên ma hiểu biết ý muốn, gặp
dịp thuận tiện để khuấy nhiễu, nên xuất hồn đến nhập cho
người, mà người nhập kia lại không biết, cho mình đặng
đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường nói kinh pháp. Chúng
ma kia dùng oai thần nhiếp phục quần chúng, làm cho
thính giả tuy chưa nghe pháp mà trong lòng đã tự kính
phục. Chúng ma nói: “Thân thịt hiện tiền đây là Bồ-đề
Niết-bàn, là Pháp thân của Phật”. Chúng ma lại nói:
“Mắt, tai, mũi, lưỡi là cảnh tịnh độ, nam căn và nữ căn
tức là Bồ-đề Niết-bàn”. Nhưng người mê lầm không biết
tưởng là Bồ-tát thị hiện, tin tưởng quy y theo, cho là
một đấng hy hữu chưa từng có. Mất tâm chánh tín, phá
giới luật của Phật, âm thầm làm hạnh tham dục. Đến khi
ma kia nhàm chán bỏ đi rồi, thì thầy trò người bị ma
nhập kia đều bị bắt cả. Các ông nếu biết trước thì khỏi
bị luân hồi, còn mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục
vô gián.
5. Tham cầu cảm ứng linh nghiệm
Người tu thiền định vì móng tâm tham cầu sự cảm ứng linh
nghiệm, nên Thiên ma biết được ý muốn, nó xuất hồn đến
gá vào người mà người kia không biết, tự cho mình đặng
đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường nói kinh pháp. Ma
lại dùng thần lực khiến cho những người nghe pháp đều
thấy thân thể người bị nhập kia già nua như người trăm
tuổi sanh lòng thương mến, đêm ngày hầu hạ không biết
mệt mỏi, và tứ sự cúng dường. Nó lại làm cho người người
kính trọng là vị Tiên sư hay Thiện tri thức. Đối với
người, nó ưa nói việc huyền ảo như: “Đời trước ta tế độ
người kia, người nọ. Đời trước người kia là anh em hay
vợ con của ta, đời nay ta tế độ, để cùng nhau sẽ sanh về
thế giới kia và cúng dường Đức Phật nọ”; hoặc nói: “Có
cõi Trời Đại quang minh, tất cả các Đức Phật đều ở đó”.
Những người mê muội không biết, lầm cho là Bố-tát thị
hiện, tin tưởng kính trọng vô cùng, mất tâm chánh tín,
phá giới luật của Phật, âm thầm làm việc tham dục. Đến
khi chúng ma kia sanh tâm nhàm bỏ. các ông biết trước
thời khỏi vào luân hồi, còn tin tưởng nghe theo thì đọa
vào địa ngục vô gián.
6. Tham cầu ở chỗ vắng vẻ tịch mịch
Người tu thiền định, khép mình nơi khổ hạnh tham cầu ở
chỗ vắng vẻ tịch mịch. Khi đó Thiên ma Ba tuần biết được
ý muốn, nên xuất hồn nhập vào người, mà người kia không
biết, cho mình chứng đạo vô thượng Niết-bàn, cũng thường
hay nói pháp. Ma dùng thần lực khiến cho các người nghe
đều biết được đời trước của mình. Hoặc trong chỗ đông
người, nó chỉ một người nào đó nói rằng: “Người này chưa
chết, mà đã thành súc sanh”. Nói rồi, ma nó bảo một
người khác đạp sau cái đuôi, thì người kia biến thành
súc sanh, đứng dậy không được, làm cho đồ chúng hết sức
kính phục. Có ai vừa móng tâm niệm gì, thì ma nó liền
biết và nói ra ngay. Ngoài giới luật của Phật, chúng còn
giữ thêm những điều khổ hạnh, phỉ báng các thầy Tỳ-kheo,
mắng nhiếc tín đồ, làm tiết lộ việc bí mật của người mà
không sợ người hiềm ghét, thường nói những việc họa
phước sắp đến, không sai một mảy. Đến lúc ma kia nhàm
chán bỏ rồi, thì thầy trò người bị ma nhập đều bị bắt.
Các ông biết trước thời không vào luân hồi; còn mê mờ
tin theo thì đọa vào địa ngục vô gián.
7. Tham cầu biết kiếp trước
Người trong khi tu thiền định, móng tâm tham cầu biết
kiếp trước của mình. Khi đó Thiên ma hiểu biết, gặp dịp
thuận tiện, nên xuất hồn nhập vào người, mà người bị
nhập kia không biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng
Niết-bàn, cũng thường nói kinh pháp, hoặc làm cho người
tình cờ đặng châu báu. Nó hóa ra một con vật ngậm hột
châu hay những vật kỳ quái đem đến đưa cho người. Nó chỉ
ăn rau rác đơn sơ, không dùng đồ ngon quí, có khi mỗi
ngày chỉ ăn một hột mè, hột bắp, mà thân hình vẫn mập
tốt. Chúng thường nói: “Xứ kia có kho báu, chỗ nọ có các
Thánh Hiền ẩn”. Chúng làm cho người thấy những điều kỳ
dị, hoặc nói những việc tham dục, phá giới của Phật, âm
thầm làm hạnh dâm dục. Đến khi ma kia nhàm bỏ rồi, thì
thầy trò người bị nhập đều bị bắt cả. Các ông biết trước
thì khỏi đọa vào luân hồi; còn mê lầm tin theo, thì đọa
vào địa ngục.
8. Tham cầu thần thông
Người khi tu thiền định, móng tâm muốn được thần thông
biến hóa. Khi đó Thiên ma liền biết, nên xuất hồn nhập
cho người mà người không biết, tự cho rằng: “Đặng đạo vô
thượng Bồ-đề”. Miệng nói kinh pháp và một tay cầm lửa,
một tay rứt ánh sáng phân phát để trên đầu của thính
giá. Mỗi người đều thấy trên đầu có ánh sáng dài đến vài
thước, mà chẳng biết nóng; hoặc đi trên nước hay ngồi
trên hư không vẫn tự tại; hoặc vào trong bình, vô trong
đãy (bọc), đi ngang qua vách tường, mà không bị chướng
ngại. Chỉ trừ khi đối với binh đao, thì họ không tự tại.
