|   | 
				
				
					
						
						
						
						
						
						BÀI THỨ TƯ
						
						B. PHẦN 
						CHÁNH TÔN 
						(Tiếp theo)
						
						13. Phật nói công 
						đức trì kinh, nhiều hơn bố thí thất bảo. 
						14. Bốn quả Thinh văn, không nên chấp mình có chứng quả. 
						15. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp". 
						16. Phật phá cái chấp "Bồ Tát thật có làm trang nghiêm 
						cõi Phật". 
						17. Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào". 
						18. Phật phá cái chấp "Thân Phật cao lớn như núi Tu Di".
						 
						
						13. PHẬT NÓI CÔNG 
						ĐỨC TRÌ KINH NÀY NHIỀU HƠN BỐ THÍ THẤT BẢO
						
						Phật 
						hỏi:"Tu Bồ Đề! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại 
						thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem bố thí (tài 
						thí), thì phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch 
						Thế Tôn! Nhiều lắm". 
						
						Phật dạy:" Tu Bồ Đề! Nếu có người 
						thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc vì người giảng nói trọn 
						quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, 
						thì công đức (pháp thí) của người này nhiều hơn người 
						trước. Tại sao vậy? Vì tất cả Phật và Pháp đều từ kinh 
						này mà ra". 
						
						Phật dạy tiếp:" Tu Bồ Đề! Gọi là 
						"Phật, Pháp", thực ra cũng không phải "Phật, Pháp", chỉ 
						tạm gọi là "Phật, Pháp". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đây là lần thứ hai, Phật nói về 
						công đức thọ trì đọc tụng kinh này, nhiều hơn người bố 
						thí thất bảo. 
						
						Đoạn nầy nên chia làm ba phần để 
						giải thích. 
						
						1. 
						So sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí 
						
						Ngọc ngà châu báu là vật rất quý, 
						đã ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được. Nhưng 
						nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một nghìn 
						triệu thế giới nhỏ (đại thế giới) đem ra bố thí, 
						tất nhiên phước đức nhiều lắm. 
						
						Nhưng, nếu có người thọ trì kinh 
						này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa 
						quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì 
						công đức của người sau, lại nhiều hơn người trước. Tại 
						sao vậy? Vì bố thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu cũng 
						chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung 
						sướng nhứt thời mà thôi. Còn bố thí về giáo pháp là giúp 
						về phần tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo lý tu 
						hành, thoát ly sanh tử luân hồi, kiến tánh thành Phật, 
						rồi trở lại độ chúng sanh đều được giải thoát. Bởi thế 
						nên bố thí pháp (tinh thần) tuy ít, nhưng phước 
						đức nhiều hơn bố thí tài (vật chất). 
						
						2. 
						Phật và Pháp đều từ kinh này sanh. 
						
						Kinh này là kinh "Kim Cang Bát 
						Nhã", tức là kinh nói về "Trí huệ Phật". Trí huệ này phá 
						núi vô minh phiền não, nhưng không bị hư hoại, nên gọi 
						là "Kim Cang". 
						
						Nhờ Trí huệ Kim Cang Bát Nhã phá 
						hết vô minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên 
						nói:"Kinh này sanh ra chư Phật". Và sau khi thành Phật 
						rồi, cũng nhờ có Trí huệ Bát Nhã mới nói ra giáo pháp, 
						nên nói "kinh này sanh ra Pháp". 
						
						3. 
						Phá cái chấp "thật có Phật, Pháp". 
						
						Đúng theo "tánh Bát Nhã Chơn 
						không", thì nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, 
						nên không có thể kêu gọi là gì được cả. Nhưng sở dĩ gọi 
						"Phật, Pháp", là một danh từ, đặt ra để gọi tạm mà thôi; 
						thật ra cũng không phải là "Phật, Pháp". Nếu còn chấp 
						"thật có Phật, Pháp" thì không đúng với "Tánh Bát Nhã 
						chơn không", nên Phật dạy:" Gọi là Phật Pháp, thực ra 
						cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp". 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						Bảy món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu 
						ly, ngọc xà cừ, ngọc mã não, ngọc san hô và ngọc hổ 
						phách. 
						
						Đại thế giới: Tức là Đại thiên thế 
						giới. Thế giới chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; 1.000 
						thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới"; 1.000 Tiểu 
						thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; 1.000 
						Trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới". Một 
						Đại thiên thế giới là một nghìn triệu thế giới nhỏ. Thế 
						giới Ta bà là một Đại thiên thế giới. 
						
						Kệ: Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều 
						câu, như thơ tứ cú, bát cú v.v...ở nước ta. 
						
						Thọ trì: Lãnh thọ và hành trì. 
						
						14. BỐN QUẢ THINH 
						VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP MÌNH CÓ CHỨNG QUẢ.
						
						Phật hỏi:"Tu Bồ Đề! Nếu vị Tu đà 
						hoàn tự nghĩ rằng:"Tôi đã đặng quả Tu đà hoàn", nghĩ như 
						thế có được không?" 
						
						Tu Bồ Đề thưa: " Bạch Thế Tôn! 
						Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tu đà hoàn, phải không 
						còn có thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn (Tàu dịch Nhập 
						lưu), thế mới thật là chứng quả Tu đà hoàn". 
						
						Phật hỏi:" Tu Bồ Đề! Nếu vị Tư đà 
						hàm tự nghĩ rằng: "Tôi đã đặng quả Tư đà hàm"; nghĩ như 
						thế có được không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Không 
						thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tư đà hàm, phải không còn có 
						thấy mình có chứng quả Tư đà hàm (Tàu dịch Nhứt lai), 
						thế mới thật là chứng quả Tư đà hàm". 
						
						Phật hỏi:"Tu Bồ Đề! Nếu vị A na hàm 
						tự nghĩ rằng: "Tôi đã đặng quả A na hàm"; nghĩ như thế 
						có đặng không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Không 
						thể được. Tại sao vậy? _ Vị A na hàm, phải không còn có 
						thấy mình có chứng quả A na hàm (Tàu dịch là Bất lai), 
						thế mới thật là chứng quả A na hàm". 
						
						Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Nếu vị A la 
						hán tự nghĩ rằng: "Tôi đã đặng quả A la hán"; nghĩ như 
						vậy có đặng không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Không 
						thể được. Tại sao vậy? _ Vị A la hán, phải không còn có 
						thấy mình có chứng quả A la hán, thế mới thật là chứng 
						quả A la hán. Nếu còn thấy mình chứng quả A la hán tức 
						là còn trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng: ngã, nhơn, 
						chúng sanh và tu hành giả, thì không phải thật chứng A 
						la hán. 
						
						Bạch Thế Tôn! Cũng như con đây, vì 
						con không còn chấp mình có tu chứng, nên mới được Như 
						Lai chứng nhận: "Tu Bồ Đề đã đặng pháp Tam muội vô 
						tránh; Tu Bồ Đề là người ưa tu hạnh tịch tịnh (A lan 
						na); Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục thứ nhứt. Trong 
						chúng, Tu Bồ Đề là hơn hết". 
						
						Bạch Thế Tôn! Nếu con nghĩ (châp 
						rằng: "Con đã đặng quả A la hán, con là vị A_la hán ly 
						dục thứ nhứt v.v...thì Đức Như Lai không chứng nhận và 
						không khen ngợi con như vậy". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, 
						phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh văn, tự thấy mình có 
						chứng quả. 
						
						Trong kinh Tứ thập nhị chương có 
						chép: 
						
						"Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng 
						v.v..." 
						
						Nghĩa là: Tu mà không còn chấp mình 
						tu, thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp mình 
						chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v.... 
						
						Nếu người tu chứng, đúng theo tinh 
						thần của "Kim Cang Bát Nhã", nghĩa là không còn các vọng 
						chấp ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới thật tu và thật 
						chứng. 
						
						Trái lại, nếu còn chấp ngã, pháp 
						hay bốn tướng (ngã, nhơn v.v..) tức là không nhập 
						được "Kim Cang Bát Nhã", thì không phải thật tu và thật 
						chứng. 
						
						Bởi thế nên bốn quả Thinh văn, nếu 
						còn tự thấy mình có chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A 
						na hàm, A la hán, tức là còn chấp ngã (ta chứng đặng) 
						và chấp pháp (quả vị để chứng) thì không nhập 
						được "Kim Cang Bát Nhã", nên không phải là Tu đà hoàn, 
						Tư đà hàm, A na hàm, A la hán. 
						
