A Di Đà Phật! Kính chào quý khách ghé thăm

 

 

Vài Nét Về Nội Tình Phật Giáo

 



Lời Nói Đầu
Phần Giới Thiệu
Đề Mục Kinh
Nhân Duyên Và Thời Điểm Phật Nói Kinh Thủ Lăng Nghiêm
Phần Chánh Tông
Bảy Đoạn Phật Hỏi Về Tâm Chỉ Rõ Tánh Thấy
Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Nhất
Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Hai
Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Ba
A Nan Đã Hiểu Được Chơn Tâm Nhưng Chưa Dám Nhận
Phật Chỉ Tâm Lần Thứ Tư Và Thứ Năm
A Nan Nghi "Chơn Tâm" Đồng Với Thuyết "Tự Nhiên" Của Ngoại Đạo Do Nhận Thức Sai Lầm Khiến Cho Con Người Bỏ Mất Bản Tâm Thanh Tịnh Bản Giác Thường Trú Của Mình
Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa : Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp
Bốn Khoa Bảy Đại Vốn Là Hiện Tượng Biểu Hiện Từ Như Lai Tạng
Ngũ Uẩn Là Hiện Tượng Biểu Hiện Như Lai Tạng
Sáu Nhập Là Hiện Tượng Biểu Hiện Từ Như Lai Tạng
Mười Hai Xứ là Hiện Tượng Biểu Hiện Từ Như Lai Tạng
Bảy Đại Là Hiện Tượng Biểu Hiện Của Như Lai Tạng
Giác Ngộ Và Phát Nguyện
Phật Thuyết Minh Tánh Của Các Đại Vốn Không Ngăn Ngại Gì Nhau, Nhằm Khai Thị Chơn Lý - Sắc Không, Không Sắc.
Phật Khai Thị Nguồn Gốc Duyên Khởi Của Hiện Tượng Vật Chất
Phật Chỉ Hai Nghĩa Quyết Định
Dựa Vào Nhơn Tu Mà Suy Biết Quả Sơ Chứng
Chỉ Rõ Chổ Hư Vọng Của Sáu Căn
Phật Bảo Đánh Chuông Để Chứng Nghiệm Tánh Nghe Của Nhĩ Căn Là Thường Còn
Nương Chổ Ngộ Mà Viên Tu
Chỉ Một Cái Khăn Mà Sáu Lần Cột Thì Thành Sáu Gút. Mở Hết Sáu Gút Một Cũng Không Còn
Gạn Hỏi Đại Chúng Về Viên Thông
Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Quán Thế Âm Bồ Tát Nhĩ Căn Viên Thông Phật Bảo Văn Thù So Sánh Chọn Căn Ưu Việt Nhất
So Sánh Sự Ưu Khuyết Của Sáu Trần, Năm Căn, Sáu Thức Và Bảy Đại

- CÁC TÔN GIÁO LỚN TRÊN THẾ GIỚI VÀ NIỀM TIN CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ.


- NIỀM TIN PHẬT GIÁO


-
VÀI NÉT VỀ NỘI TÌNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM

 

Mặc dù đạo Phật không rời thế gian, nhưng không có nghĩa là con người cứ bám chặt, chấp thủ vào thế gian thì làm gì có giải thoát. Vì thế nếu lấy đạo Phật là cái đạo “thoát tục” để điều hành việc “thế tục” thì không thể thành được. Thí dụ, vào thời nhà Trần, khi quân Nguyên xua đại hùng binh sang xâm chiếm nước ta, vua Trần Nhân Tông nghe tin Hưng Đạo Vương thua chạy về Vạn Kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải Dương, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng Đạo Vương rằng:

 

-    Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân sự tàn hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân.


Trần Hưng Đạo thấy thế bẩm với vua là:


-    Bệ hạ nói câu ấy thì thật là nhân đức, nhưng còn Tông Miếu Xã Tắc thì sao? Nếu bệ hạ muốn hàng, xin hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng.


Vua nghe lời nói trung liệt như vậy trong lòng mới yên. Sau khi đánh tan giặc Nguyên, nhà vua nhường ngôi lại cho con rồi lên núi Yên Tử xuất gia và giao việc trị nước lại cho người khác.

Nước Tây Tạng từ khi các vị Đạt-Lai Lạt-Ma điều hành xã hội thì cơ chế trong nước càng ngày càng suy yếu đến khi Trung Cộng xua quân vào thì không thể nào chống giữ nổi.

Mặc dầu Hoa Kỳ là nước chịu ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo, nhưng hiến pháp đã khẳng định rõ ràng là không được đem tôn giáo vào trong cơ chế lãnh đạo quốc gia. Do đó Tổng Thống hay bất cứ nhân viên chính phủ nào muốn tin vào tôn giáo nào cũng được vì đó là đời tư của họ, nhưng khi phục vụ cho quốc gia thì chỉ dựa vào hiến pháp mà thi hành vì thế Hoa Kỳ mới là cường quốc.  Hiến pháp là do dân, bởi dân và vì dân vì thế người nào đủ tài, đủ đức thì được dân bầu làm người lãnh đạo. Đây mới chính là tinh thần bình đẳng khách quan của nhà Phật.


Một vị Quốc sư, một vị cao tăng là những người đạo cao đức trọng, nhưng chưa chắc họ là những nhà chính trị giỏi để lèo lái con thuyền quốc gia đến chỗ phú cường. Vì sao? Tu hành là đạo đức, là đi theo chân lý, là chân thật, là buông bỏ, là giải thoát giác ngộ. Ngược lại chính trị là gian xảo, mánh lới, thủ đoạn, bẩn thỉu, đê hèn, lợi mình hại người, bất chấp phương tiện miễn sao đạt đến cứu cánh. Thế thì tu hành (đạo đức) và chính trị làm sao hòa nhập với nhau được?


Danh từ “Quốc Sư” xuất hiện trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ sư Vạn Hạnh (tức nhà sư Lý Khánh Vân) vì sư là người đã đưa người con nuôi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều đại nhà Lý. Khi sư Vạn Hạnh thảo ra tờ chiếu để thuyết phục vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình về Đại La (thành Thăng Long tức Hà Nội ngày nay) như sau:


- Đất Hoa Lư là nơi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, vạn vật không nên. Trong khi đó đất Đại La ở giữa khu vực trời đất, có địa thế rồng quấn hổ phục, ở giữa Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện hình thể núi sông sau trước, đất rộng mà bằng phẳng, chổ cao mà sáng sủa, muôn vật rất thịnh và phồn vinh.


Khi đề cập đến công trình kiến trúc thành Thanh Long (Hà Nội), tác giả Lê Văn Siêu viết trong cuốn “Nguồn Gốc Văn Hóa Việt Nam” như sau:


- Ta hãy xem cái đường vòng chạy chung quanh nội thành biểu tượng cho Thái cực, hai nhánh sông Tô lịch bên hữu có hồ Lãng Bạc là ứng thủy, bên tả thông ra đường Lưu Thủy là sông Nhị Hà, đó là biểu tượng cho Lưỡng Nghi. Cung điện của vua ở giữa có bốn mặt đều nhau ấy là Tứ Tượng. Thêm bốn kiến trúc bốn cổng ấy là Bát Quái. Tất cả các đường đều bắt đầu từ vòng thái cực mà đi chi chít không biết bao nhiêu, ấy là biến hóa vô cùng vậy. Trong nội thành cung điện sắp đặt theo đúng tám hướng: kiền, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đoài.