Họ xưng là Phật mà thân mặc đồ thế gian, thọ các thầy
tỳ-kheo lễ bái, chê bai người tham thiền và trì giới,
mắng nhiếc đồ chúng, làm tiết lộ việc nhà người mà không
sợ người hiềm giận. Họ thường nói với người: “Ta đã đặng
thần thông tự tại”; hoặc làm cho người thấy được cõi
Phật (ma hiện ra cõi Phật) đem những điều dở hèn làm
việc truyền đạo và khen ngợi việc hành dục. Đến khi ma
kia nhàm bỏ, thì thấy trò người bị ma nhập kia đều bị
bắt cả. Các ông biết trước thời khỏi vào luân hồi; còn
mê lầm tin theo thời đọa vào địa ngục vô gián.
9. Tham cầu không không
Người khi tu thiền định, tâm ưa nhập diệt, tham cầu
không không. Khi ấy Thiên ma liền biết, đặng dịp thuận
tiện, nên xuất hồn nhập cho người, mà người kia chẳng
biết, tự cho mình đặng đạo vô thượng Niết-bàn, miệng nói
kinh pháp. Hoặc ở trong chỗ đông người, người ấy tự biến
mất, không ai thấy được, rồi tình cờ từ hư không hiện
ra, khi ẩn khi hiện thần diệu vô cùng, hoặc hiện thân
trong suốt như ngọc lưu ly, khi duỗi tay chân ra thì
thơm nực mùi hương chiên đàn, chê bai giới luật, hủy
báng người xuất gia, bác không có nhơn quả, cho rằng
chết rồi mất hẳn không có đầu thai, âm thầm làm việc
tham dục, khiến cho những người thọ dục, cũng chấp không
có nhơn quả tội phước v.v… Đến lúc ma nhàm bỏ, thì thầy
trò người bị ma nhập kia đều bị bắt cả. các ông biết
trước thời khỏi vào luân hồi; còn mê lầm không biết thì
đọa vào địa ngục vô gián.
10. Tham cầu sống lâu
Người tu thiền định, móng tâm tham cầu sống lâu. Lúc bấy
giờ Thiên ma hiểu biết, xuất hồn nhập cho người, mà
người tự không biết, nói mình đặng đạo vô thựơng
Niết-bàn, miệng thường nói kinh pháp và đi qua lại các
thế giới được tự tại không ngăn ngại; mặc dù đường xa
muôn dặm, nhưng đi không nháy mắt đã trở về đến chỗ, lại
lấy những vật ở phương xa kia đem về làm tin. Hoặc ở
trong một căn nhà nhỏ, nó bảo người đi thiệt mau, từ
vách bên này qua vách bên kia, đi mấy năm cũng không
đến; hoặc thường nói: “Chúng sanh trong mười phương đều
là con của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế giới,
ta là Phật đầu tiên tự nhiên có, chẳng chơn tu hành mà
được”; hoặc ngồi nói lầm thầm một mình như người cuồng,
khiến cho người đời tin tưởng là Phật thiệt. Các ông
biết trước thì khỏi bị luân hồi, còn mê lầm tin theo
thời đọa vào địa ngục vô gián.
Tóm lại
A Nan, mười
món ma tưởng ấm này, ở trong đời mạt pháp, sẽ giả làm
người xuất gia tu hành, trong đạo của Ta, hoặc nhập cho
người, hoặc tự hiện hình, đều tự xưng rằng: “Đã chứng
quả Phật”. Chúng khen ngợi việc dâm dục, phá giới luật
của Phật. Ma thầy, ma trò cùng nhau tryền dạy, làm hại
cho người đến nhiều đời lắm, khiến người chơn tu mất
chánh kiến, bị đọa làm bà con quyến thuộc của ma.
Các ông ngày nay đã
được độ ra khỏi sanh tử luân hồi rồi, vậy các ông phải
khởi lòng đại bi, không nên nhập diệt sớm, phải nguyện ở
lại đời mạt pháp để cứu độ những người chơn chánh tu
hành đời sau, khỏi bị ma nhiễu hại.
Các ông tuân theo
lời ta dạy đây, mới gọi là đền đáp ơn Phật. Các ông gắng
bảo hộ người tu hành, nên đem lời nói của Ta đây truyền
dạy cho chúng sanh đời sau, khiến cho họ hiểu rõ các
việc ma, để khỏi bị Thiên ma nhiễu hại và mau được thành
đạo vô thượng.
I. Mười món ma về hành ấm: 1. Chấp không nguyên nhơn sanh
2. Bốn món chấp thường
3. Chấp một phần thường, một phần vô thường
4. Chấp có bốn món biên giới
5. Bốn món luận nghị rối lọan, không nhứt định
6. Chấp mười sáu tướng có
7. Chấp tám món vô thường
8. Chấp tám món cu phi
9. Chấp bảy món đọan diệt
10. Chấp năm món Niết-bàn hiện tại II. Mười món ma về thức ấm: 1. Chấp minh đế
2. Chấp năng sanh
3. Chấp chơn thường
4. Chấp cây cỏ cũng đều có biết
5. Chấp tứ đại hóa sanh
6. Chấp hư vô
7. Tham cầu sống lâu
8. Tham luyến cảnh dục
9. Định tánh Thinh-văn
10. Định tánh Duyên-giác
NỘI DUNG
I. MƯỜI MÓN MA VỀ HÀNH ẤM :
1. Chấp không nguyên nhơn sanh
A Nan, người tu
thiền định khi tưởng ấm hết rồi, thì tâm được minh chánh,
không còn khởi các vọng tưởng tham muốn như trên, nên các
Thiên ma không gặp dịp thuận tiện để nhiễu hại nữa. Lúc bấy
giờ hành giả tự nghiên cứu nguồn gốc của muôn loài, rồi sanh
ra hai lối chấp:
a/ Vì chỉ thấy biết
được chúng sanh từ tám vạn kiếp trở lại, ngoài tám vạn kiếp
thì mù mịt không thấy biết, nên sanh ra chấp: «Chúng sanh từ
tám vạn kiếp trở lại tự nhiên có, không có nguyên nhơn
sanh».