						Ông Tu Bồ Đề, tự đem mình ra làm 
						thí dụ điển hình. Đại ý ông nói: Nếu ông chấp rằng: "Tôi 
						đã đặng pháp Tam muội và đặng quả A la hán v.v..." tức 
						nhiên ông còn chấp ngã (quả A la hán) chấp pháp 
						(Tam muội), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhã, thì Phật 
						đâu có ấn chứng cho ông là vị A la hán ly dục thứ nhứt 
						v.v.... 
						
						Ngài Phó Đại sĩ nói bài tụng giải 
						thích rằng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Vô sanh tức vô diệt
 
								Vô ngã phục vô nhơn 
								Vĩnh trừ phiền não chướng 
								Trường từ hậu hữu thân 
								Cảnh vong tâm diệc diệt 
								Vô phục khởi tham sân 
								Vô bi không hữu trí 
								Hốt nhiên độc nhậm chơn. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Không sanh cũng 
								không diệt
 
								Không ngã cũng không nhơn 
								Dứt trừ phiền não chướng 
								Không còn có thân sau 
								Tâm cảnh đều vắng lặng 
								Do đâu khởi tham sân 
								Không bi cũng không trí 
								Thế mới nhập Chơn như. 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý 
						
						Nếu không còn các vọng chấp nhơn, 
						ngã, sanh, diệt v.v...thì các phiền não không do đâu mà 
						sanh ra. Phiền não không sanh, tức không tạo nghiệp, nên 
						không bị sanh tử luân hồi. Vì tâm và cảnh đã vắng lặng 
						thì do đâu khởi tâm, sân, si. Cho đến bi và trí cũng 
						không chấp, nên chơn tâm hay chơn như tự hiện bày. 
						
						Tóm lại, vì không còn các vô minh 
						vọng chấp: nhơn, ngã, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v...nên 
						mới chứng đặng chơn tâm thanh tịnh. Như thế mới thật tu 
						và thật chứng. 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						Tu đà hoàn: trong bốn quả Thanh văn 
						của Tiểu thừa, Tu đà hoàn là quả Thánh nhỏ nhứt. Tu đà 
						hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung hoa dịch là "Dự lưu" 
						hoặc "Nhập lưu", nghĩa là mới dự vào dòng Thánh nhơn. 
						
						Tu đà hàm: Quả Thánh thứ hai trong 
						bốn quả Thinh văn. Trung hoa dịch âm của tiếng Phạn, 
						dịch nghĩa là "Nhứt vãng lai"; nghĩa là còn một lần qua 
						cõi nhơn, thiên để tu hành đoạn hoặc, rồi mới chứng đặng 
						quả A la hán. 
						
						A na hàm: Quả Thánh thứ ba trong 
						bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa "Bất 
						lai"; nghĩa là không còn trở lại thọ sanh trong Dục giới 
						nữa. 
						
						A la hán: Quả Thánh thứ tư trong 
						bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, 
						có ba: 
						
						a. Vô sanh: Không còn sanh trở lại 
						ba cõi 
						
						b. Sát tặc: Đã giết hết các giặc 
						phiền não. 
						
						c. Ứng cúng: Xứng đáng cho nhơn 
						thiên cúng dường. 
						
						Do tu nhơn Tỳ kheo có 3 nghĩa, nên 
						chứng quả A la hán cũng có 3 nghĩa: 
						
						Nhơn Phá ác ..... Vô sanh Quả 
						
						Tỳ kheo Bố ma ... Sát tặc A la hán 
						
						Khất sĩ .... Ứng cúng 
						
						TAM MUỘI: Trung hoa dịch âm tiếng 
						Phạn, dịch nghĩa là "Chánh định". 
						
						TAM MUỘI VÔ TRÁNH: Pháp chánh định 
						hơn hết. 
						
						A LAN NA: Trung hoa dịch âm tiếng 
						Phạn, nghĩa là không ồn ào náo nhiệt, vắng vẻ thanh 
						tịnh, giải thoát không bị trần lụy. 
						
						15. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP".
						
						Phật hỏi:" Tu Bồ Đề! Về quá khứ đối 
						với trước Phật Nhiên Đăng, ta có đắc pháp không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Đức 
						Như Lai thật không có "đắc pháp" gì cả". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá trừ cái chấp "Như Lai thật có đắc pháp". 
						
						Kinh chép:"Về quá khứ, vô lượng, vô 
						số kiếp về trước, Đức Thích Ca đối trước Phật Nhiên 
						Đăng, được Ngài truyền chánh pháp và thọ ký, tương lai 
						sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni". 
						
						Nhưng, nếu Như Lai còn chấp mình có 
						"đắc pháp và được thọ ký" tức là Như Lai còn chấp ngã 
						(ta được) chấp pháp (đắc pháp) thì không phải 
						là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế 
						Tôn! Như Lai không có đắc pháp gì cả". 
						
						Vì Như Lai không chấp mình có "đắc 
						pháp" và "thọ ký", nên không mắc vào bốn tướng ngã, nhơn 
						v.v...được nhập Kim Cang Bát Nhã. Như thế mới thật là 
						"đắc pháp" và "được thọ ký". 
						
						16. PHẬT PHÁ CHẤP 
						"BỔ TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CÕI PHẬT".
						
						Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát có làm 
						trang nghiêm cõi Phật không?" 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Bồ 
						Tát không làm trang nghiêm cõi Phật. Tại sao vậy? Bồ Tát 
						làm trang nghiêm cõi Phật, mà không thấy (chấp) 
						mình có trang nghiêm cõi Phật, như thế mới thật là trang 
						nghiêm cõi Phật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá trừ cái chấp "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật" 
						
						Bồ Tát làm các Phật sự, giáo hoá 
						chúng sanh, đó là trang nghiêm cõi Phật. Nhưng, nếu Bồ 
						Tát còn chấp mình có làm Phật sự, giáo hoá chúng sanh, 
						thì Bồ Tát còn tâm nhiễm ô vọng chấp ngã (ta giáo 
						hoá) nhơn (người được giáo hoá). Đem tâm 
						nhiễm ô vọng chấp mà làm "trang nghiêm cõi Phật", thì 
						cõi Phật thành nhiễm ô, không thể "trang nghiêm cõi Phật 
						thanh tịnh" được. 
						
						Trái lại, phải dùng tâm thanh tịnh
						(không còn các nhiễm ô vọng chấp, chấp ngã, chấp pháp 
						v.v...) mà trang nghiêm cõi Phật, thì cõi Phật mới 
						thanh tịnh trang nghiêm được. 
						
						Ngài Xuyên Thiền sư dạy: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Chánh nhơn thuyết tà 
								pháp, tà pháp tất qui chánh
 
								Tà nhơn thuyết Chánh pháp, chánh pháp tất qui tà 
								Giang Bắc thành chỉ, Giang Nam quít. 
								Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Người chánh nói pháp 
								tà, tà pháp trở về chánh
 
								Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành 
								tà. 
								Cũng một cây, nhưng ở Giang bắc thì cây chỉ xát, 
								Giang nam thì thành cây quít. 
								Xuân về đều trổ một thứ hoa. 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý 
						
						Người đem tâm đời (danh, lợi, 
						sân, si v.v...) mà làm việc Đạo (làm các phật sự) 
						thì việc Đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem 
						tâm Đạo (từ bi, hỷ xả v.v...) mà làm việc đời 
						(tiếp xúc làm việc với chúng sanh) thì việc đời trở 
						thành việc Đạo (tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v...) 
						cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang Bắc thì 
						thành cây chỉ xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; 
						còn ở đất Giang Nam thì thành cây quít, trái ngọt. 
						
						Dù việc chánh hay tà, việc đời hay 
						đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay xấu mà 
						thôi. Cũng như cây chỉ xát hay cây quít, Xuân về đều trổ 
						một thứ hoa và một thứ trái; nhưng trái quít thì ngọt, 
						mà chỉ xát lại chua. 
						
						17. PHẬT DẠY: "ĐỪNG 
						SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO"
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Các vị Đại Bồ 
						Tát phải giữ tâm thanh tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ 
						chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc 
						trần và pháp trần. Tóm lại, Bồ Tát đừng khởi vọng tâm 
						trụ chấp một nơi nào cả" (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ 
						tâm). 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Hai đoạn trên phá cái chấp "Như Lai 
						có đắc pháp" và "Bồ Tát có làm trang nghiêm cõi Phật". 
						Đoạn này tóm lại, Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, không 
						nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. 
						
						Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô 
						cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giới là 6 căn, 6 trần 
						và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, còn thức thuộc 
						về tinh thần. 
						
						Phật dạy các vị Bồ Tát, phải giữ 
						tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc (trụ 
						chấp) nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, 
						xúc trần và pháp trần v.v... 
						
						Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật 
						dạy: "Đừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một 
						nơi nào". 
						
						Thuở xưa, ngài Huệ Năng vừa nghe 
						phú ông tụng kinh Kim Cang Bát Nhã vừa đến câu: 
						
						"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" 
						
						Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một 
						nơi nào). 
						
						Ngài liền tỏ ngộ lý Kim Cang Bát 
						Nhã!...Ngài hân hoan ca ngợi: "Hay quá! kinh Kim Cang 
						Bát Nhã hay quá!"(1) 
						
						"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một 
						nơi nào", tức là "đừng sanh vọng tâm chấp ngã, chấp pháp 
						v.v..." không chấp ngã, pháp thì phiền não không sanh. 
						Phiền não không sanh thì tâm được thanh tịnh, không tạo 
						nghiệp sanh tử luân hồi. Đó là phương pháp tu của Đại 
						thừa Đốn giáo, rất giản di và mau chóng, để hàng phục 
						vọng tâm và an trụ chơn tâm. 
						
						Sau khi đại ngộ lý kinh Bát Nhã, Tổ 
						Huệ năng đã minh tâm kiến tánh, nên Ngài có dạy rằng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Hà kỳ tự tánh bổn tự 
								thanh tịnh
 
								Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt 
								Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc 
								Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động 
								Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Ai ngờ tâm mình vốn 
								tự thanh tịnh
 
								Ai ngờ tâm mình vốn không sanh diệt 
								Ai ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ 
								Ai ngờ tâm mình vốn không diêu động 
								Ai ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp 
							 
						 
						
						Đức Ngũ Tổ đến lúc tuổi già, muốn 
						chọn người để truyền Tổ vị, nên Ngài truyền dạy trong 
						chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để trình bày sự tu 
						chứng của mình, nếu người nào tỏ ngộ được lý Đạo, ngài 
						sẽ truyền Tổ vị, làm Tổ thứ Sáu.  
						  
						
						Ngài Thần Tú là bực Thượng toạ, tài 
						đức siêu quần, làm kệ rất hay, nhưng vì chưa tỏ ngộ được 
						lý Kim Cang Bát Nhã, còn trụ chấp các tướng, có tu, có 
						chứng v.v...nên bị Tổ Huệ Năng quở rằng: "Còn đứng ngoài 
						hàng rào". 
						
						Bài kệ của Ngài Thần Tú: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Thân thị Bồ Đề thọ
 
								Tâm như minh cảnh đài 
								Thời thời thường phất thức 
								Vật sử nhá trần ai. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Thân là cây Bồ Đề 
								(có tướng)
 
								Tâm như đài gương sáng (có tướng) 
								Mỗi giờ thường lau quét (có tu) 
								Chớ cho dính bụi trần (có chứng) 
								 
							 
						 
						
						Tổ Huệ Năng, đã ngộ được lý Kim 
						Cang Bát Nhã, không trụ chấp các tướng, nên được đức Ngũ 
						Tổ truyền trao y bát và làm vị Tổ thứ sáu. 
						
						Bài kệ của Tổ Huệ Năng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Bồ Đề bổn vô thọ
 
								Tâm phi minh cảnh dài 
								Bổn lai vô nhứt vật 
								Hà xá nhá trần ai. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Bồ Đề không phải cây 
								(vô tướng)
 
								Chơn tâm không phải đài (vô tướng) 
								Xưa nay không một vật (vô tướng) 
								Chỗ nào dính bụi trần (vô tướng) 
							 
						 
						
						18. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THÂN PHẬT 
						CAO LỚN NHƯ NÚI TU DI"
						
						Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Báo thân của 
						Phật như núi Tu di. Vậy Báo thân của Phật có cao lớn 
						không?". 
						
						Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! 
						Lớn lắm. Nhưng, Phật nói: "Không chấp thân cao lớn, mới 
						thật là cao lớn". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã, 
						phá trừ cái chấp "Báo thân Phật cao lớn". 
						
						Từ trước đến đây, đã nhiều lần hỏi 
						và đáp. Vì muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát 
						Nhã chơn không", cho nên Phật hỏi. Và cũng vì muốn phá 
						các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhã chơn không" cho 
						nên ông tu Bồ Đề đáp. Nếu chúng sanh chấp có, thì Ngài 
						nói không; chúng sanh chấp không, thì Ngài nói có 
						v.v...Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v...đều 
						để phá các chấp của chúng sanh, đem về "Tánh Bát Nhã 
						chơn không". 
						
						Phật hỏi ông tu Bồ Đề: "Báo thân 
						cùa Phật có cao lớn không?". 
						
						Tu Bồ Đề đáp: "Báo thân của Phật 
						cao lớn lắm". 
						
						Nhưng sợ chúng sanh chấp "thân Phật 
						cao lớn", nên ông Tu Bồ Đề liền dẫn lời Phật nói để phá 
						chấp: "Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao 
						lớn". Nghĩa là: Phàm cái gì còn thấy nghe và suy nghĩ 
						được, thì cái đó không phải tuyệt đối; phải siêu thoát 
						ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối. 
						
						Đức Lão tử nói: "Đạo mà có thể nói 
						được, thì không phải là Đạo". 
						
						Tóm lại, nếu còn "chấp thân cao 
						lớn", tất nhiên còn chấp ngã và chấp pháp, thì không 
						nhập được Kim Cang Bát Nhã, nên chưa phải thân cao lớn. 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						BÁO THÂN: Phật có 3 thân: 
						
						1. 
						Pháp thân: tức là Pháp tánh hay chơn tâm, không có hình 
						tướng 
						
						2. 
						Báo thân: Thân do phước báo tu hành, trải qua 3 vô số 
						kiếp mới được. Kinh chép: Báo thân của Phật lớn bằng núi 
						Tu di; duy có bực Bồ Tát mới thấy được. 
						
						3. 
						Ứng thân hay Hoá thân: Phật tuỳ các loại chúng sanh mà 
						ứng hiện hay hoá hiện ra mỗi thân, để tế độ 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 |  | 
					 
					
						
						
						
						
						
						BÀI THỨ NĂM
						
						PHẦN CHÁNH 
						TÔN 
						(Tiếp theo)
						
						19. Thọ trì kinh 
						này phước đức vô lượng 
						20. Công đức của kinh Kim Cang Bát Nhã 
						21. Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật tên kinh 
						22. Phật phá cái chấp "kinh Kim Cang Bát Nhã" 
						23. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp" 
						24. Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới 
						25. Phật phá cái chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là 
						thấy Phật" 
						  
						
						19. THỌ TRÌ KINH 
						NÀY PHƯỚC ĐỨC VÔ LƯỢNG
						
						Phật 
						hỏi: "Tu Bồ Đề! Như trong sông hằng, có vô số cát, rồi 
						lấy mổi một hạt cát, lại dụ cho một sông hằng. Vậy những 
						số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Nhiều 
						lắm. Nếu chỉ tính nhũng sông hằng mà thôi, hãy còn nhiều 
						vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông 
						Hằng". 
						
						Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề! Nếu có 
						chúng sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Đại 
						Thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) để đem bố thí; 
						số đại thế giới này cũng nhiều như số cát trong vô số 
						sông Hằng, thì chúng sanh đó phước đức nhiều không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Nhiều 
						lắm". 
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! ta nay thành 
						Phật bảo ông: Nếu có người thọ trì đọc tụng hay giảng 
						kinh này hoặc trọn quyển hay nữa quyển, cho đến tối 
						thiểu, chừng bốn câu kệ, thì phước đức của người này 
						nhiều hơn người trước". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật nói công đức người 
						thọ trì hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều 
						hơn công đức người bố thí thất bửu (thí tài) đựng 
						đầy trong vô số Đại thế giới, nhiều như số cát trong vô 
						số sông Hằng. Đây là lần thứ ba, Phật tán thán về công 
						đức thọ trì kinh. 
						
						Ngọc ngà châu báu, không ai có 
						nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều châu báu, đựng 
						đầy trrong vô số đại thế giới, đem bố thí, thì phước đức 
						người này không thể nghĩ bàn. 
						
						Nhưng nếu có người thọ trì hay 
						giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nữa quyển, hoặc tối 
						thiểu là bốn câu kệ, thì công đức của người sau nhiều 
						hơn người trước. 
						
						Vì bố thí về châu báu, dầu nhiều 
						đến đâu, cũng chỉ giúp cho người về phương diện vật 
						chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không 
						thể đem hạnh phúc vĩnh viễn cho người được. 
						