Sư Vạn Hạnh chịu ảnh hưỡng Lão giáo quá nặng và tin tưởng vào đạo trời để trị nước. Theo Lão Tử, vào thời nguyên thủy thì vũ trụ sinh ra thái cực, rồi thái cực sinh ra âm dương, âm dương sinh ra ngũ hành để tạo ra trời đất. Trời đất với người là một, đều do đạo sinh ra. Mọi vật đều có hai trạng thái âm dương. Đó là tính mâu thuẫn nằm trong tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng. Nói cách khác, phàm vật gì có tính chất hoạt động, ở ngoài, hướng lên, sáng chói, nóng rực đều thuộc về dương và ngược lại là âm. Thí dụ mặt trời, ban ngày là dương còn mặt trăng, ban đêm là âm. Âm dương ý nghĩa đối chọi, mâu thuẫn do đó dựa theo luật phản phục thì trong âm có mầm của dương và trong dương có mầm của âm.


Sư Vạn Hạnh tin vào Dịch Lý của Nho giáo vì thế tư tưởng “Nho, Thích, Đạo” tam giáo đồng nguyên đã làm Phật giáo bị biến thể. Nhưng:


Phật giáo không tin thần linh, không tin trời đất, không tin Lưỡng nghi, Tứ Tượng, Ngũ hành, Bát quái mà chỉ tin sâu vào nhân quả.


Hãy nhìn lại lịch sử trong thời đại Lý-Trần.


Năm 1010 sư Vạn Hạnh cùng bọn Đào Cam Mộc mưu tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, đoạt ngôi nhà tiền Lê thì năm 1225 Trần Thủ Độ âm mưu đưa Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) lấy vua Lý Chiêu Hoàng lúc đó mới 8 tuổi để đoạt ngôi nhà Lý mà lập ra nhà Trần. Phải chăng đây là nhân quả của nhà Phật? Đạo Phật dưới đời nhà Trần mang nặng tinh thần nhập thế tích cực qua hệ tư tưởng “Cư Trần Lạc Đạo”. Đó là các Thiền sư công khai bàn luận chính trị, đề xuất nguyên lý trị quốc theo kiểu Quốc sư Viên Thông đời Lý (1080-1151). Hệ tư tưởng này còn được gọi là “Phật giáo thế sự”. Không lẽ nhân tài, hiền đức trong xã hội biến mất hết rồi hay sao mà phải cần những vị “xuất gia” tham gia việc trị quốc an dân? Ngày xưa chính Đức Phật đã khuyên Đề Bà Đạt Đa nên hoàn tục vì tuy là người xuất gia, nhưng “tâm không vào đạo” nên ông luôn nuôi dưỡng những tư tưởng bất thiện, cố tranh giành thế lực, chia rẽ Tăng đoàn để mưu lợi riêng cho mình.

Đối với Tăng đoàn, Đề Bà Đạt Đa muốn chiếm ngôi vị của Phật, còn đối với thế sự ông xuối vua A Xà Thế giết cha, hại mẹ, làm chuyện vô luân. Màn vô minh hắc ám che lấp tâm tánh thuần lương khiến ông làm việc phản sư, phạm giáo mà phải bị đọa vào địa ngục A tỳ. Phật giáo muôn đời vẫn là Phật giáo, người đệ tử Phật không thể vì “tham vọng chính trị” mà biến thể đạo Phật dưới bất cứ hình thức nào. Chân lý Đức Phật sáng tỏ và vượt ra khỏi đạo thế gian và xuất thế gian. Những bậc thánh như Lão Tử, Khổng Tử là những bậc thánh của thế gian còn Đức Phật là bậc thánh của cả thế gian và xuất thế gian. Một vị quốc sư mà còn tin vào tướng số, dịch đồ thì đủ biết tinh thần mê tín dị đoan của Phật giáo Việt Nam cả ngàn năm nay làm sao tránh khỏi. Người Phật tử chân chính không thể mượn triết lý của kẻ khác mà tự hào là “Minh Triết Việt Phật” được.


Xin nhắc lại, triều đại nhà Lý bắt đầu từ vua Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) kéo dài đến vị vua thứ 7 là Lý Huệ Tông (Lý Sảm) thì bắt đầu suy yếu vì ông vua này vừa bất tài vừa bịnh hoạn (ông có bệnh phong và đôi khi nổi điên) nên tất cả việc triều chính đều nằm trong tay Thái Úy Trần Tự Khanh. Họ Trần lần lượt nắm lấy quyền bính nhà họ Lý. Anh của Trần Tự Khanh là Trần Thừa có hai người con trai là Trần Liễu và Trần Cảnh (Trần Thái Tông) và người anh em họ là Trần Thủ Độ.


Trần Liễu sau này sinh ra Trần Tung tức là Tuệ Trung Thượng Sĩ là học trò xuất sắc nhất của thiền sư Phước Đường Tiêu Dao, một cao tăng nổi tiếng cuối thời nhà Lý. Danh hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ là do vua Trần Thánh Tông trao tặng. Tuệ Trung nghĩa là trí tuệ bên trong và Thượng Sĩ là bậc cao tột. Sau Trần Tung còn có Trần Quốc Tuấn  tức là Hưng Đạo Vương Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Khang tức là cái thai trong bụng Thuận Thiên sau là con Trần Thái Tông và Trần Thị Thiều sau là Hoàng hậu của Trần Thánh Tông. Vợ của vua Lý Huệ Tông là Trần Thị Dung là anh em họ của Trần Thủ Độ, gốc người dân đánh cá có tục danh là Trần Thị Ngừ (tên của loài cá), sinh được hai công chúa là Thuận Thiên và Phật Kim. Mặc dù Trần Thị Dung là Hoàng hậu, nhưng bà lại tằng tịu với người anh em họ Trần Thủ Độ và về sau hai người còn lấy nhau. Thuận Thiên gả cho Trần Liễu còn Phật Kim tức là vua Lý Chiêu Hoàng là vua đời thứ 8 cũng là đời sau cùng của nhà Lý thì lấy Trần Cảnh.


Trần Thủ Độ tuy là người không có học vấn, nhưng chính thật là một tay gian hùng chẳng khác Tào Tháo ngày xưa, chủ ý cốt gây dựng cơ nghiệp nhà Trần cho bền chặt cho dù có làm việc tàn ác đến đâu nên dàn xếp đưa người cháu họ là Trần Cảnh lấy vua Lý Chiêu Hoàng lúc ấy cả hai mới vừa 8 tuổi để đoạt ngôi nhà Lý. Tuy Lý Huệ Tông đã đi tu, nhưng vẫn bị Trần Thủ Độ bức tử nên trước khi treo cổ lúc ấy được 33 tuổi, ông có lời nguyền:


-    Thiên hạ của nhà ta, đã về nhà mày rồi mà mày còn muốn giết ta. Một ngày kia con cháu nhà mày cũng lại như thế.


Thủ Độ đã hại Huệ Tông rồi, lại muốn trừ nốt các tôn thất nhà Lý. Đến năm 1232 nhân làm lễ Tiên Hậu nhà Lý ở thôn Thái Đường, làng Hoa Lâm, Bắc Ninh, Thủ Độ sai đào hầm, làm nhà lá ở trên, để đến khi các tôn thất nhà Lý đến đây tế lễ thì sụt cả xuống hố rồi đổ đất chôn sống cả. Chẳng những thế Thủ Độ còn ra lệnh đổi tất cả những ai mang họ Lý thành ra họ Nguyễn vì ông nội của Thái Tông tên là Trần Lý. Còn những cung nhân và con gái thân thích nhà Lý thì được gã cho các tù trưởng người Man.