b/ Hành giả nghiên
cứu chỉ thấy người sanh ra người, chim sanh ra chim, quạ từ
hồi nào đến giờ vẫn đen, không phải do nhuộm mà đen, cò từ
hồi nào đến giờ vẫn trắng, không phải do rửa mới trắng
v.v... từ tám vạn kiếp đến nay đã vậy, thì từ đây về sau
cũng thế. Hành giả tự nghĩ ta từ hồi nào đến giờ không thành
Bồ-đề, thì về sau đâu lại có thành Phật, rồi khởi ra tà
chấp: «Các vật tượng ngày nay đều không có nguyên nhân». Bởi
mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh tri kiến, sanh ra hai lối chấp
trên, nên đều đọa về ngọai đạo.
2. Bốn món chấp thường
A Nan, người tu
thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, tâm được minh chánh, nên
ngọai ma không còn thuận tiện để nhiễu hại được. Khi đó hành
giả tham cứu tột cội gốc của muôn loài, khởi ra bốn món chấp
thường:
a/ Chấp hai vạn
kiếp thuờng. – Vì hành giả nghiên cứu cùng tột cả tâm và
cảnh đều vô nhơn, vì sức tu chỉ biết được chúng sanh sanh
diệt xoay vần từ hai vạn kiếp trở lại không mất, nên chấp
cho là thường.
b/ Chấp bốn vạn
kiếp thường. – Hành giả tham cứu cùng tột tánh của tứ đại
thường còn, do sức tu tập chỉ biết được chúng sanh từ bốn
vạn kiếp trở lại, tuy có sanh diệt, mà bản thể nó vẫn thuờng
còn thường không mất, nên chấp là thuờng.
c/ Chấp tám vạn
kiếp là thuờng. – Hành giả tham cứu cùng tận tám thức, thấy
nó thường hằng. Vì thấy từ tám vạn kiếp trở lại chúng sanh
xoay vần không mất, nên chấp là thuờng.
d/ Chấp cái không
sanh diệt là thường. – Người tu thiền định khi các tưởng ấm
sanh diệt đã hết, nhơn đó khởi tâm chấp cái không sanh diệt
là thuờng.
A Nan, người tu thiền định, do mất chánh kiến, mê mờ tánh
Bồ-đề, khởi ra bốn món chấp thường trên, nên đều đọa về
ngọai đạo.
3. Chấp một phần thường, một phần vô thường
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, nghiên cứu cùng tột
cội gốc của sanh lọai, rồi khởi ra bốn lối chấp điên đảo:
a/ Chấp tâm là
thường, chúng sanh vô thường. – Hành giả khi quán tâm mình
yên lặng khắp cả mười phương, các chúng sanh từ trong tâm
mình tự sanh và tự chết, rồi chấp tâm ta là thường, chúng
sanh vô thuờng.
b/ Chấp thế giới,
những chỗ bị họai là vô thuờng, những chỗ không bị họai là
thuờng. – Người tu thiền định quán sát cả mười phương thế
giới, chỗ kiếp họai (như từ Tam thiền trở xuống bị tam tai
làm hại) thì chấp là vô thường ; những chỗ không họai thì
chấp là thường (từ Tứ thiền trở lên, tam tai không làm họai
được, chấp cho là cứu cánh Niết-bàn).
c/ Chấp cái tâm là
thường, còn sanh tử là vô thuờng. – Người tu thiền định,
quán sát tâm mình không biến đổi, nó nhỏ nhiệm tinh vi như
hạt bụi và lưu chuyển cả mười phương, lại khiến cho thân này
sanh và diệt mà nó không biến đổi; nên chấp cho: «Tâm là
thường; tất cả các vật đều từ tâm sanh ra, có sanh tử nên vô
thường».
d/ Chấp hành ấm
thường ; sắc, thọ, tưởng là vô thường. – Người tu thiền
định, khi thấy sắc, thọ, tưởng ba ấm trước đã diệt, nên chấp
là vô thường, thấy hành ấm lưu chuyển thường còn nên chấp là
thường.
Bốn lối chấp trên,
đều sai lầm cả, do mê muội tánh Bồ-đề, mất chánh kiến, nên
đọa về ngọai đạo.
4. Chấp có bốn món biên giới
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết rồi, thấy được cùng
tột cội gốc của sanh lọai, lúc bấy giờ khởi ra bốn lối chấp
có biên giới:
a/ Chấp ba đời. –
Người tu thiền định, lúc bấy giờ chấp tâm niệm hiện tại
tương tục (hành ấm) là vô biên, còn quá khứ và vị lai là hữu
biên.
b/ Chấp chúng sanh.
– Người tu thiền định vì chỉ thấy được chúng sanh trong tám
vạn kiếp, nên chấp là hữu biên ; còn trước tám vạn kiếp thì
tịch mịch không thấy và cũng không nghe, nên chấp là vô
biên.
c/ Chấp tâm tánh. – Người tu thiền định khi thấy tâm mình
biến khắp và biến ra tất cả người, nên khởi lên chấp tâm ta
vô biên. Còn tất cả người đều ở trong tâm ta, là hữu biên.
d/ Chấp sanh diệt.
– Người tu thiền định khi cùng tột hành ấm, thấy được tâm
mình, sanh tâm chấp tất cả chúng sanh và thế giới đều có
phân nửa sanh và phân nửa diệt; sanh là hữu biên, diệt là vô
biên.