						Còn người thọ trì hoặc giảng dạy 
						kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp thí, 
						giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh hưởng 
						sâu rộng hơn. Mình và người được trồng hạt giống Bát 
						Nhã, một ngày sau, không sớm thì chầy, thế nào cũng được 
						nứt mộng nẩy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, 
						rồi hoá độ vô số chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi vì 
						người trì kinh và bố thí pháp, thuộc về phước vô lậu 
						thanh tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố thí vật 
						chất. 
						
						Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Đại sĩ 
						có làm bài tụng như sau: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Bảo mãn tam thiên 
								giới
 
								Tê trì tác phước điền 
								Duy thành hữu lậu nghiệp 
								Chung bất ly nhơn thiên 
								Trì kinh thủ tứ cú 
								Dữ Phật tác lương duyên 
								Dục nhập vô vi hải 
								Tu thừa Bát Nhã thuyền 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Đựng báu đầy Đại 
								thiên
 
								Bố thí trồng ruộng phước 
								Chỉ thành nghiệp hữu lậu 
								Hưởng phước cõi nhơn thiên 
								Trì tụng bốn câu kệ 
								Tạo duyên lành với Phật 
								Muốn vào biển vô vi 
								Phải nương thuyền Bát Nhã. 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý 
						
						Bài tụng này nói, của báu đựng đầy 
						Đại thế giới (một nghìn triệu thế giới nhỏ) đem 
						bố thí làm phước, hành giả chỉ hưởng phước hữu lậu của 
						cõi nhơn thiên. Không bằng người trì tụng bốn câu kệ, để 
						gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát Nhã, 
						dạo chơi biển vô vi, hưởng phước vui vĩnh viễn. 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						Sông Hằng: Tên một con sông bên Ấn 
						Độ. Dài rộng và rất nhiều cát. Mỗi khi Phật thuyết pháp, 
						muốn chỉ cái gì nhiều klhông thể tính được, thì Phật thí 
						dụ "Như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số) 
						
						Đại thế giới: Nguyên văn chữ hán là 
						"Tam thiên đại thế giới", gọi tắt là "Đại thế giới". 
						
						Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thế 
						giới. Nghĩa là năm châu thế giới của chúng ta ở đây là 
						một thế giới nhỏ; nhơn lên 1000 thế giới nhỏ, gọi là 
						"Tiểu thiên thế giới", nhơn lên 1000 tiểu thiên thế 
						giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; nhơn lên 1000 trung 
						thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới"; tức là một 
						nghìn triệu thế giới nhỏ, gọi là một "Đại thiên thế 
						giới". Ngoài Thế giới Ta bà là "một Đại thiên thế giới". 
						Ngoài thế giới Ta bà còn hằng hà sa số Đại thiên thế 
						giới. 
						
						20. CÔNG ĐỨC CỦA 
						KINH KIM CANG BÁT NHÃ
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Những chỗ được 
						giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nữa quyển, cho đến tối 
						thiểu là bốn câu kệ, thì chỗ đó cũng được chư thiên, 
						người và thánh thần đến cúng dường và đều kinh trọng như 
						chỗ chùa ttháp.  
						
						Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề! Nếu chỗ 
						nào thờ kinh này, thì chỗ đó có Phật và có các vị đệ tử 
						tôn quí của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ trì 
						đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu Trí huệ Kim 
						Cang Bát Nhã". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này tiếp theo đoạn trên, nói 
						về công đức quí báu của kinh và khuyên người thọ trì 
						kinh này. Đây là lần thứ tư. 
						
						Đoạn trước (đoạn 13) Phật dạy: 
						"...tất cả Phật và pháp đều từ kinh này mà ra". Bởi thế 
						nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh này, thì chỗ đó 
						như chùa Phật hay tháp Phật, có Phật, có đệ tử tôn quí 
						của Phật; thánh, thần, trời, người đều kinh trọng và 
						cúng dường. 
						
						Vì kinh này rất quý báu như vậy, 
						nên người chí thành thọ trì kinh này sẽ được Trí huệ 
						Phật (Kim Cang Bát Nhã). 
						
						21. ÔNG TU BỒ ĐỀ 
						HỎI PHẬT VỀ TÊN KINH
						
						Lúc bấy giờ ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: 
						"Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gì? Và tại sao chúng con 
						phải phụng trì". 
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Kinh này tên 
						là "KIM CANG BÁT NHÃ Ba la mật"; Vì thế nên các ông phải 
						phụng trì". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đến đây, ông Tu Bồ Đề thỉnh Phật 
						xác định tên kinh và giải thích, tại sao phải phụng trì? 
						Phật trả lời: Kinh này tên "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật"
						(nghĩa đã giải ở đề mục kinh). Vì "Kim Cang Bát 
						Nhã", nên các ông phải phụng trì. 
						
						22. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP VỀ KINH "KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT"
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						Bát Nhã Ba La Mật, tức là không phải Bát Bát Nhã Ba La 
						Mật, thế mới gọi là Bát Nhã Ba La Mật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá trừ cái chấp về kinh "Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật". 
						Nếu hành giả còn vọng chấp "có kinh Bát Nhã và có ta 
						phụng trì", tức là hành giả còn chấp ngã (ta phụng 
						trì) và chấp pháp (kinh Bát Nhã) thì không 
						phải là kinh Bát Nhã và thọ trì Bát Nhã. Phải dẹp trừ 
						hết các vọng chấp ngã, pháp v.v...mới phải thọ trì kinh 
						Bát Nhã. 
						
						Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên 
						kinh, sợ chúng sanh chấp tên kinh, nên Phật liền phá 
						chấp: "Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, không phải Bát Nhã 
						Ba La Mật, thế mới thật là Bát Nhã Ba La Mật". 
						
						23. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"
						
						Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Như Lai có 
						thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Như 
						Lai không có thuyết pháp". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đây là lần thứ hai, Phật phá cái 
						chấp:" Như Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 
						11). 
						
						Tiếp theo đoạn trên, ông Tu Bồ Đề 
						hỏi kinh này tên gì? _ Phật nói kinh này tên là "Kim 
						Cang Bát Nhã Ba la mật". Sợ người chấp: "Như thế Phật có 
						nói pháp Bát Nhã", nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn 
						cái chấp:"Phật có thuyết pháp". 
						
						Nếu hành giả còn vọng chấp: "Phật 
						có thuyết pháp", thì không nhập được "Kim Cang Bát Nhã". 
						Vì ông Tu Bồ Đề đã nhập được lý "Kim Cang Bát Nhã", nên 
						ông trả lời: "Như Lai không có thuyết pháp". 
						
						Muốn cho độc giả rõ thêm đoạn nầy, 
						tôi xin nhắc lại lời giải thích ở đoạn trước thêm một 
						lần nữa: Một hôm ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh dưới gốc 
						cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề 
						hỏi: "Ai rưới hoa?". _ Trời Đế Thích thưa: "Ngài thuyết 
						kinh Bát Nhã hay quá! Con xin dâng hoa cúng dường". 
						
						Ông Tu Bồ Đề nói:"Tôi không nói 
						kinh Bát Nhã". Trời Đế Thích thưa: "Ngài không nói Bát 
						Nhã, con không nghe Bát Nhã". 
						
						Kết luận: "Không nói Bát Nhã và 
						không nghe Bát Nhã", như thế mới thật là "nói Bát Nhã và 
						nghe Bát Nhã". 
						
						Vì ngộ được lý chơn không của kinh 
						Bát Nhã, nên ngài Viên Ngộ Thiền sư có làm bài kệ rằng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm) 
						
							
								- Thập phương đồng tụ 
								hội
 
								Cá cá học vô vi 
								Thử thị tuyển Phật trường 
								Tâm không cập đệ qui. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Mười phương đồng tụ 
								hội
 
								Người người học vô vi 
								Đây là trường thi Phật 
								"Tâm Không" mới được đậu. 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý 
						
						Bài kệ này quan trọng nhứt là hai 
						chữ "Tâm không". Nếu người nào tâm không còn các phiền 
						não vọng chấp ngã, pháp v.v...thì người đó nhập được Kim 
						Cang Bát Nhã, tức là đậu quả Phật. 
						
						24. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI"
						
						Phật hỏi:" Tu Bồ Đề! Những vi trần 
						chứa trong đại thế giới (1 nghìn triệu thế giới nhỏ) có 
						nhiều không? ". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch thế tôn nhiều lắm". 
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						các vi trần, không phải thật vi trần. Như Lai nói thế 
						giới, không phải thật thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới: 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhã 
						phá trừ cái chấp "thật có vi trần và thật có thế giới". 
						