Không biết sư Vạn Hạnh có bấm độn tướng số dịch đồ để đoán được ngày tàn tiêu điều của dòng họ Lý chăng? Ngày xưa Khổng Minh cũng lập đàn tế sao để mong được sống thêm 10 năm mà có cơ hội khôi phục nhà Hán, nhưng ông ta vẫn chết bất toại ý. Trước khi chết ông than rằng: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Không phải ông trời không chiều lòng Khổng Minh, nhưng phước đức nhà Hán đã cạn rồi cho dù có mười Khổng Minh giúp thì nhà Hán vẫn mất như thường. Khổng Minh tuy chết mà lòng còn oán ông trời. Nếu nhà Quân sư thấu hiểu Phật pháp thì ông sẽ nói lại rằng: “Lượng sự do tâm, thành sự do nghiệp” tức là nhân nào quả nấy của đạo Phật mới là chân lý!


Khi Lý Huệ Tông mất, Trần Thủ Độ liền lấy vợ Huệ Tông là Trần Thị Dung (anh em họ). Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng sinh được Trần Trịnh, nhưng đứa bé nầy yểu thọ và từ đây Lý Chiêu Hoàng trở thành hiếm muộn. Năm 1237, khi Thái Tông đã 19 tuổi, Trần Thủ Độ làm chuyện ngang ngược bất chấp luân thường đạo lý, bắt vua lấy chị dâu và là chị vợ. Đó là công chúa Thuận Thiên (chị của Lý Chiêu Hoàng) là vợ của Trần Liễu khi ấy đang mang thai được ba tháng. Trần Liễu quá phẩn uất, nổi loạn, nhưng được ít lâu biết sức mình không làm gì nổi bèn nhân lúc Thái Tông ngự thuyền đi chơi, giả làm người đánh cá lẻn xuống thuyền ngự xin hàng. Tuy thế, cho đến chết Trần Liễu vẫn ôm mối  hận trong lòng nên bắt con là Trần Hưng Đạo thề độc là phải dành lại ngôi báu. May mà Hưng Đạo Vương không nghe. Hoàng hậu Thuận Thiên mà Thái Tông lấy của Trần Liễu tạ thế năm 1248, ở tuổi 32. Sau đó ông có thể lấy vợ khác để sinh ra Trần Ích Tắc (hèn tướng) và Trần Nhật Duật (danh tướng). Năm 1258 Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng và được triều đình tôn làm Thái thượng hoàng.

Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái thượng hoàng được 19 năm thì mất. Thái tử Hoảng lên ngôi tức là vua Trần Thánh Tông cho đến năm 1278 nhường ngôi cho Thái tử Khâm tức là vua Trần Nhân Tông sau này. Đến năm 1293, sau khi đánh tan giặc Nguyên lần thứ nhì, Nhân Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Thuyên rồi về Thiên Trường làm Thái thượng hoàng. Nhân Tông trị vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi. Nhân Tông tham học với Tuệ Trung Thượng Sĩ đạt sâu tới chỗ thiền tủy và thờ Thượng Sĩ làm thầy. Sau đó Ngài lên núi Yên Tử xuất gia, tu theo mười hạnh đầu đà, tự lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và lập ra thiền phái Trúc Lâm. Nhà Trần làm vua cho đến năm 1400 thì Hồ Quý Ly diệt nhà Trần và đổi Quốc hiệu Đại Việt thành ra Đại Ngu cho đến khi anh hùng áo vải Lam Sơn Lê Lợi mười năm đánh đuổi nhà Minh lập ra nhà Lê và đổi Quốc hiệu lại thành Đại Việt. Vua Trần Thuận Tông bị Hồ Quý Ly chuyên quyền, ép chế và cướp ngôi cũng như mấy trăm năm trước Trần Thủ Độ chuyên quyền cướp ngôi Lý Chiêu Hoàng. Phải chăng lời nguyền của Lý Huệ Tông ứng nghiệm? Hay nói theo Phật giáo thì nhân quả ứng hiện vậy.


Trong cuốn “Khóa Hư Lục” do Thiền sư Thích Thanh Từ giảng giải, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn một đoạn do Thiền sư viết như sau:


“… Nhà Trần vì có công cầm quân dẹp loạn, nên được nhà Lý trọng dụng cho ở trong cung và phong chức lớn. Do đó Ngài Trần Cảnh được đem vào cung để kế thừa ngôi nhà Lý. Vậy Ngài Trần Cảnh lên ngôi là do công lao khai cơ lập nghiệp rất là gian khổ của ông cha…”


Khi Tổ Bồ-đề vào Trung Hoa vào thế kỷ thứ 5, vua Lương Võ Đế  khoe với Tổ về việc nhà vua xây trên 480 ngôi chùa và độ cho rất nhiều Tăng Ni thì việc làm này có công đức nhiều không? Tổ trả lời rằng những việc làm tốt của nhà vua chỉ tạo phước đức (hữu lậu) trong đời chớ không có công đức (vô lậu) chi cả. Đứng trước uy quyền, danh văn lợi dưỡng chỉ có bậc Thánh mới hành trực tâm, nói chánh ngữ và sống đúng chánh mạng vì thế gian đối với họ là huyển nên họ không cầu, không chấp, không tham. Đây là ứng dụng “Như huyển Tam-ma-đề” nghĩa là đối với Bồ-tát thì họ nhìn thế gian và ngay cả xuất thế gian là huyển hóa, là giả tạm, không bền không chắc, nay có mai không nên chính họ là huyễn, vào huyễn thế gian để độ huyễn chúng sinh được chứng đắc huyển quả vì vậy mà tâm họ không còn dính mắc, lúc nào cũng an nhiên tự tại.


Việc chuyên quyền soán ngôi thì xảy ra khắp mọi nơi từ cổ đến kim, từ Đông qua Tây không nước nào mà chẳng có. Chẳng hạn như vào thời tam quốc (Ngụy thuộc Tào Tháo, Thục có Khổng Minh phò Lưu Bị, Ngô có Tôn Quyền) bên Trung Hoa (200T.L) gian thần Tào Tháo ép chế, chuyên quyền và sau cùng soán ngôi vua Hiến Đế, tiêu diệt nhà Hán, lập con mình là Tào Phi lên ngôi tự xưng là Đại Ngụy Hoàng đế. Về sau Tư Mã Ý, nguyên là đại thần của Tào Tháo, cũng noi theo gương Tào Tháo, ép chế Tào Phi, đoạt ngôi nhà Ngụy cho con mình là Tư Mã Viêm, gồm thâu ba nước và lập ra nhà Đại Tấn. Cũng giống như thời Đông Châu Liệt Quốc hay Hán Sở tranh hùng, vào thời tam quốc cũng xuất hiện rất nhiều anh hùng nhân kiệt, trung liệt khí phách. Ngoài ba anh em kết nghĩa vườn đào Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, còn có một anh hùng tín nghĩa sắt son, mưu trí như thần, tận trung báo quốc và hy sinh suốt cả cuộc đời cho lý tưởng đến hơi thở sau cùng. Người đó không ai khác hơn là Khổng Minh Gia Cát Lượng, một quân sư tài ba xuất chúng phò hai triều đại với lòng tận trung báo quốc.