Các lối tà chấp
trên, đều do trong khi tu thiền mất chánh kiến, mê mờ tánh
Bồ-đề, nên đều đọa về ngọai đạo cả.
5. Bốn món luận nghị rối lọan không có nhứt định
Người tu thiền định, khi tưởng ấm hết, liền khởi ra bốn lối
chấp điên đảo không nhất định:
a/ Chấp tám món
cũng. – Người tu thiền định, khi quán sát nguồn gốc biến hóa
của muôn vật, thấy có chỗ thì biến đổi, có chỗ lại thường
còn ; có cái sanh, có cái diệt ; có pháp tăng, có vật giảm,
có cái có, có cái không. Bởi thế nên có ai đến hỏi đạo thì
nói rằng: «Cũng biến, cũng hằng, cũng sanh, cũng diệt, cũng
tăng, cũng giảm, cũng có, cũng không». Lúc nào cũng nói rối
lọan như vậy, làm cho người không hiểu chi cả.
b/ Chấp duy cái
«không». – Người tu thiền định, vì quán cả tâm và pháp đều
không ; rồi cứ chấp ở nơi cái «không». Có ai đến hỏi đạo thì
họ chỉ đáp một chữ «không»; ngoài cái «không» ra thì không
còn nói chi nữa cả.
c/ Chấp duy cái
«có». – Người tu thiền định, do quán sát tâm mình biến khắp
tất cả, chỗ nào cũng có, rồi cứ chấp ở nơi cái «có». Có ai
đến hỏi đạo, thì họ chỉ nói một chữ «có»; ngoài cái «có» ra
thì không còn nói gì nữa cả.
d/ Chấp «cũng có»
và «cũng không». – Người tu thiền định vì thấy ở nơi cảnh đã
lăng xăng, còn tâm thì rối lọan, nên có người đến hỏi đạo
thì đáp rằng: «cái cũng có» cũng tức là «cái cũng không»;
trong cái «cũng không» cũng tức là cái «cũng có». Lúc nào họ
cũng nói rối lọan như vậy, không ai gạn cùng được.
Người tu thiền định
vì mất chánh kiến mê mờ tánh Bồ-đề, khởi ra các lối chấp như
vậy, nên đều đọa về ngọai đạo.
6. Chấp mười sáu tướng có
Người tu thiền định khi tưởng ấm hết, chỉ còn hành ấm diêu
động, họ thấy một nguồn sống vô tận, nên sanh tâm chấp cho
«chết rồi còn tướng».
Chấp về sắc uẩn có
bốn: a) chấp sắc uẩn là «ta», b) chấp «ta» có sắc uẩn, c)
chấp sắc uẩn thuộc nơi «ta», d) chấp «ta» ở nơi sắc uẩn.
Còn Thọ, tưởng,
hành mỗi uẩn cũng đều có bốn lối chấp như vậy, cộng thành
mười sáu tướng. Hoặc chấp phiền não và Bồ-đề hai tánh thật
có, hết phiền não mới được Bồ-đề; hai tánh không chung gặp
nhau.
Vì hành giả trong
lúc tu thiền, mất chánh tri kiến, mê mờ tánh Bô-đề, khởi ra
các lối tà chấp trên, nên đều đọa về ngọai đạo.
7. Chấp tám món vô tướng
Người tu thiền định khi sắc, thọ, tưởng đã diệt rồi, lúc bấy
giờ thấy thân hình hiện tiền đây còn không thật có, thì khi
chết rồi làm gì có các hình tướng. Vì so sánh như vậy, nên
chấp chết rồi không có hình tướng.
Chấp sắc ấm như vậy thì thọ, tưởng, hành cũng như vậy (chấp
hiện tại và vị lai đều không tướng), thành ra tám món vô
tướng. Hoặc chấp Niết-bàn chỉ có cái tên suông, không có
nhơn quả, rốt ráo đọan diệt.
Vì hành giả mê mờ
tánh Bồ-đề, mất chánh tri kiến, khởi ra các lối tà chấp như
vậy, nên đều đọa về ngọai đạo.
8. Chấp tám món cu phi
Người tu thiền định, đối với ba ấm: sắc, thọ và tưởng, trước
kia thấy có mà nay lại không; còn đối với hành ấm thiên lưu
hiện nay thì có mà về sau lại không. Vì họ chấp mỗi ấm đều
có hai tướng: chết rồi phi hữu và phi vô; cả bốn ấm thành ra
tám tướng, Bởi hành giả mê mờ tánh Bồ-đề, mất chánh tri kiến
nên đọa về ngọai đạo.
9. Chấp năm món đọan diệt
Người tu thiền định, khởi ra các chấp: cõi dục thì «sắc
thân» diệt hết; cõi Sơ thiền các «dục» diệt hết; cõi Nhị
thiền các «khổ» diệt hết, cõi Tam thiền các «vui» diệt hết ;
cõi Tứ thiền các «xả» diệt hết.
Như vậy xoay vần
cùng tột cả năm chỗ đều chấp hiện tiền tiêu diệt, diệt rồi
không sanh trở lại. Vì hành giả mê mờ tánh bồ-đề, mất chánh
tri kiến, sanh các lối tà chấp như vậy, nên đọa về ngọai
đạo.
10. Chấp năm món Niết-bàn hiện tại
Người tu thiền
định, khi thọ ấm hết, xét cùng cội gốc của sanh lọai, khởi
ra chấp năm chỗ Niết-bàn: a) Chấp dục giới là cảnh Niết-bàn,
b) Chấp cõi Sơ thiền là Niết-bàn, c) Chấp Nhị thiền là
Niết-bàn, d) Chấp tam thiền là Niết-bàn, e) Chấp cõi Tứ
thiền là Niết-bàn.
Vì ành giả mê muội
tánh Bồ-đề, chấp năm cảnh vui cõi trời hữu lậu mà cho là Vô
vi Niết-bàn, nên đọa về ngọai đạo.