						Phật đã day: "Phàm sở hữu tướng 
						giai thị hư vọng"; nghĩa là: phàm cái gì có hình 
						tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả muôn vật trong 
						vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng đều là 
						hư giả không thật. 
						
						Do hiệp nhiều vi trần (bụi nhỏ) 
						thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế giới. 
						
						Trái lại, do vật lớn nhứt như thế 
						giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không còn chẻ được nữa, rồi 
						tạm đặt tên là vi trần (bụi nhỏ). Vật thế giới 
						hay vi trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của 
						chúng sanh, phân biệt so đo (kể đạt phân biệt) 
						rồi đặt tên như thế này hay như thế khác, chứ không có 
						thật thể. 
						
						Trong bộ Cu xá luận tung lược 
						thích, về trang 210, có chép về vi trần và thế giới, đại 
						ý như sau: Từ vật lớn nhứt là thế giới, rồi chẻ nhỏ thế 
						giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các 
						kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ 
						hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua bay lại). 
						Các thứ bụi này gọi tên là: 
						
						1. 
						Khích du trần: Bụi bay qua các kẻ hở. 
						
						2. 
						Ngưu mao đầu trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. 
						Bụi này do chẻ nhỏ bụi "khích du" mà thành. 
						
						3. 
						Dương mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con dê. Thứ 
						bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành. 
						
						4. 
						Thố mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ 
						bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành. 
						
						5. 
						Thủy trần: Bụi rớt trong nước không ướt, vì quá nhỏ. Thứ 
						bụi này do chẻ nhỏ bụi "Thố mao đầu" mà thành. 
						
						6. 
						Kim trần: Bụi này có thể lọt qua những vàng khối hay sắt 
						dầy hoặc kiếng dầy; do chẻ nhỏ bụi "Thủy trần" mà thành. 
						
						7. 
						Vi trần: Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi "Kim trần" mà thành. 
						
						8. 
						Cực vi trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi này do chẻ nhỏ bụi "Vi 
						trần" mà thành. 
						
						9. 
						Lân hư trần: Bụi gần mé hư không. Thứ bụi này nhỏ nhứt, 
						không thể chẻ nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa thì thành hư 
						không. Bụi này do chẻ bụi "Cực vi" mà thành. 
						
						Rồi trở lại, từ vọng tâm nhỏ như 
						"Lân hư trần" 
						
						Tích tụ 7 Lân hư trần 
						thành một "Cực vi trần" 
						
						....7 cực vi trần thành một 
						"Vi trần" 
						
						....7 Vi trần thành một "Kim 
						trần" 
						
						....7 Kim trần thành một 
						"Thuỷ trần" 
						
						....7 Thuỷ trần thành một 
						"Thố mao đầu trần" 
						
						....7 Thố mao đầu trần thành một
						"Dương mao đầu trần" 
						
						....7 Dương mao đầu trần thành 
						một "Ngưu mao đầu trần" 
						
						....7 Ngưu mao đầu trần thành 
						một "Khích du trần" 
						
						Cứ tích tụ mãi mãi như vậy, thành 
						những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt là "thế 
						giới". 
						
						Tóm lại, chứa nhiều vi trần thành 
						thế giới; chẻ nhỏ thế giới thành ra vi trần. Vì trần và 
						thế giới đều do sự đối đãi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái 
						tên để kêu gọi, chớ không có cái gì là chơn thật. 
						
						Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói 
						về vi trần và thế giới. 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Tích trần thành thế 
								giới
 
								Chiết giới tác vi trần 
								Giới dụ nhơn thiên quả 
								Trần vi hữu lậu nhơn 
								Trần nhơn, nhơn bất thật 
								Giới quả, quả phi nhơn 
								Quả nhơn tri thị quyển 
								Tiêu diêu tự tại nhơn 
								Vọng kế nhơn thành chấp 
								Mê thằng vị thị xà 
								Tâm nghi sanh ám quỉ 
								Nhãn bịnh kiến không hoa 
								Nhứt cảnh tuy vô dị 
								Tam nhơn nãi kiến sai 
								Liễu tư danh bất thật 
								Trường ngự bạch ngưu xa. 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Chứa trần thành thế 
								giới
 
								Chẻ giới hoá vi trần 
								Giới dụ quả nhơn thiên 
								Trần là nhơn hữu lậu 
								Trần nhơn, nhơn không thật 
								Giới quả, quả chẳng chơn 
								Biết quả, nhơn đều huyễn 
								Được tự tại tiêu diêu 
								Vọng thấy dây thành rắn 
								Chấp mê bởi tại tâm 
								Tâm sợ nên ma hiện 
								Mắt nhậm thấy đốn hoa 
								Một cảnh không sai khác 
								Ba người thấy chẳng đồng 
								Ai biết đó là huyễn 
								Tức là bực Đại giác.  
							 
						 
						
						ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 
						
						Bài tụng thứ nhứt nói: chứa vi trần 
						thành thế giới, chẻ thế giới thành vi trần. Thế giới là 
						dụ cho quả nhơn thiên, vi trần là dụ cho nhơn hữu lậu. 
						Nhơn vi trần đã không thật, nên quả thế giới cũng hư 
						vọng. Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, thì sẽ 
						được tiêu diêu tự tại. 
						
						Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ý 
						nói: Vì tánh "Biến kế sở chấp", nên chấp sợi dây là con 
						rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như vì con 
						mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Cũng một 
						cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế sở chấp, 
						y tha khởi và viên thành thật) thấy chẳng đồng. Nếu 
						người được giác ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh 
						không thật. 
						
						25. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP: "THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT"
						
						Phật hỏi: "Tu Bồ Đề! Ông có thể cho 
						thấy 32 tướng tốt của Như Lai là thấy được Như Lai 
						không?". 
						
						Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! Không 
						thể được. Tại sao vậy? Vì đức Như Lai nói 32 tướng tốt, 
						chỉ giả gọi 32 tướng tốt". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn trên (24) Phật dùng Trí huệ 
						Bát Nhã phá chấp về y báo (chấp pháp) là vi trần 
						và thế giới. Đoạn này Phật lại dùng Trí huệ Bát Nhã phá 
						chấp về chánh báo (chấp ngã); nghĩa là chấp "thấy 
						32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Đây ;là lần 
						thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp 
						về thấy Phật. 
						
						Nếu còn chấp "thấy 32 tướng tốt của 
						Phật là thấy được Phật", tức là còn chấp ngã (ta 
						thấy) chấp nhơn (Phật) v.v...thì không nhập 
						được Kim Cang Bát Nhã, nên không thấy được Phật thiệt. 
						
						Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói 
						về việc phá các vọng chấp ngã, nhơn,năng, sở v.v... 
						
						Nguyên văn (dịch âm) 
						
							
								- Tảo trừ tâm ý địa
 
								Danh vi Tịnh độ nhơn 
								Vô luận phước dữ trí 
								Quang thả ly tham sân 
								Trang nghiêm tuyệt năng sở 
								Vô ngã diệc vô nhơn 
								Đoạn, thường cu bất nhiễm 
								Tần thoát xuất hồng trần 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa 
						
							
								- Quét sạch đất tâm ý
 
								Đó là nhơn tịnh độ 
								Không cần tu phước huệ 
								Miễn bỏ được tham sân 
								Trang nghiêm không năng sở 
								Không ngã cũng không nhơn 
								Đoạn, thường đều chẳng nhiễm 
								Siêu xuất cõi hồng trần 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 
						
						Không cần tu phước huệ hay phương 
						pháp nào khác, chỉ quét sạch tham, sân, si v.v...ở trong 
						tâm địa của mình, đó là nhơn để vãng sanh về Tịnh độ. 
						