Tuy nắm trọn quyền bính trong tay mà ông không bao giờ có lòng gian xảo, âm mưu đoạt ngôi của người. Ngược lại cũng có những tay gian hùng như Tào Tháo, Tư Mã Ý giúp người, cậy lòng tin của người, ép người rồi chiếm đoạt ngôi báu của người. Cho nên công hầu khanh tướng là bả công danh, là phiền não, là gian manh xảo quyệt, là trên đội dưới đạp, là lợi mình hại người, là tạo nghiệp, là sinh tử luân hồi. Vì thế ngày xưa Đức Phật khi xuất gia thì Ngài buông bỏ tất cả, chẳng cần làm vua mà cũng chẳng ham chuộng hư danh Thái thượng hoàng. Chẳng những Ngài buông bỏ mà Ngài còn hướng dẫn con Ngài là La Hầu La, công chúa Da Du Đà La, dưỡng mẫu Ma Ha Ba Xa Ba và biết bao công tôn vương tử khác noi theo bước chân Phật. Còn tham công danh phú quý là còn dính liền với phiền não, nô lệ cho vô minh. Trong Phật giáo, một khi hành giả chứng được Sơ thiền thì chính họ đã lìa được ái dục tức là không còn tâm tham muốn. Cao hơn nữa thì có các vị A La Hán đã hóa giải hết Tham-Sân-Si, không còn phiền não chướng nên tâm hoàn toàn thanh tịnh. Vì thế còn làm vua hay còn muốn cho con mình làm vua để truyền tử lưu tôn tức là còn tham, ái, hỉ, nộ thì làm sao thành Phật được?


Trong lịch sử cận đại ở Việt Nam cũng có rất nhiều câu chuyện nói về những vị Tăng sĩ dấn thân làm cách mạng như Thiền Sư Thích Mật Thể… Chúng tôi xin trích đăng nguyên văn những bài viết nói về Thiền Sư Thích Mật Thể của Thầy Thích Đồng Bổn như sau:


“Tháng giêng năm 1946, khi Chính Phủ Lâm Thời tổ chức Tổng tuyển cử, Thiền Sư Thích Mật Thể ra ứng cử ở Thừa Thiên và đắc cử làm đại biểu Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Chính phủ của Hồ Chí Minh) khóa đầu tiên. Đây cũng là lần đầu tiên một vị Tăng sĩ Phật giáo Việt Nam trực tiếp đi vào đường chính trị. Cũng năm 1946, ông được mời làm Chủ Tịch Ủy ban Phật Giáo Cứu quốc tỉnh Thừa Thiên. Trước khi rút về chiến khu, Mật Thể đã gặp một số anh em đồng chí tại chùa Thế Chí ở Đại Lộc”.


Và tác giả Điều Ngự Tử Tín Nghĩa cũng viết thêm:


“Thích Mật Thể theo kháng chiến cho đến năm 1961 thì mất. Ông viên tịch tại Nghệ An, thọ 49 tuổi. Trong thời gian 1957-1961, vì chống lại chính sách đè nén Phật giáo của chính quyền miền Bắc, ông đã bị quản thúc tại Hà Tĩnh và Nghệ An, ông bị cô lập hoàn toàn. Ở trong một căn nhà lá miền quê, ông không được phép di chuyển đi đâu cả và người trong làng trong xóm cũng không được tới viếng thăm. Thỉnh thoảng có người đi ngang qua ném lén vào sân cho ông một túi gạo nhỏ, gọi là để tiếp tế cho ông trong lúc ngặt nghèo”.


“Ông thẳng thắn phê bình sự nông cạn của chủ thuyết Duy Vật. Phật giáo không phải là duy vật, cũng không phải là duy tâm. Ông nhấn mạnh đến nguy cơ của những nhà làm chính trị thiếu căn bản đạo đức. Ông nói rằng chủ thuyết của chủ nghĩa xã hội rất hay, nhưng vì căn bản của lý thuyết này đã sai lầm “nhận vật chất làm căn nguyên sinh ra vạn hữu” cho nên “Xã hội chủ nghĩa trở nên nông cạn, chỉ thấy hạnh phúc của con người ở cơm ăn áo mặc. Sau cùng ông kết luận: “Xét tận nguồn gốc xã hội chủ nghĩa tổ chức kinh tế khéo giỏi đến đâu mà không có phương pháp để thủ tiêu lòng tham-sân-si cùng bản ngã nhỏ hẹp kia, thì nhân loại cũng không bao giờ hết khổ được”.


Sự diễn biến thăng trầm của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên trước và sau năm 1975 đã được những sử gia nghiên cứu và ghi chép đầy đủ rồi. Nhưng ở đây, chúng tôi trong tư thế khách quan chỉ trích đăng nguyên văn một vài đoạn trong cuốn “Bạch Thư” của Hòa Thượng Thích Tâm Châu phát hành năm 1993 để quý Phật tử tư duy quán chiếu.


Trang 24 cuốn “Bạch Thư” Hòa Thượng Tâm Châu viết rằng:


“Bỗng nhiên vào buổi chiều của một hôm. Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh mời tôi lên tư thất Cụ Chánh Trí - Mai Thọ Truyền. Tại đây, Quý Thượng Tọa yêu cầu tôi làm Trưởng Ban Tổ Chức, triệu tập Đại Hội 11 Giáo Phái, Hội Đồng trong ủy ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo hội hợp để thành lập Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất”.


“Trở về chùa Xá Lợi… đến ngày 1-1-1964. Bản Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất của Thượng Tọa Trí Quang soạn thảo được chấp thuận, bản Hiến Chương của Thượng Tọa Đức Nhuận bị loại. Cụ Mai Thọ Truyền làm Chủ Tịch Ban Thảo Hiến”.


“… Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chủ trương xóa bỏ các Giáo Phái, Hội Đoàn mà chỉ cần giám hộ các chùa, thu nạp Tăng Ni, Phật tử vào trong khuôn khổ Giáo Hội của mình… Do đó, khi tôi đảm nhận trọng trách thực hiện Hiến Chương thì Thượng Tọa Giới Nghiêm viết thơ cho tôi, mạt sát thậm tệ và quyết định không gia nhập”.
Trang 29 Hòa Thượng Tâm Châu viết tiếp:


“Tại Huế, Đà Nẳng và vài nơi khác tại miền Trung cũng vậy, không sao vãn hồi được trật tự… Thượng Tọa Trí Quang cùng nhóm tranh đấu tại Huế, kêu gọi Phật tử đem bàn thờ Phật ra đường, để ngăn cản bước tiến của Quân Đội Chính Phủ, cho các cán bộ Cộng Sản nằm vùng trà trộn tẩu thoát”.


“Phong trào mang bàn thờ Phật ra đường lan tràn khắp nơi và vào cả đến Sàigòn. Tại Sàigòn họ đem hình ảnh Phật ra để trên đống rác”.


“Đem Phật ra đường rồi, Thượng Tọa Trí Quang vào Tòa Hành Chánh tỉnh Thừa Thiên tuyệt thực”.


Trang 31 Hòa Thượng Tâm Châu lại viết:


“Bất ngờ 3 giờ sáng ngày 23-10-1966, tại chùa Ấn Quang một số các Thượng Tọa lén lút thành lập Hội Đồng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất và đề cử Thượng Tọa Thích Thiện Hoa (thầy của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, Trúc Lâm Thiền Viện) làm viện trưởng, coi như lật đổ tôi. Từ đó có ra Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại Ấn Quang”.