Tóm lại
A Nan, mười cảnh ma về hành ấm này, là do hành giả
dụng tâm sai lầm nên mới sanh ra như vậy. Vì hành giả mê mờ
không biết, tự cho là chứng Thánh, sanh đại vọng ngữ, nên
đọa vào ngục vô gián. Vây các ông nên đem các việc ma này
truyền dạy cho chúng sanh đời sau, chớ để cho người tu thiền
bị tâm ma khởi lên làm hại đến thế. Các ông phải bảo hộ
người tu hành đi thẳng đến đạo Bồ-đề, chớ để cho họ gặp con
đuờng chia tẽ.
II. MƯỜI MÓN MA VỀ THỨC ẤM:
1. Chấp minh đế
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chỉ còn thức ấm, các
tướng sanh diệt đã hết, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa
hiện bày. Lúc bầy giờ nếu hành giả móng tâm chấp là chơn
thường, thì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, thành bạn bè
với phái ngọai đạo Ta-tỳ-ca-la, chấp minh đế (sơ tướng
A-lại-da) là cái chỗ trở về của vạn vật trái với thành
Niết-bàn, đọa về ngọai đạo.
2. Chấp năng sanh
Người tu thiền định khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã
diệt, mà tâm thanh tịnh tịch diệt chưa hiện, khi đó thấy
thức tâm mình châu biến, rồi khởi ra cái chấp: «Tất cả chúng
sanh đều do ta sanh ra». Vì sanh tâm chấp như thế,nên mất
chánh kiến, mê lầm tánh Bồ-đề, thành bà con của trời
Đại-ngã-mạn (Mê-hê-thủ-la-thiên).
3. Chấp chơn thường
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thức ấn hiện ra, rồi
sanh tâm nghi: Thân mình và mười phương hư không đều từ thức
kia hiện ra, nên sanh tâm chấp cho «Thức là chơn thường»,
mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, thành bè bạn của trời Tự
tại.
4. Chấp cây cỏ cũng đều biết
Người tu thiền định khi hành ấm hết, tướng sanh diệt đã
diệt, chơn tâm tịch diệt chưa hiện bày, lúc bấy giờ thức ấm
biến khắp tất cả, rồi sanh tâm chấp: «Mười phương cây cỏ
cũng đều là hữu tình, cùng với người không khác. Cỏ cây chết
làm người, người chết trở lại làm cỏ cây». Mê mờ tánh Bồ-đề,
mất chánh kiến, nên sẽ làm bè bạn với hai chúng ngọai đạo
Bà-tra và Tán-ni, chấp tất cả vạn vật đều có tri giác
(biết).
5. Chấp tứ đại hóa sanh
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chơn tâm chưa hiện, lúc
bấy giờ thấy lửa sáng, nước trong, gió động, đất cứng, do
bốn món này sanh ra các vật, rồi chấp cho là thường còn, hết
lòng cung kính phụng thờ. Như ông Ca Diếp Ba và phái
Bà-la-môn thờ lửa, thờ nước v.v... để cầu ra khỏi sanh tử,
mê mờ tánh Bồ-đề, mất cáhnh kiến, đọa làm ngọai đạo.
6. Chấp hư vô
Người tu thiền định khi hành ấm hết, thấy thức ấm viên minh,
rồi sanh ra chấp cái thức ấm hư vô, là chỗ nương của muôn
vật, tất cả các vật đều về chỗ hư vô. Vì vậy mà mất chánh
kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, nên thành bè bạn với trời Vô tưởng,
Tứ không và thần Hư không.
7. Tham cầu sống lâu
Người tu thiền định khởi tâm tham cầu thân này thường còn,
cố làm cho thân này được sống hoài không chết, nên thành bè
bạn của tiên A Tư Đà, cầu mạng sống lâu, mê mờ tánh bồ-đề,
mất chánh kiến, đọa về ngọai đạo.
8. Tham luyến cảnh dục
Người tu thiền định khi hành ấm hết, lúc bấy giờ thấy thân
thể và thức tâm tiêu diệt, cho nên sanh tâm lưu luyến lại
cảnh trần, tự biến hóa ra nhiều cảnh báu đẹp và nhiều mỹ nữ,
rồi mặc tình vui thú. Vì mất chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề,
nên thành bè bạn của Thiên ma ở cõi trời Tự tại (trên đảnh
cõi Dục).
9. Định tánh Thinh-văn
Người tu thiền định khi hành ấm hết, các tướng sanh diệt đã
diệt, mà chơn tâm tịch diệt chưa viên, lúc bấy giờ khởi tâm
tham luyến ở chỗ không tịch, chẳng muốn tăng tiến, vì mất
chánh kiến, mê mờ tánh Bồ-đề, đọa về hàng Định tánh
Thinh-văn, như ông Vô Văn Tỳ-kheo, sanh tâm tăng thượng mạn.
10. Định tánh Duyên-giác
Người tu thiền định khi hành ấm hết, chỉ thấy một màu thanh
tịnh sáng suốt, lúc bấy giờ sanh tâm chấp cho đó là
Niết-bàn; rồi tham trước cảnh này, không cầu tăng tiến, mê
mờ tánh Bồ-đề, mất chánh kiến, nên đọa về hàng Định tánh
Duyên-giác.
Tóm lại
A nan, mười
món ma này, do người tu thiền, khi dụng tâm phá trừ thức ấm,
nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Vì mất chánh tri kiến,
mê lầm tánh Bồ-đề, khởi tâm chấp trước, cho mình đặng thiền,
đặng đạo, thành Phật, thành Thánh v.v... có người sanh ra
diên cuồng, nên đều đọa về ngọai đạo cả.
Vậy các ông phải
giữ gìn nơi lòng, vâng lời Ta dạy: Sau khi Ta diệt độ rồi,
các ông phải đem lời Ta dạy đây mà truyền dạy cho chúng sanh
đời sau, bảo hộ người tu hành, chớ để cho chúng ma làm hại.