						Dẹp trừ cái vọng chấp: năng, sở, 
						nhơn, ngã, đoạn, thường v.v...thì được siêu thoát cõi 
						hồng trần, đó là trrang nghiêm cõi Phật. 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						32 Tướng tốt: Phật có 32 tướng tốt 
						
						1. 
						Dưới bàn chân no tròn 
						
						2. 
						Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc 
						
						3. 
						Tay chân mềm dịu 
						
						4. 
						Ngón chân có màn như chân nhạn 
						
						5. 
						Ngón tay ngón chân no tròn 
						
						6. 
						Gót xứng với bàn chân 
						
						7. 
						Bàn chân xứng với gót 
						
						8. 
						Hai chân tròn vót như hai chân nai 
						
						9. 
						Tay dài thòng tới đầu gối 
						
						10. 
						Âm tướng qui tàng 
						
						11. 
						Chân lộng ửng màu xanh tía 
						
						12. 
						Tóc lông đều xoay qua phía mặt 
						
						13. 
						Da trơn mịn không dính dơ 
						
						14. 
						Màu da sắc vàng 
						
						15. 
						Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ 
						
						16. 
						Cổ tròn lạ thường 
						
						17. 
						Hai cái nách no đủ 
						
						18. 
						Dung nghi đoan chánh 
						
						19. 
						Thân tướng trang nghiêm 
						
						20. 
						Hình thể xứng nhau 
						
						21. 
						Oai dung như sư tử 
						
						22. 
						Chói hào quang mỗi phía một lần 
						
						23. 
						Hàm răng bốn mươi cái khít và bằng 
						
						24. 
						Bốn răng cấm trắng và bén 
						
						25. 
						Trong miệng có mùi thơm 
						
						26. 
						Lưỡi dài che đặng cả cái mặt 
						
						27. 
						Tiếng nói diệu dàng đủ giọng 
						
						28. 
						Lông nheo như ngưu vương 
						
						29. 
						Con mắt có quần đỏ 
						
						30. 
						Mặt như trăng tròn 
						
						31. 
						Chổ gian mi có lông trắng 
						
						32. 
						Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc. 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 |  | 
					 
					
						
						
						
						
						
						BÀI THỨ SÁU
						
						B. 
						PHẦN CHÁNH TÔN 
						(Tiếp theo)
						
						26. Phật nói công 
						đức thọ trì kinh Kim Cang Bát Nhã 
						27. Ông Tu Bồ Đề bùi ngùi cảm động rơi nước mắt 
						28. Người nghe kinh này sanh lòng tin, người ấy được 
						công đức thứ nhứt  
						
						29. Người có hạt 
						giống Bát Nhã mới tin và hiểu được kinh này 
						30. Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải 
						31. Phật phá cái chấp: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la Mật" 
						32. Phật phá cái chấp: "Nhẫn nhục Ba La Mật" 
						33. Phật nói tiền thân của Ngài là một vị tiên nhơn tu 
						nhẫn nhục Ba la Mật 
						34. Bồ Tát phát tâm Bồ Đề phải xa lìa tất cả các vọng 
						chấp 
						35. Bồ Tát bố thí hay làm càc việc lợi ích chúng sanh 
						đều không nên chấp tướng 
						36. Như Lai nói thật không nói dối 
						37. Chấp tướng bố thí như vào nhà tối, vô tướng bố thí 
						như đi ban ngày. 
						
						26. PHẬT NÓI CÔNG 
						ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ
						
						Phật 
						day: "Tu Bồ Đề! Nếu có người tự đem thân mạng mình, 
						nhiều như cát sông Hằng để bố thí, thì người đó phước 
						đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng hay 
						giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến 
						tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều 
						hơn người trước". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Kinh này rất quý báu và lợi ích vô 
						cùng, nên phật đã nhiều lần tán thán công đức, khuyên 
						người thọ trì và giảng dạy cho người. Từ trước đến đây 
						đã năm lần nói về công đức của kinh này. 
						
						Đoạn trước (19) nói, người dùng 
						ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông hằng đem 
						bố thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không 
						bằng người thọ trì và giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhã 
						phước đức lại nhiều hơn. 
						
						Đoạn này nói, người đem nội tài là 
						thân mạng của mình ra bố thí; chỉ bố thí một thân mạng 
						phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố 
						thí thân mạng của mình nhiều như số cát sông Hằng, thì 
						phước đức biết là bao nhiêu! 
						
						Nhưng nếu có người thọ trì đọc tụng 
						hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển hay nữa quyển cho 
						đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức 
						nhiều hơn người trước. 
						
						Bố thí thân mạng, tuy ít người làm 
						được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu vi và hữu 
						lậu. Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì 
						mình và người đều được ngộ nhập "Kim Cang Bát Nhã" và sẽ 
						được thành Phật; rồi trở lại hoá độ vô số chúng sanh, 
						nên phước đức của người này, thuộc về vô lậu vô vi, 
						nhiều hơn người trước. 
						
						Nói về công đức thọ trì kinh này, 
						
						Ngài Trí Giả Đại sư có làm bài 
						tụng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Hằng sa số thậm đa
 
								Sa số cánh nan lương 
								Cử sa tề thất bảo 
								Năng trì bố thí tương 
								Hữu tướng giai vi huyễn 
								Đồ ngôn Trí huệ cường 
								Nhược luận tứ cú đệ 
								Thử phước mạt vi tường 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Kể sông Hằng đã quá
 
								Số cát lại nhiệu hơn 
								Chứa báu nhiều như thế 
								Thí tài số biết bao 
								Chấp mê theo giả tướng 
								Dẫu đặng phước huệ cao 
								Sánh với bốn câu kệ 
								Phước kia có chút nào 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
						
						Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, 
						huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng. Người đem 
						của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố 
						thí, phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc hữu vi, hữu lậu. 
						
						Không bằng người thọ trì hoặc giảng 
						dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều hơn 
						người trước. 
						
						27. ÔNG TU BỔ ĐỀ 
						BÙI NGÙI CẢM ĐỘNG RƠI NƯỚC MẮT
						
						Sau khi thấy Phật nhiều lần ân cần, 
						nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu Bồ Đề nghe hiểu được nghĩa 
						lý thâm thuý của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động 
						bùi ngùi và sa nước mắt!... 
						
						Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch 
						Thế Tôn! Con tuy đặng huệ nhãn đã lâu, nhưng chưa từng 
						được nghe Phật nói kinh điển, nghĩa lý cao siêu huyền 
						diệu, quí hoá như thế này!". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Chúng ta mỗi khi bị xúc cảm một 
						việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng nước 
						mắt. Ông Tu Bồ Đề vì thấy Phật đã nhiều lần ân cần nhắc 
						nhở thọ trì và khuyên dạy những nghĩa lý thâm thuý cao 
						siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ ông chưa từng 
						được nghe, nên ông cảm động rơi nước mắt. 
						
						28. NGƯỜI NGHE KINH 
						NÀY SANH LÒNG TIN NGƯỜI ẤY ĐẶNG CÔNG ĐỨC THỨ NHỨT
						
						Ông Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế 
						Tôn! nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong 
						sạch, ngộ được thật tướng (tánh Bát Nhã) thì người ấy sẽ 
						đặng thành tựu công đức hy hữu thứ nhứt. 
						
						Bạch Thế Tôn! Như Lai nói "thật 
						tướng" tức là không phải "thật tướng", chỉ tạm gọi là 
						"thật tướng". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này ông Tu Bồ Đề nói: người 
						nghe kinh này mà ngộ được "thật tướng Bát Nhã", thì 
						người ấy đặng công đức hi hữu. Và ông phá luôn cái chấp 
						"thật tướng". 
						
						Người có cái khiếu (theo Duy 
						thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm nhạc mới 
						biết hay. Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi thơ mới 
						biết thích. Cũng thế, người có cái khiếu hay hạt giống 
						Bát Nhã, nghe đến kinh Bát Nhã mới sanh lòng tin và ngộ 
						nhập được "Thật tướng Bát Nhã". Bởi thế nên người này 
						công đức vô lượng. 
						
						Vừa nói đến "thật tướng", ông Tu Bồ 
						Đề sợ người chấp "thật tướng", nên ông liền phá luôn cái 
						chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: "Như Lai nói thật 
						tướng, tức là không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật 
						tướng". 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						THẬT TƯỚNG. Phật nói: "Phàm sở hữu 
						tướng giai thị hư vọng", phàm cái gì có hình tướng 
						đều là hư vọng). 
						
						Vậy thì cái không hình tướng mới là 
						chơn thật. Kinh chép: "Vô tướng chi tướng, cố danh thật 
						tướng", (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là 
						thật tướng). 
						
						Căn cứ theo lời giải thích này, thì 
						"thật tướng" là không còn các vọng tướng và vọng chấp, 
						tức là "Bát Nhã chơn không". 
						
						29. NGƯỜI CÓ HẠT 
						GIỐNG BÁT NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ĐƯỢC KINH NÀY
						
						Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn! 
						Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được, tin được và 
						thọ trì, chẳng lấy làm khó. Khi Đức Như Lai nhập diệt, 
						500 năm về sau, nếu có người nghe kinh này, mà được hiểu 
						ngộ, tin theo và thọ trì, thì người đó mới là hy hữu! 
						
						Tại sao vậy? Vì người này không còn 
						chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả. 
						
						Bạch thế Tôn! Nói bốn tướng, không 
						phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, 
						nhơn, chúng sanh và thọ giả. Tại sao vậy?_ Vì phải xa 
						lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này tiếp với đoạn văn trên, 
						nói người có hạt giống Trí huệ Bát Nhã, phá trừ được bốn 
						tướng, mới tin và hiểu được kinh này. 
						