“Sau đó, Viện Hóa Đạo Ấn Quang chuyển hướng theo đường hướng “Hòa Bình Khuynh Tả”. Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử các vị ra nước ngoài liên lạc với các nhóm phản chiến, yêu cầu Mỹ rút quân, đòi hòa bình. Viện Hóa Đạo Ấn Quang cử Thượng Tọa Nhất Hạnh (nay là Thiền Sư Nhất Hạnh của Làng Mai bên Pháp) làm Trưởng Phái Đoàn Hòa Bình bên cạnh Hòa Đàm Paris”.
Trang 32 Hòa Thượng Tâm Châu lại viết:


“Đùng một cái, một hôm vào khoảng 7 giờ tối, một số Tăng tại chùa Ấn Quang, được sự hổ trợ của các dân biểu thân Ấn Quang có súng, như Kiều Mộng Thu… đột nhập vào Việt Nam Quốc Tự bắt Thượng Tọa Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Thích Thiện Tường, cùng rất đông chư Tăng, đem về nhốt tại chùa Ấn Quang”.


Và trang 33, Hòa Thượng viết tiếp:


“Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang được sự hộ trợ ngầm của Cộng Sản nằm vùng, lải nhải vu khống cho Việt Nam Quốc Tự chia rẽ giáo hội”.


Trang 35 Hòa Thượng viết rằng:


“Tình hình biến chuyển bất lợi cho Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 30-4-1975 là ngày cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng bộ mặt thân Cộng Sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân Cộng Sản từ rừng về Sàigòn, đã có gần 500 Tăng Ni của phe tranh đấu Ấn Quang ra đón chào.
- Ngày 19-5-1975 phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức sinh nhật Hồ Chí Minh tại chùa Ấn Quang.


- Vào khoảng năm 1980, 1981, chính Thượng Tọa Thích Trí Thủ Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Ấn Quang cùng các vị cao cấp nhất phe tranh đấu Ấn Quang đã tích cực vận động thành lập và tham gia vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), mà người ta thường gọi là “Giáo Hội Quốc Doanh” hay “Giáo Hội Nhà Nước”. Chỉ có Thượng Tọa Thiện Minh, Huyền Quang, Đức Nhuận, Quảng Độ và một số nhỏ các vị khác không tán thành, nên bị bắt hay bị giết”.


Cùng tranh đấu, hoạt động ủng hộ làm lợi cho Cộng Sản và làm sụp đổ nền Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam mà cuối cùng có người bị Cộng Sản giết chết, tù đày còn người khác thì được cho đi ngoại quốc du lịch quyên tiền về làm chùa to, xây đạo tràng lớn thì thật là ngậm ngùi chua xót cho con tạo khéo xoay vần. Ngay cả Ôn Như Hầu cũng than rằng:


Mồi phú quý dữ làng xa mã,
Bả vinh hoa lừa gã công khanh,
Giấc Nam Kha khéo bất bình,
Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.


Bả công danh là phù du giả tạo thế mà lúc nào cá cũng cắn mồi cho nên Nguyễn Gia Thiều nói thêm:


Tuồng ảo hóa đã bày ra đấy,
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau,


Người xuất gia mà tự mình muốn gánh thêm nỗi khổ nên Ôn Như Hầu mới kết luận là :


Mùi tục lụy đường kia cay đắng,
Vui chi mà đeo đẳng trần duyên.


Đến khi kẻ ngồi tù, người bị giết mà vẫn chưa thức tỉnh:


Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi,
Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.


Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” của Trung Tướng Trần Văn Đôn có viết rằng ngày 2-11-1963 khi Trung Tướng gặp Thượng tọa Thích Trí Quang tại tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, Thượng tọa cũng nhắc rằng:
“Hãy tuyệt đối tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng”.


Không biết thắng lợi cuối cùng mà Thượng tọa muốn nói là gì, phải chăng là ngày 30-4-1975? Nhưng câu nói này hơi giống lời nói sau cùng của Lê Hồng Phong, Tổng bí thư thứ 2 Đảng Cộng sản Đông Dương trước khi chết tại Côn Đảo năm 1942 là: “Tới giờ phút cuối cùng Lê Hồng Phong vẫn một lòng tin tưởng ở thắng lợi vẻ vang của Cách Mạng”. Thật là:


“Cánh buồm bể hoạn mênh mang,
Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh”.


Khi nói về Giáo Hội Quốc Doanh, tác giả Tâm Tràng Ngô Trọng Anh có viết trong bài “Pháp Thoại Của Năm Đại Tăng Xứ Huế”, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn vài đoạn để quý Phật tử thẩm chiếu:
- Năm 1982 Hòa Thượng Huyền Quang và Hòa Thượng Quảng Độ bị bắt và giải về nguyên quán giam giữ.
- Ngày 23-3-1984, Hòa hượng Thích Đức Nhuận, Thượng Tọa Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Ni Sư Trí Hải đều bị Công An bắt hết.


- Mấy ngày sau Hòa Thượng Trí Thủ bị công an đem xe đến chùa bắt đi bệnh viện và bức tử tại đó (2-4-1984). Tôi biết rõ việc này. Thầy không có đau bệnh gì cả. Thầy bị giết vì Thầy làm bình phong bảo vệ Đạo Pháp và Dân Tộc ngày càng thành công cần phải triệt hạ. Xác đem về chùa Già Lam đầy máu me ở mũi và miệng. Hung tin truyền miệng lan rộng như hải triều âm. Cộng sản hoảng hốt liền cho Công an đến cướp nhục thân Ngài đưa quan tài lên chùa Xá Lợi làm nghi lễ Quốc tang vô cùng trọng thể, Phật tử khắp mọi noi toàn quốc kéo về bất chấp giấy tạm vắng, tạm trú của công an khu vực… Hòa Thượng Thích Thanh Trí đương kim Chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Thừa Thiên – Huế cũng viên tịch sau đó.


Đạo Phật dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quả có nghĩa là “tự tác hoàn tự thọ” chớ không thể ẩm ờ mà nói rằng:


“Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gầy dựng cho nên nỗi này”.


Và tác giả Ngô Trọng Anh kết luận :


-    Nghiệp làm bình phong chịu trận như Ngài Trí Thủ chết dễ như chơi. Ngoài đức tính vô úy, Ngài có sức chịu đựng, nhẫn nhục vô bờ bến vì dễ bị hiểu lầm. Chính Ngài Đôn Hậu đích thân lên Già Lam la mắng oan Ngài Trí Thủ thậm tệ khi Ngài thành lập Giáo Hội Quốc Doanh dưới sức ép tàn nhẫn của cộng sản.


Không hiểu các sư trong Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất nghĩ thế nào mà ngày nay vẫn còn tranh với đấu. Trong cuốn “Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi” của Hoàng Linh Đổ Mậu ở kế trang 122 có những tấm hình của

Thượng Tọa  Hộ Giác, Thiện Minh, Trí Quang vai bên vai, sát cánh tranh đấu bên nhau và kế trang 126 hình Thượng tọa Huyền Quang hân hoan đọc diễn văn chào mừng quan khách trước sự hiện diện của Trung tướng Dương Văn Minh, Đổ Mậu… và rất nhiều nhân viên sứ quán Hoa Kỳ trong lễ khai mạc Đại Hội Phật Giáo Thống Nhất đầu tiên vào năm 1964. Thế thì dưới ánh mắt của Cộng sản, Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất là tàn tích của nền đệ nhị Cộng Hòa tức là Ngụy mặc dù oái ăm thay các sư không phải là Ngụy nên làm sao tồn tại trong xã hội chủ nghĩa được. Nếu tồn tại thì Nghĩa Trang Quân Đội ở Biên Hòa vẫn còn chớ đâu có bị tàn phá hủy diệt.