Trên đường tu hành họ được thẳng vào chỗ tri kiến của Phật
chẳng gặp các đường tẽ.
Này A Nan, người
trong khi tu thiền, gặp ma nó biến hiện ra nhiều cảnh rất là
vi tế, nếu các ông hiểu biết, rửa sạch tâm cấu nhiễm, chẳng
khởi tà kiến, thì cảnh ma kia lần lần tiêu diệt, các ông sẽ
thẳng đến đạo Bồ-đề.
Còn như đời sau, có
chúng sanh nào chẳng dám tu thiền, sợ bị các ma nhiễu hại,
thì ông nên khuyên họ nhất tâm trì chú Lăng Nghiêm này, để
các ma chướng kia không thể hại được, rồi cũng thẳng đến
được đạo Bồ-đề.
Khi Phật nói Kinh
này rồi, toàn cả hội chúng, nào là: Tăng, Ni, thiện nam, tín
nữ, trời, người, thần A-tu-la, Thánh, Tiên, quỉ thần,
Thinh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, tất cả đều hoan hỷ lễ Phật
rồi trở lui.
LƯU Ý
Quý Phật tử đọc hết đọan ngũ ấm ma này rồi, từ đây về sau,
trên đường tu hành cần phải thận trọng, chớ nên gặp chi tin
nấy, mà nguy hiểm cho mình về hiện tại cũng như tương lai.
Chúng tôi thấy
trong giới Phật tử, phần đông là hàng phụ nữ (xin lỗi quý
bà) lòng tin tưởng dồi dào lắm! Mỗi khi thấy một việc gì lạ
thường, có tính cách thần kỳ huyễn hoặc, không chịu bình tâm
suy xét chơn hay ngụy; cứ cho đó là Phật thị hiện hay Bồ-tát
giáng thế v.v... rồi rủ nhau tin tưởng theo càn, say mê như
người nghiện thuốc, rủ nhau theo rất đông cho đến đỗi như cả
phong trào. Như những việc trước mắt... mà quý vị đã thấy
vừa qua... kết cuộc rồi thế nào quý vị đã biết rõ... Thật
nguy hại vô cùng! Nếu lỡ một phen bước vào đường tà rồi, thì
trăm kiếp ngàn đời khó trở lại.
Tôi xin dẫn một vài
bằng chứng trong Kinh, để quý vị xem qua, đặng cẩn thận
những điều nguy hiểm trong lúc tu hành.
Thuở xưa, Tổ Ưu Bà
Quật Tôn giả đang nhập định, bị Thiên ma Ba tuần khuấy
nhiễu... Đến khi xuất định, ngài dùng thần thông hàng phục
được Thiên ma. Sau khi chúng đã hối ngộ quy y Tam bảo rồi,
vì cảm hồng ân tế độ của Tổ sư, nên đến xin cúng dường ngài
một bữa cơm để tỏ lòng tri ân.
Tổ sư dạy: - «Ta vì
chuyên lo tu hành không giờ rảnh để đi thụ trai. Ta chỉ muốn
xem một việc, nếu ngươi bằng lòng, thế là đền ơn cho ta
rồi». Thiên ma: - «Dạ, đệ tử xin vâng». Tổ sư dạy: - «Khi
Phật ra đời đã có ngươi: vậy trong lúc đó Phật cùng các vị
Thánh chúng như thế nào? Hôm nay ngươi hóa hiện lại cho ta
xem thử». Thiên ma thưa: - «Con xin vâng lời Tổ sư dạy.
Nhưng khi con hóa hiện ra Phật, xin Tổ sư nhớ đừng lạy, vì
sợ tổn phước con nhiều». Tổ sư hứa lời.
Thiên ma ba tuần
liền biến mất, trong giây phút hóa hiện ra Đức Phật, thân
vàng rực rỡ, đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, hào quang sáng
chiếu khắp cả một góc trời, trong rừng từ từ đi ra. Nào là
ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, A Nan, Ca Diếp đứng hầu hai
bên oai nghi tề chỉnh đủ cả 1.250 vị đệ tử, rần rộ theo
sau...
Tổ Ưu Bà Quật Tôn
giả thấy Phật đi đến phóng hào quang rực rỡ, các vị Thánh
chúng theo hầu, oai nghi tề chỉnh v.v... nên hết sức vui
mừng, liền đứng dậy kính lễ, mà quên hẳn lời hứa trước kia.
Lúc bấy giờ Thiên ma biến mất.
Phật tử chúng ta
xem qua đọan này, nên xét nghĩ: Như Tổ Ưu Bà Quật Tôn giả đã
biết trước là ma hiện ra Phật và có hứa hẹn trước «không
lạy», mà đến khi ma hiện ra còn quên, không phân biệt là ma
hay Phật. Nếu chúng ta tình cờ gặp cảnh ngộ như thế, thử
nghĩ trong tâm chúng ta thế nào?
Bởi thế trên đường
tu hành, lúc nào chúng ta cũng phải cẩn thận cho lắm, chớ
nên thấy cái gì lạ, không chịu suy xét kỹ, cứ nhắm mắt theo
càn, ùa nhau tin tưởng cho là Thần, Thánh thật. Lỡ một phen
sa vào đường tà rồi, thì trăm kiếp ngàn đời khó trở lại.
Chúng ta nên nhớ rằng: cái gì thiệt thì nó vẫn thiệt, dù
mình tin hay không tin nó cũng không mất. Còn cái gì giả thì
ồ ạt trong một thời gian mà thôi, nếu người không tin thì nó
sẽ tự tiêu diệt.
Phật dạy các đệ tử:
«Không nên thấy Phật cứ theo, nghe lời Phật nói cứ tin; mà
phải luôn luôn suy nghĩ, nếu đúng chơn lý sẽ tin theo». Phật
dạy như thế, để cho các Phật tử khỏi bị tà ma ngọai đạo dối
gạt.