						Khi Phật còn tại thế, chúng sanh 
						căn tánh Đại thừa rất nhiều, nên nghe kinh này hiểu và 
						tin không khó. Đến sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh 
						căn tánh Đại thừa rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh 
						này rất khó. Vì người nghe phải không còn chấp bốn 
						tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả, mới hiểu được 
						kinh Kim Cang Bát Nhã này. 
						
						Nói đến bốn tướng, ông Tu Bồ Đề sợ 
						người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bát rằng: 
						"Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả 
						gọi bốn tướng mà thôi". 
						
						Kết luận, ông nói rằng: "Phải rời 
						tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập Kim Cang Bát 
						Nhã, mới gọi là chư Phật". 
						
						Ngài Cảo Thiền sư, ngộ được câu: 
						"Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật", nên có làm 
						hai bài tụng rằng: 
						
						Nguyên văn (dịch âm): 
						
							
								- Thân khẩu ý thanh 
								tịnh
 
								Thị danh Phật xuất thế 
								Thân khẩu ý bất tịnh 
								Thị danh Phật diệt độ 
								Tức tâm thị Phật vô dư Pháp 
								Mê giả đa ư tâm ngoại cầu 
								Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế 
								Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Thân, khẩu ý thanh 
								tịnh
 
								Đó là Phật xuất thế. 
								Thân, khẩu ý bất tịnh 
								Đó là Phật nhập diệt. 
								Tức tâm là Phật, Phật tại tâm 
								Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu 
								Nhứt niệm giác ngộ về đến Phật 
								Dễ như rửa chân bước lên thuyền. 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 
						
						Ba nghiệp: Thân, miệng và ý đều 
						thanh tịnh, đó là Phật xuất thế. Trái lại, ba nghiệp 
						không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt. Phật tức tâm, 
						tâm tức Phật. Người mê muội không biết, lại tìm Phật 
						ngoài tâm. Nếu trong nhứt niệm mà tâm giác ngộ thì tức 
						thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước lên thuyền. 
						
						30. PHẬT XÁC NHẬN 
						LỜI NÓI CỦA ÔNG TU BỔ ĐỀ LÀ PHẢI
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Đúng như vậy. 
						Nếu có người nghe kinh này mà không nghi ngờ hay kinh 
						sợ, thì người này rất là hy hữu". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn 
						văn trên, Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là 
						phải: Người có hạt giống Kim Cang Bát Nhã, không chấp 
						các tướng mới hiểu và tin được kinh này 
						
						31. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP: "BÁT NHÃ LÀ ĐỆ NHỨT BA LA MẬT"
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, không phải Bát Nhã là đệ 
						nhứt Ba la mật, thế mới thật Bát Nhã là đệ nhứt Ba la 
						mật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật phá cái chấp "Bát Nhã 
						là pháp Ba la mật thứ nhứt". Đây là lần thứ hai, Phật 
						phá cái chấp Bát Nhã Ba la mật (lần thứ nhứt ở đoạn 
						22). 
						
						Trong 6 pháp Lục độ, tức là 6 pháp 
						Ba la mật, thì Trí huệ Bát Nhã là bao trùm tất cả, nên 
						Phật nói: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" 
						
						Nhưng, nếu người còn chấp mình đặng 
						"Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" (chấp pháp) thì 
						không phải thật đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" nữa, 
						vì còn chấp ngã (mình đặng) chấp pháp (Ba la 
						mật). Bởi thế nên Phật dạy tiếp: "Không còn thấy 
						(chấp) mình đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật, thì 
						mới thật đặng Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật". 
						
						GIẢI DANH TỪ 
						
						Bát Nhã: (đã giải ở trước, đề mục 
						kinh) 
						
						Ba la mật: (đã giải ở trước, đề mục 
						kinh) 
						
						32. PHẬT PHÁ CÁI 
						CHẤP "NHẪN NHỤC BA LA MẬT"
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						người Nhẫn nhục Ba la mật (rốt ráo) mà không thấy mình 
						Nhẫn nhục Ba la mật, như thế mới thật là Nhẫn nhục Ba la 
						mật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này Phật phá cái chấp "Người 
						tu Nhẫn nhục Ba la mật, mà còn chấp mình đặng Nhẫn nhục 
						Ba la mật". 
						
						Nếu hành giả tu hạnh nhẫn nhục rốt 
						ráo (Ba la mật) mà còn chấp minh tu hạnh nhẫn 
						nhục rốt ráo, tức nhiên hành giả còn chấp chơn (người 
						làm nhục) chấp ngã (ta bị nhục) thì chưa phải 
						là nhẫn nhục rốt ráo. Hành giả phải lìa tất cả vọng 
						chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử v.v...nhập Kim Cang Bát Nhã, mà 
						tu pháp nhẫn nhục thì pháp nhẫn nhục đó mới hoàn toàn 
						rốt ráo, gọi là nhẫn nhục Ba la mật. 
						
						33. PHẬT NÓI TIỀN 
						THÂN NGÀI LÀ MỘT VỊ TIÊN NHƠN TU HẠNH NHẪN NHỤC BA LA 
						MẬT
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! về quá khứ, ta 
						làm vị Tiên nhơn tu hạnh nhẫn nhục đến 500 đời. Bị vua 
						Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân 
						hận; Vì ta không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng 
						sanh và thọ giả". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đoạn này tiếp theo đoạn trên (32) 
						nói về việc tu hạnh nhẫn nhục Ba la mật. Muốn giải thích 
						rõ ràng: thế nào là "nhẫn nhục rốt ráo" (nhẫn nhục Ba 
						la mật), Phật dẫn bằng chứng điển hình, là tiền thân 
						Ngài làm vị Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục. Bị vua Ca Lợi 
						cắt xẻo thân thể ra từng mảnh, nhưng Ngài không hề sân 
						hận. Vì ngài không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn 
						v.v...nên mới đặng nhẫn nhục rốt ráo (nhẫn nhục Ba la 
						mật). 
						
						Sách chép, một hôm vua Ca Lợi dẫn 
						cung phi mỹ nữ lên núi để yến tiệc. Sau buổi yến tiệc 
						say sưa, vua nằm nghỉ, các cung phi lén vua đi dạo núi. 
						
						Qua một đồi khác, thấy một vị Tiên 
						nhơn ngồi tu dưới một gốc cây đại thọ, các cung phi rủ 
						nhau đến chiêm bái. 
						
						Sau khi thức dậy, không thấy cung 
						phi, vua liền đi tìm. Đến một đồi núi, thấy các cung phi 
						đang ngồi xoay quanh hỏi đạo vị Tiên nhơn dưới một gốc 
						cây cổ thụ, vua tức giận hỏi: 
						
						Người là ai mà dám quyến rủ cung 
						phi mỹ nữ của ta? 
						
						Tôi là Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục 
						rốt ráo. 
						
						- Có thật không? 
						
						- Thật, tôi tu Nhẫn nhục rốt ráo 
						(Ba la mật). Vua liền rút gươm xẻo mũi, lóc tai, 
						chặt tay v.v...vị Tiên nhơn, mà không thấy vị Tiên nhơn 
						có chút gì phản ứng hay sân hận v.v... 
						
						Sau cơn nóng giận, vua hối hận và 
						hỏi: 
						
						Có lẽ vì thế lực của nhà Vua nên 
						Tiên nhơn Nhẫn nhục, không dám chống lại, chứ trong tâm 
						làm sao khỏi buồn giận? 
						
						Tiên nhơn thề rằng: Nếu tôi không 
						thiệt tu Nhẫn nhục rốt ráo, trong tâm còn chút giận hờn, 
						thì tôi chết luôn theo với tay chân bị cắt xẻo; trái 
						lại, nếu tôi thật tu Nhẫn nhục rốt ráo, tâm không sân 
						hận thì tay chân của tôi bị cắt, đều hoàn y nguyên trở 
						lại như xưa. 
						
						Lời thệ của Tiên nhơn vừa dứt thì 
						mũi, tai, thân thể của Tiên nhơn đều hoàn lại như trước. 
						Vua hết sức ăn năn sám hối tội lỗi của mình và thỉnh cầu 
						Tiên nhơn tha thư. 
						
						Tiên nhơn đã không hờn giận, lại 
						còn phát nguyện: "Sau khi đắc đạo ta sẽ độ người trước". 
						
						34. BỔ TÁT PHÁT TÂM 
						BỔ ĐỀ PHẢI XA LÌA TẤT CẢ CÁC VỌNG CHẤP
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát phát 
						tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các chấp tướng. Bồ Tát 
						không nên sanh tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, 
						hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần v.v... 
						
						Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sanh vọng 
						tâm trụ chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tâm còn trụ chấp 
						một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn tâm". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt 
						ở đoạn 17), Phật dạy các vị Bồ Tát đừng sanh vọng 
						tâm trụ chấp một nơi nào. 
						
						Tâm Bồ Đề là tâm Phật (xem đoạn 
						2). Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các vô 
						minh vọng chấp: Không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng 
						sanh, thọ giả, không chấp sáu căn, sáu trần và sáu thức 
						v.v...Nói chung là không chấp ngã, chấp pháp. 
						
						Khi các vọng chấp hết rồi, thì tâm 
						Bồ Đề hay tánh Bát Nhã v.v...hiện ra. Đó là "Hàng phục 
						vọng tâm và an trụ chơn tâm". 
						
						Nếu tâm còn có chỗ trụ chấp, tức là 
						tâm còn vọng động; tâm còn vọng động thì trụ nơi điên 
						đảo, chứ không phải an trụ chơn tâm hay tánh Bát Nhã. 
						Bởi thế nên Phật dạy: "Nếu Bồ Tát tâm còn trụ chấp một 
						nơi nào thì không phải thật an trụ chơn tâm. 
						
						Ngài Xuyên Thiền sư làm bài tụng, 
						nói về việc không trụ chấp nơi sắc, thinh, hương, v.v... 
						
						Nguyên văn (dịch âm) 
						
							
								- Kiến sắc phi can sắc
 
								Văn thinh bất thị thinh 
								Sắc thinh vô ngại xứ 
								Thân đáo pháp vương thành 
							 
						 
						
						Dịch nghĩa: 
						
							
								- Thấy sắc không mê 
								sắc
 
								Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng 
								Sắc tiếng đều không ngại 
								Mới đến pháp vương thành 
							 
						 
						
						ĐẠI Ý BÀI TỤNG 
						
						Trong khi sáu giác quan tiếp xúc 
						với sáu trần cảnh, mà không khởi vọng niệm phân biệt, 
						nhiễm ô mê hoặc (trụ chấp) nơi trần cảnh, thì 
						hành giả sẽ được vào cảnh giới Phật (thành pháp 
						vương). 
						
						35. PHẬT DẠY BỔ TÁT 
						BỐ THÍ HAY LÀM CÁC VIỆC LỢI ÍCH CHÚNG SANH ĐỀU KHÔNG NÊN 
						CHẤP TƯỚNG
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Bồ Tát khi bố 
						thí hay làm các việc lợi ích cho tất cả chúng sanh, 
						không nên sanh tâm trụ chấp các tướng (mình bố thí, 
						người thọ thí, vật bố thí) 
						
						Tu Bồ Đề! Như Lai nói các tướng 
						không phải thật (các pháp) chỉ giả gọi các tướng. Như 
						Lai nói chúng sanh, không phải thật chúng sanh, chỉ giả 
						gọi chúng sanh". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt 
						về đoạn 4), Phật dạy các vị Bồ Tát bố thí hay làm 
						các việc lợi ích chúng sanh, đều không nên chấp tướng 
						(xem đoạn 4 ở trước). 
						
						Hành giả khi làm lợi ích các chúng 
						sanh, mà tâm còn trụ chấp các tướng, nghiã là còn thấy 
						mình bố thí, người thọ thí và vật bố thí, tất nhiên hành 
						giả còn chấp ngã (mình, người) chấp pháp (vật 
						bố thí), thì hành giả chỉ được phước hữu lậu nhiễm 
						ô, nên không phải là bố thí Ba la mật (bố thí rốt 
						ráo). 
						
						Bởi thế nên Phật dạy, các vị Bồ 
						Tát, khi bố thí hay làm lợi ích cho các chúng sanh, phải 
						nhập Kim Cang Bát Nhã mà làm; nghĩa là không có chấp các 
						tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả thì được phước đức 
						vô lậu thanh tịnh. Bố thí như vậy, mới phải là bố thí Ba 
						la mật (bố thí rốt ráo). 
						
						Đoạn trước nói về Nhẫn nhục, đoạn 
						này nói về bố thí. Muốn giúp cho qui vị Phật tử hiểu 
						thêm và để thật hành, thế nào là "Nhẫn nhục rốt ráo" và 
						thế nào là "bố thí rốt ráo", chúng tôi xin nói thêm một 
						thí dụ như sau. 
						
						Hành giả muốn đặng Nhẫn nhục Ba la 
						mật hay bố thí Ba la mật, thì phải quán chúng sanh và 
						mình đồng một bản thể, mới không thấy ta có bố thí và 
						chúng sanh thọ thí hay người làm nhục và ta thọ nhục. 
						
						Thí dụ như tay mặt với tay trái, 
						đồng thấy chung một thân, nên khi tay mặt lỡ làm tổn 
						thương tay trái, (đóng đinh trợt tay) tay trái 
						không giận. Vì tay trái tự nhận mình cùng với tay mặt 
						đồng một thân, nên tay trái không thấy do tay mặt làm 
						nhục và mình bị nhục. Nhẫn nhục như thế mới là Nhẫn nhục 
						rốt ráo (nhẫn nhục Ba la mật). 
						
						Trái lại, tay mặt lo lấy bông gòn 
						và thuốc để băng cho tay trái, nhưng nó không kiêu hảnh, 
						vì tay mặt cũng tự nhận mình cùng với tay trái đồng một 
						thân, nên nó không thấy mình (tay mặt) là người 
						ban ơn và tay trái là kẻ thọ ơn. Bố thí như thế, mới là 
						bố thí rốt ráo (Bố thí Ba la mật). 
						
						36. NHƯ LAI NÓI 
						THẬT, KHÔNG NÓI DỐI
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Như Lai nói 
						thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác. 
						Như Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đến thời Bát Nhã, thì Phật phá hết 
						các vọng chấp từ lâu của chúng sanh, để chúng sanh tiến 
						lên một bực cao hơn nữa. Vì thế nên phần lý thuyết cũng 
						như phần tinh thần của thời kinh Bát Nhã, rất lạ lùng 
						hơn các thời thuyết pháp khác. 
						
						Sợ chúng sanh nghi ngờ lời Phật nói 
						không chơn thật, khi nói vầy, khi nói khác, thay đổi 
						không chừng, nên Phật gọi ông Tu Bồ Đề dạy rằng: "Như 
						Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói 
						sai khác". 
						
						Đức Như Lai được đạo Bồ Đề, nhưng 
						nếu chấp đạo Bồ Đề này là hư hay thật thì không phải là 
						Bồ Đề. Vì thế nên Phật dạy: "Như Lai có đắc pháp, nhưng 
						pháp ấy không thật không hư". 
						
						37. TRỤ TƯỚNG BỐ 
						THÍ NHƯ VÀO NHÀ TỐI, VÔ TƯỚNG BỐ THÍ NHƯ ĐI BAN NGÀY
						
						Phật dạy: "Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát bố 
						thí mà tâm còn trụ chấp nơi pháp bố thí, thì như người 
						vào nhà tối, không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ Tát bố 
						thí mà tâm không trụ chấp nơi pháp bố thí, thì cũng như 
						người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt 
						chíêu soi, được thấy tất cả mọi vật". 
						
						LƯỢC GIẢI 
						
						Đây là lần thấy thứ ba (lần thứ 
						nhứt và hai ở đoạn 4 và 35), Phật dạy Bồ Tát bố thí 
						không nên chấp tướng bố thí. 
						
						Người bố thí, nếu còn chấp tướng, 
						nghĩa là còn thấy ta là người ban ơn, kia là kẻ thọ ơn, 
						đó là vật bố thí, thì bị mây vô minh ngã, pháp che mờ 
						Trí huệ Bát Nhã, nên Phật thí dụ: "như người đi vào nhà 
						tối không thấy gì cả". 
						
						Trái lại, nếu bố thí mà không chấp 
						tướng, trong kinh gọi là "tam luân không tịch"; nghĩa là 
						không thấy mình bố thí, (ban ơn) người thọ thí 
						(thọ ơn) và vật bố thí (xem thí du tay mặt bó tay 
						trái ở đoạn 35) thì mây vô minh ngã, pháp đều hết, 
						nên mặt trời Trí huệ Bát Nhã hiện ra, chiếu soi khắp tất 
						cả pháp. Bởi thế nên Phật nói: "Như người có mắt sáng 
						tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy 
						mọi vật". 
						
						
						▲ Trở Lên 
						 |  | 
					 
				 
				 |