Cũng vì liên quan đến CIA mà Tướng Bạch Đằng của Cộng Sản đã đề nghị với Lê Đức Thọ đừng nên dùng Thượng tọa Trí Quang vì họ nghĩ rằng ông là người một mặt hai lòng (vừa đi với Mỹ vừa đi với Cộng sản), không tín nghĩa. Vì thế mà Thượng tọa Trí Quang lui về Vũng Tàu tham thiền lánh nạn. Mấy sư phấn khởi ủng hộ cho Cộng sản mà quên mất đi lời Phật dạy rằng: “Tấm thân tứ đại là vô thường giả tạm nên chúng sinh chỉ dùng nó như là chiếc bè để sang sông. Sang sông rồi bỏ chiếc thuyền chớ đừng mang theo mà mệt nhọc, khổ đau”. Các sư nghĩ rằng Cộng sản là vô thần nên không biết Phật Pháp. Chẳng những họ rành Phật Pháp mà còn biết áp dụng triệt để, rốt ráo nữa là khác.

Bây giờ Cộng sản sang sông được rồi thì họ vứt bỏ chiếc thuyền “Giáo Hội Thống Nhất” của các sư chớ mang theo chi mà mệt nhọc, khổ đau và nhức đầu mỗi khi nghe các sư kể công kể sức. Các sư ngày nay tranh đấu không phải là cho tự do dân chủ, cho nền Cộng hòa bởi vì trong thời đệ nhị Cộng hòa các sư có đầy đủ tự do dân chủ mà vẫn hăng say tranh đấu như thường! Phải chăng các sư tranh đấu là cho cái bóng ma “Giáo Hội Thống Nhất” hay cho cái ảo vị “Tăng thống” của các sư? Thời Cộng hòa các sư công khai biểu tình, tuyệt thực, đem Phật ra đường thì tại sao ngày nay không tiếp tục truyền thống tranh đấu đó để thống nhất Phật giáo và xóa bỏ giáo hội quốc doanh của nhà nước? Vàng thật thì sợ gì lửa? Sự tranh đấu hồ hởi của các sư đã làm sụp đổ nhanh nền Cộng hòa đưa đến cái chết của biết bao thường dân vô tội. Kết quả mấy trăm ngàn người thân xác chìm sâu dưới lòng đại dương và biết bao người khác bỏ thây trong những trại tù cải tạo, nhà tan cửa nát mà các sư vẫn chưa thấy đủ sao? Thôi các sư nên chín bỏ làm mười, an phận tu hành vì “vạn pháp giai không” nên bám víu chấp thủ vào nó để làm gì.


Chớ đừng:


“Đa mang chi nữa đèo bồng
Vui gì thế sự mà mong nhân tình”


Mà hãy:


“Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa
Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên” đi.


Ở hải ngoại có nhiều dư luận nói về phong trào phản chiến, thiên tả của Thiền sư Nhất Hạnh hay lời nhạc Trịnh Công Sơn qua tiếng hát Khánh Ly có thật sự ảnh hưởng đến cuộc chiến Việt Nam chăng? Có câu chuyện để ôn cố tri tân như thế này:


Ngày xưa trong thời kỳ Hán Sở tranh hùng, Hạng Võ (vua nước Sở) là tay dũng tướng đánh đổ nhà Tần, sức mạnh vô địch có thể nâng nổi chiếc đỉnh đồng nặng ngàn cân. Khi dấy binh khởi nghĩa, dân chúng sáu nước chư hầu đều ủng hộ  ông vì ai ai cũng đều chán ghét chế độ bạo tàn của Tần Thủy Hoàng. Thế nhưng khi nắm được quyền thế trong tay thì uy quyền, danh hoa, phú quý làm ông tối mắt mà đi theo vết xe đổ của bạo chúa nhà Tần nên Lưu Bang (nhà Hán) với sự điều binh khiển tướng của Hàn Tín xua quân đánh đuổi. Tuy dưới trướng của Hàn Tín có rất nhiều danh tướng, nhưng ông chống cự rất mãnh liệt, quả xứng danh mãnh hổ địch quần hùng. Sợ Hạng Võ chạy trốn về nước Sở là quê hương của ông thì rất khó tiêu diệt nên Quân sư của Lưu Bang là Trương Lương trong đêm thanh vắng lên đỉnh núi cao dùng tiếng tiêu sầu (tiếng sáo) để làm vơi lòng chiến sĩ khiến họ nhớ vợ con, thương cha mẹ ở quê nhà mà lần lượt đào ngũ hoặc chiến đấu với tinh thần tiêu cực. Mặt trời bình minh ló dạng, Hạng Võ thức giấc thấy quanh mình chỉ còn lẻ loi vài người trung tín. Biết thế cùng lực tận, không thể nào chống nổi, ông bèn tự vận ở bến Ô Giang.


Trong những năm gần đây, tác giả Dương Thu Hương viết trong bài “Tôi là Phật tử theo cách riêng của tôi”, chúng tôi xin trích đăng nguyên văn đoạn chót khi diễn tả về kinh nghiệm chính bản thân của bà tại Việt Nam để quý Phật tử tư duy quán chiếu:


“… Cách đây chừng mười bảy, mười tám năm một ngày Xuân tôi đi viếng cảnh chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng một lần, siêng năng nhất là mùa Xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn may mắn sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ trương “tiêu diệt tàn dư phong kiến” của chính quyền cộng sản. Không có gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa trồng mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những cây đào và cây mai chen vai, thích cảnh cuốn hút tôi vào mùa Xuân và khi mùa Thu đến, đám cành trần trụi khẳng khịu vươn lên trong lặng lẻ cũng mang lại một vẻ đẹp u sầu và nghiêm cẩn, vẻ đẹp ta thường gặp ở một ngôi chùa cổ xứ Bắc.


Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm cong queo, bát cháo ăn dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà “sư nữ” ngoài tam tuần mắt long sòng sọc tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:


-    Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!..


Sư cụ đã quá yếu không cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà hung hãn:


-    Mày chết đi…


Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi bên. Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập “ngang hông” bởi thông thường khách thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng tôi quen mọi ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng “mô phật” như lần trước cô ta ném cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền 1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các chân tu ở lại, thay vì chủ trì. “Nhân sự” do “bên trên” đưa xuống.
Vậy cái gì là “bên trên”?


Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp chùa chiền xứ sở?... Chẳng có gì bí mật cả, “bên trên” là A 25. Cục bảo vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội Vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi để “yểm” Hội Phật giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc. Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh, tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là “tàn tích của chế độ phong kiến”. Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ theo.

Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương Đông đứng chơ vơ không biết từ nay “người cầm lái vĩ đại” của họ sẽ là ai? Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá, nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu cầu sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng hơn vai trò “bảo vệ nền chuyên chính”. Nhiệm vụ của họ là “khống chế hội phật giáo” biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và … điều này nữa, các tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh “mê tín” kia. Vậy là đội quân “sư nhà nước” được hình thành.


Nguồn đào tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ… có thành phần cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này được “tráng men” bằng lý thuyết đạo Phật và trước hết các phương pháp niệm kinh, hành lễ để “vào nghề”. Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ “tôi tớ trung thành” được quyền thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ trục lợi “những khác vọng tâm linh” của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần phấp phới cưỡi xe vù vù đi “hợp kín”. Hợp kín ở đây tức là hợp “giao ban” ngành dọc A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những cọc tiền thu được từ các thùng công đức là “không thể rành mạch” vì các sư còn phải mang về quê xây nhà tầng và lo cho các con học đại học trong nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định và ngược lại… So với các nghề khác trong Bộ Nội Vụ, “nghề làm sư” là béo bở, chỉ thua  kém “Cục buôn lậu ma túy” thôi.


Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.


Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu. Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một thí dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ
…”.


Người Tây phương có câu: “chiếc áo không làm nên người tu sĩ” bởi vì chiếc áo không phải là tâm đạo đức, tánh thuần lương của một nhà tu chân chánh. Vì thế trong kinh Duy Ma Cật, Phật dạy rằng tu hành không quan trọng chuyện đầu tròn áo vuông, không chạy theo hình tướng bề ngoài mà là sự tu sửa từ trong nội tâm để thanh lọc những vẩn đục tham-sân-si làm cho tâm được thanh tịnh. Ngày nay hiện tượng sư “lợi dưỡng” mà ngày xưa chính Đức Phật dùng để gọi các Tỳ kheo bị lợi ích vật chất lôi cuốn, chìm đắm vào đó mà xao lãng những mục đích cao quý của việc xuất gia. Hiện tượng này đã xuất hiện vào thời Đức Phật, vì vậy ngày nay giữa thế giới vật chất đầy cám dỗ thì điều này không thể tránh khỏi.


Các sư dạy chúng sinh nhân quả mà chính mình chẳng coi nhân quả là gì thì đủ biết Phật giáo sa sút đến mức nào!


Ngày xưa Đức Phật và biết bao đệ tử của Ngài từ bỏ giàu sang phú quý, quyền cao chức trọng để xuất gia cầu đạo và sống đời thanh bần an lạc mà hoằng pháp lợi sanh. Ngày nay người đệ tử Phật thì ngược lại muốn xuất gia để có được quyền uy, danh vọng, ăn trên ngồi trước, giàu sang phú quý. Như thế đủ biết tinh thần: “Xã phú cầu bần xã thân cầu đạo” chỉ còn là kỷ niệm, là cái bóng của quá khứ. Ngay cả những danh từ rất khả kính như “bần tăng”, “bần ni” cũng dần theo thời gian biến mất.


Có Cộng sản là bởi do thực dân, phong kiến. Ngày nay thực dân phong kiến không còn thì Cộng sản diễn lại “tuồng” thực dân phong kiến. Thế thì tuồng xưa hát lại, chỉ khác nhau là đào kép mới vậy thôi. Trước sau dân khố rách vẫn hoàn khố rách. Ngày xưa bạo chúa Tần Thủy Hoàng cưỡng chiếm nước Yên, bị Công chúa nước Yên mắng thẳng vào mặt rằng: “Mày phản phúc, lừa người và dùng bạo quyền chiếm được đất Yên, nhưng mày không bao giờ chiếm được lòng người dân nước Yên”. Và Quỷ Cốc Tiên sư đã nói với Bàng Quyên trước khi cho người đệ tử xuống núi: “Mày lừa người, hại người để đoạt công danh phú quý thì người sẽ lừa mày, hại mày trở lại”. Tuy thầy đã căn dặn, nhưng con người phản phúc Bàng Quyên vẫn lừa, chặt hai chân Tôn Tẩn nên về sau Tôn Tẩn dùng binh pháp lừa lại rồi chặt đầu Bàng Quyên. Trước sau vẫn không ngoài nhân quả báo ứng.


Ngoài những vị tu sĩ “thích” dấn thân vào chính trường, Phật giáo Việt Nam cũng có những vị Hòa Thượng chỉ chuyên tu hành cầu giải thoát và hoằng pháp lợi sanh. Chúng tôi xin trích nguyên văn một đoạn của Thầy Thích Đồng Bổn thuộc Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam đã viết về Hòa Thượng Thích Trí Hải như sau :


- Tôi có duyên lành được gặp Ngài một lần khi Ngài đến thăm Hòa Thượng chùa Đông Hưng, bổn sư của tôi, cũng là y chỉ sư của Hòa Thượng Quảng Thạc, một đệ tử của Ngài khi còn ở đất Bắc. Cung cách khiêm cung, Ngài cùng Hòa Thượng tôi đàm đạo về quá trình tu tập cũng như Phật học, hai Ngài đã rất tâm đắc về chí nguyện giải thoát và cùng nhau kết luận một câu nói để đời:

“MỤC ĐÍCH TU HÀNH KHÔNG PHẢI ĐỂ LÀM CHÍNH TRỊ”.

Tại sao? Bởi vì chính trị có nhiều đòn phép dơ bẩn thâm độc, là gian manh, xảo quyệt, mánh lới, thủ đoạn, bẩn thỉu, đê hèn, lợi mình hại người, bất chấp phương tiện miễn sao đạt đến cứu cánh, chẳng những không thích hợp với đạo lý sống của con người mà còn đi ngược lại với tinh thần vô ngã vị tha của nhà Phật.


Những trích đoạn trên đây là bút ký riêng của Hòa Thượng Thích Tâm Châu, tác giả Tâm Tràng Ngô Trọng Anh và tác giả Dương Thu Hương. Vì là tư tưởng cá nhân nên sẽ có thuận hay nghịch, đúng hay sai, hài lòng hay không tùy theo khuynh hướng, lập trường hay tư tưởng sống của mỗi người. Ngôn ngữ, văn tự chỉ là kết quả của sự đối đãi nhị nguyên trong thế giới tương đối. Thông thường cái “đúng” của phàm nhân là cùng phe, cùng phái, cùng tư tưởng với mình còn “sai” là khác phe khác phái. Cái đúng này khác với cái đúng khách quan, đúng với sự thật, đúng với chân lý. Nhưng đứng về mặt bản thể tuyệt đối thì hễ có nói là không đúng, cho dù nói hay cách mấy cũng sai chân lý. Chỉ có sự im lặng của Chánh pháp, sự vô ngôn của giải thoát giác ngộ là phương tiện tốt nhất để có sự thức tỉnh toàn vẹn. Vì thế kinh Bát Nhã có câu: “vô thuyết vô văn chơn Bát Nhã” là vậy.


Quý Phật tử muốn xem toàn bộ cuốn “Bạch Thư” hay bài “Pháp Thoại của Năm Đại Tăng Xứ Huế” xin vào www.thuvienhoasen.net  vào phần “Sử Phật Giáo Việt Nam” hay bài “Tôi là Phật tử theo cách riêng của tôi” xin vào www.toquocvietnam.org.


Nhưng tại sao các vị xuất gia “thích” tham gia chính trị?