Trong Kinh Kim Cang
Phật dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thinh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như lai
Đại ý đoạn này Phật
dạy: Nếu người nào cho rằng thấy sắc thân của Phật có 32
tướng tốt, là thấy được Phật, thì ông Chuyển Luân Thanh
Vương cũng có đủ 32 tướng tốt, hoặc ma nó hiện ra sắc thân
Phật có đủ tướng tốt, vậy cũng là Phật hay sao? – hay nghe
tiếng nói pháp thanh tao của Phật mà cho là nghe được tiếng
Phật, thì tiếng chim Ca-lăng-tần-già, kêu rất thanh tao lảnh
lót, vậy cũng là tiếng nói của Phật hay sao? Những người tin
tưởng như vậy, là theo tà đạo, không bao giờ thấy được Phật.
Phật thường nhắc
nhở dặn dò các đệ tử: Phải dùng giáo lý chơn chánh dạy
người. Khi người hiểu được chơn lý rồi tin theo, thì lòng
tin đó mới được chơn chánh. Phật cấm các đệ tử không cho
dùng phép thần thông hay phép lạ để cảm hóa người. Chỉ trừ
một vài trường hợp hàng phục Ngọai đạo hoặc quỉ thần; vì sợ
sau này Thiên ma ngọai đạo dùng thần thông hay phép lạ làm
mê hoặc người.
Vì thế nên Phật
không từ trên hư không rớt xuống, hay tự nhiên xuất hiện; mà
Ngài lại thị hiện cũng như người, lớn lên có vợ con, rồi đi
tu và thành đạo v.v… để cho chúng sanh sau này, đừng tin
tưởng những điều huyễn hoặc thần kỳ.
Khi Phật còn trụ
thế, có người đàn việt đem dâng cái bình bát cho chư tăng,
lại để trên đầu một cây cột phướn cao, và thưa rằng: “Nếu vị
nào lấy được tôi sẽ cúng cho”.
Khi đó ông Tân Đầu
Lô Phã Đọa Xà Tôn giả, dùng thần thông lấy cái bình bát ấy.
Ông bị Phật quở trách rất nghiêm khắc, và phạt ông phải ở
lại thế gian ứng cúng, làm phước điền cho chúng sanh, không
được nhập diệt. Và Phật còn chế ra giới luật cấm các đệ tử
không được dùng thần thông hay phép lạ trước người phàm phu.
Trong kinh cũng có
chỗ nói, các Đức Phật và Bồ-tát thỉnh thỏang thị hiện ra đời
để hóa độ chúng sanh, như Đức Di Lặc hay Ngài Quán Thế Âm
v.v… Nhưng khi các Ngài hiện ra không ai biết được, chỉ trừ
đến khi tịch diệt, các Ngài mới để lại vài di tích. Chừng đó
người đời mới biết Phật hay Bồ-tát thị hiện; khi biết thì
không còn thấy các Ngài nữa.
Như Đức Di Lặc
bồ-tát hiện thân làm vị Bố đại Hòa thượng. Ngài thường xách
bị lớn bằng vải, đi khắp đó đây để hóa độ chúng sanh, mà
người đời không ai biết, chỉ gọi Ngài là vị Bố đại Hòa
thượng(₁). Đến khi thị tịch, Ngài nói một bài kệ, lúc bấy
giờ người ta mới biết là Đức Di Lặc Bồ-tát hiện thân.
Bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc,
Hóa thân thiên bách ức,
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân giai bất thức.
Nghĩa là: Di Lặc
thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn muôn ức thân hình; thường
thường thị hiện độ người, mà người đời chẳng ai biết.
(1) Bố đại Hòa thượng
là vị Hòa thượng tay cầm cái đãy lớn bằng vải. Người mập
bụng to, sắc mặt thường hoan hỷ. Hiện nay ở các chùa phần
nhiều đều có thờ Ngài, người đời thường gọi là Đức Di Lặc.
III. KẾT LUẬN
Đại ý toàn cả bộ
kinh này, Phật dạy chúng sanh phải trở về với thể tánh chơn
tâm thường trụ, đồng với ý nghĩa như trong Kinh Pháp Hoa:
«Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến».
Phật đã dạy cho
chúng ta biết rằng: Chư Phật và chúng sanh cũng đồng một bản
thể chơn tâm không khác. Vì chúng sanh mê muội thể tánh chơn
tâm này, nên phải chịu sinh tử luân hồi; còn chư Phật đã ngộ
chơn tâm nên được tự tại giải thoát. Vì vậy mà Phật dạy: «Ta
là Phật đã thành, còn các chúng sanh là Phật sẽ thành».
Nguyên nhân Phật
nói Kinh này, là do ngài A Nan thị hiện mắc nạn, bị nàng
Ma-đăng-già bắt. Sau khi nhờ Phật cứu độ được thoát nạn rồi,
ngài mới cầu Phật chỉ dạy cho phương pháp nào mà mười phương
các Đức Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả.
Nhơn đó Phật nói
Kinh Lăng Nghiêm, để chỉ rõ chơn tâm. Nếu giác ngộ được chơn
tâm là được thành Phật. Đó là một con đường tu duy nhứt của
chư Phật quá khứ, hiện tại cũng như vị lai.
Trước khi chỉ chơn
tâm thì Phật gạn hỏi cái tâm theo thường tình chúng sanh
vọng chấp. Bảy đọan hỏi tâm làm cho ngài A Nan cùng đường
tột lối; lúc bấy giờ Phật mới từ từ chỉ cái tâm đến sáu lần.
Ban đầu Phật tạm chỉ các giác quan về phần trực giác như
thấy, nghe v.v... là tâm. Khi A Nan và đại chúng đều hiểu
rồi, Phật lại chỉ lên một từng nữa: «Các giác quan tuy không
phải vọng, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm, nó cũng như mặt
trăng thứ hai v.v...» Phật lại chỉ cái Bản thể sanh ra các
giác quan (hiện tượng) mới thật là chơn tâm. Tức là ở về
đọan, trong văn kinh chữ Hán chép: «Kiến kiến chi thời, kiến
phi thị kiến, kiến du ly kiến, kiến bất năng cập v.v...».
Phật dạy: Vì các
ông còn ở trong vòng mê, nên chỉ gọi là giác quan: Thấy,
nghe, hay, biết của chúng sanh; đến khi ngộ rồi thì gọi là
bốn đức Niết-bàn của Phật: thường, lạc, ngã, tịnh. Và Phật
dạy: Tất cả các pháp đều từ tâm biến hiện, như năm ấm, sáu
nhập, mười hai xứ, mười tám giới và bảy đại đều do tâm sanh
ra, rồi cũng trở về thể tánh chơn tâm. Thế là Ngài dẫn cái
tướng qui về chơn tánh.
Đến đọan này ngài A
nan mới ngộ được chơn tâm, nên đứng dậy lạy Phật và xứng
theo thể tánh chơn tâm rộng lớn mà phát lời thệ nguyện rộng
sâu vô tận.
Ngài nguyện rằng:
«Trong đời ngũ trược tội ác, con thề vào trước để độ chúng
sanh; nếu còn có một chúng sanh nào chưa thành Phật thì con
thề chẳng lãnh quả vui Niết-bàn...» Và câu «Hư không kia có
thể tiêu hết, chớ chí nguyện của con đây không hề lay
chuyển». Cũng vì ngộ được đồng thể chơn tâm, nên ngài mới
phát lời thệ nguyện rộng lớn như thế.
Mình đã được độ,
muốn cho chúng sanh cũng đều được độ, nên ngài A nan cầu
Phật chỉ dạy phương pháp tu hành cho chúng sanh đời sau:
Phật dạy có ba việc:
1.-
Khi đối cảnh không khởi vọng niệm phân biệt theo vọng trần;
tức là câu «bất tùy phân biệt». Nghĩa là, xoay các giác quan
như thấy, nghe, hay, biết đều trở về thể tánh chơn tâm. Nếu
vọng niệm không khởi thì chơn tâm hiện bày, đây là một pháp
tu trực chỉ của bậc thượng căn.
2.- Phật dạy trì giới. Nhơn trì giới tâm đuợc thanh tịnh,
nhờ tâm tịnh mới phát sanh ra trí huệ, để phá trừ vô minh.
Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày. Nhưng trong Kinh này
nói trì giới là chỉ cho tâm giới. Nghĩa là thân đã không
sát, đạo, dâm, vọng cho đến cái «biết mình đã đọan trừ» cũng
không còn. Thật là cao siêu vô cùng, khó khăn tột bực. Vì
nếu tâm còn móng một tý vọng niệm gì, thế là tâm chưa tịnh.
Nếu tâm chưa tịnh thì giới thể chưa viên.
3.- Phật dạy, nếu
người nào nghiệp chuớng nặng nề, thì nên chí tâm trì tụng
chú Lăng Nghiêm, dù nghiệp chướng nặng đến đâu cũng lần lần
tiêu hết, phước lành tăng trưởng, sẽ thành đạo Bồ-đề; như
thuận gió tung bụi chẳng có khó khăn gì.
Trên đường tu hành,
Phật dạy phải trải qua các địa vị như: Thập tín, Thập trụ,
Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và Đẳng
giác là năm mươi lăm vị rồi đến quả Phật.
Trong khi tu thiền định lại gặp năm
chục thứ ma (sắc, thọ, tưởng, hành, thức mỗi ấm có mười) nó
biến hiện đủ điều, nào là ma nội tâm, ma ngọai cảnh, đủ cách
nhiễu hại hành giả. Cho đến khi gần thành Phật mà nó cũng
vẫn còn theo phá. Như thái tử Sĩ Đạt Ta, trước giờ phút đại
ngộ, dưới gốc cây Bồ-đề, vẫn còn bị ba người con của Ma
vương tân lực khuấy nhiễu. Đến sao mai sắp mọc Ngài thành
Phật mới hết.
Sau mỗi đọan ma
hiện, Phật đều dạy rằng: «Do hành giả dụng công tu thiền,
nên nó biến hiện ra như vậy, không phải là đặng đạo hay
chứng Thánh, nếu hành giả biết trước thì các cảnh ma kia lần
lần tiêu diệt không hại chi, còn mê lầm không biết, cho mình
đặng đạo hay chứng Thánh, sanh tâm chấp trước, thì bị ma nó
cám dỗ, rồi phải đọa vào đuờng tà, làm quyến thuộc của ma.
Bởi thế, nên người
tu hành cần phải thận trọng, chớ nên gặp chi tin nấy mà bị
ma cám dỗ, rất nguy hiểm cho đời mình về hiện tại cũng như
vị lai.
Phật nhắc đi nhắc
lại nhiều lần, bảo các đệ tử: «Nên đem lời Ta nói đây truyền
dạy cho chúng sanh đời sau, khiến cho mọi người đều biết rõ,
để tránh khỏi bị ma nhiễu hại, trên đường tu hành được thẳng
đến đạo Bồ-đề».
Phật lại thiết tha
kêu gọi các đệ tử: Hôm nay các ông đã được Ta tế độ rồi, vậy
các ông không nên nhập diệt sớm, mà phải nguyện ở lại đời
mạt pháp, để bảo hộ người tu hành đời sau, thế mới là người
biết ơn Phật.
Lòng từ của Phật
thật là vô biên, tế độ chúng sanh không cùng tận, thương
chúng ta như mẹ thương con, dạy dỗ chúng ta như mẹ hiền
khuyên con dại; nhắc đi nhắc lại nhiều lần không biết mỏi.
Thật đúng với câu: «Đại từ đại bi mẫn chúng sanh. Đại hỷ,
đại xả tế hàm thức...».
Phật tử chúng ta
phải làm thế nào để khỏi phụ lòng thương yêu của Từ Phụ, cho
xứng với danh từ « Phật tử ».