Theo tinh thần Phật giáo, những vị tu sĩ “Thân xuất gia mà tâm không xuất gia” nghĩa là những vị tu hành tuy thân đã vào đạo mà tâm vẫn còn đắm nhiễm thế tục, thích việc hý luận thế gian cho nên nơi nào có danh, văn, lợi, dưỡng là có mặt vị này. Vì thế những vị tu hành mà không tu theo Thiền na nghĩa là họ không nhập được định thì tâm vọng động sẽ nổi lên mà nhà Phật gọi là “thối đọa” nghĩa là tu lâu mà không đạt được gì cả. Lúc đó họ sẽ sinh tâm ham danh lợi, thích tham gia hoạt động chính trị thay vì chuyên tu tâm cầu giải thoát. Vì sao? Bởi vì sắc, tài, danh, lợi thì lúc nào cũng núp ở trong tâm của con người, nó chỉ đợi có cơ hội là phát hiện cho nên nếu không thể nhập vào đại định để có đủ trí tuệ mà tiêu diệt nó thì sự xuất hiện của tham-sân-si chỉ còn là vấn đề thời gian trước hay sau, mau hay chậm  mà thôi.
Đức Phật dạy rằng:


“Tri kiến lập tri tức vô minh bổn
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn”


Nghĩa là đem sự thấy biết bên ngoài đưa vào tâm tức là đem những cái thấy, nghe, biết của mình chồng lên sự phân biệt thương ghét, lấy bỏ, hơn thua, tốt xấu thì đây chính là gốc rễ của phiền não, vô minh. Còn thấy biết rồi bỏ đi tức là không mời khách trần vào tâm thì mới tìm thấy Niết bàn. Nói cách khác người đệ tử Phật phải biết cái gì là gút để phải vướng mắc mãi mãi trong sinh tử luân hồi hoặc làm sao mở gút để không còn ràng buộc trói trăn mà bước đi thong dong tự tại. Nói thế có nghĩa là đừng đem những chuyện tranh chấp của thế gian đưa vào tâm sẽ làm cho tâm bất tịnh. Đức Phật dạy chúng sinh tin sâu vào nhân quả bởi vì không có việc “một người ăn mà người khác được no” mà phải là “ai ăn người nấy no, ai uống người đó hết khác”. Người đệ tử Phật nếu muốn đi theo con đường giải thoát giác ngộ thì nên tránh xa tranh chấp, xung đột, bè phái chính trị. Bởi vì còn tranh đấu, còn tranh chấp, còn chia rẽ là còn đi trên con đường tạo nghiệp, con đường sinh tử trầm luân. Phật Pháp giúp chúng sinh sống gần với chân tánh của chính mình còn đấu tranh là chạy theo vô minh phiền não.


Vào thập niên sáu mươi, khi ca sĩ Elvis Prestley được Tổng thống Nixon mời vào tòa nhà trắng. Sau khi chụp hình kỷ niệm thì Elvis nói với Nixon rằng :


“Tôi rất thích cảnh uy quyền của ông. Nay mai tôi sẽ vận dụng tranh cử để được ngồi vào chiếc ghế quyền uy tối thượng này”.


Nixon êm diệu trả lời :


- “Ông lầm rồi, chức vụ Tổng thống ở Hoa Kỳ chỉ có tối đa là 50% người dân của phe mình ủng hộ. Tôi là Tổng thống Cộng Hòa thì người Dân Chủ lúc nào cũng bới lông tìm vết để hạ bệ tôi. Đó là chưa kể phải đối đầu với biết bao nỗi khó khăn về mọi mặt từ trong nước đến hải ngoại. Còn ông ngày nay và có lẽ mãi mãi về sau ai ai cũng yêu cũng thích những lời ca và điệu nhảy bất tử của ông. Thế thì ông còn muốn đánh đổi nữa chăng?”.


Nguyên lý Bất Nhị được xiển dương trong kinh Duy Ma Cật để khai thị cho người đệ tử Phật về đường tu không hai tức là không còn phân biệt có hai, có sự đối đãi của những hiện tượng thế gian pháp. Khi đã thấu hiểu chân lý này, người đệ tử Phật sẽ không còn thấy có sự khác biệt giữa mình và người vì mình và người vốn là một cùng chung một bản thể. Không còn thấy sự khác biệt giữa giáo hội nầy hay giáo hội nọ, không còn thấy có Phật giáo Việt Nam hay Phật giáo Ấn độ, Phật giáo Tây Tạng hay Phật giáo Trung Hoa vì mỗi quốc gia tuy ngôn ngữ có khác nhau, hình thức xây dựng chùa chiền khác nhau, nhưng tất cả cũng là Phật giáo phát xuất từ một cội nguồn và sau cùng quy về một cứu cánh là giải thoát giác ngộ cũng như trăm sông cùng đổ về biển lớn. Nói cách khác Phật giáo giống như một cây Bồ-đề, phát xuất từ một cội nguồn, tuy dần theo thời gian có sinh ra trăm nhánh, nhưng cuối cùng nhánh nào cũng trổ cùng một loại trái giải thoát giác ngộ, không sai không khác. Vì thấy có hai nên con người mới có sự phân biệt, có tốt có xấu, có người có ta, có giáo hội mình giáo hội người nên mới có sự xung đột, tranh đấu, chia rẽ, giết hại lẫn nhau.

Tinh thần vô ngã (không phải cho mình) vị tha (vì người) của nhà Phật là không còn thấy có mình, có người do đó nếu người đệ tử Phật còn thấy có giáo hội này, giáo hội nọ là còn chạy theo chấp ngã, chấp tướng tức là vẫn còn nô lệ cho phiền não vô minh, khư khư ôm giữ quá khứ nên sống trong ảo tưởng oan đường. Ngày xưa Đức Phật xuất thân từ cung thành Ca Tỳ La Vệ, nhưng trong kinh điển Phật giáo không hề nói Phật giáo Ca Tỳ La Vệ hay Phật giáo Ma Kiệt Đà mà chỉ thuần nhất Phật giáo. Ngay cả giáo lý nhiệm mầu mà Như Lai chứng ngộ dưới cội Bồ-đề thì chính Đức Phật cũng không bao giờ nói là của mình bởi vì Như Lai chỉ thuật lại những gì mà Như Lai thực chứng. Mà chân lý là sự thật vĩnh hằng của thế gian vũ trụ chớ đâu phải của riêng gì cho Như Lai. Vì thế trong suốt bốn mươi chín năm hoằng pháp lợi sinh, Ngài nói:


“Thị tùng thành đạo hậu
Chung chí bạt-đề hà
Ư thị nhị trung gian
Vị thường thuyết nhứt tự”


Nghĩa là:


Từ khi mới thành đạo
Đến lúc nhập Niết bàn
Trong khoảng thời gian này
Ta không nói một chữ.


Con người vì còn chạy theo vị ngã nên mới thấy là của mình, thuộc về mình, nhưng thật ra trong thế gian có cái gì là của mình, thuộc về mình đâu? Có ai bảo đảm quý vị sẽ tái sinh là người Việt Nam trở lại hay là nghiệp lực sẽ quyết định vận mệnh của mình? “Vạn pháp giai không - Duyên sanh như huyển” nghĩa là đời là giả tạm, duyên kết thì tạm có, duyên tan thì tan rã, biến mất vì thế cái gì là thật của mình, thuộc về mình mà phải ôm giữ, tranh đấu?


Trong cuốn “Lược Sử Phật Giáo” tác giả Edward Conze có viết rằng:


-    Phật giáo chưa bao giờ được biết là có cơ chế quyền lực trung ương theo kiểu như Giáo Hoàng của Thiên Chúa giáo hay giáo chủ Khalif của Hồi giáo.


Phật giáo là đạo tự giải thoát giác ngộ chớ không do ai cứu rỗi như Thiên Chúa giáo vì thế chức vị Tăng Thống hay cơ chế quyền lực dùng để làm gì, cứu rỗi cho ai? Đạo Phật là đạo giải thoát chớ đâu phải hệ thống trói buộc. Phật ở trong tâm vì thế bất cứ ở đâu hễ có tâm là có Phật. Ngày xưa vua Trần Thái Tông rời cung điện nguy nga, leo trèo lặn lội, núi hiểm suối sâu tìm lên núi Yên Tử để tìm Phật thì Quốc sư Trúc Lâm nói rằng : ”Trong núi vốn không có Phật, Phật chỉ ở trong tâm. Tâm lặng mà biết gọi là Chơn tâm. Nay bệ hạ nếu ngộ tâm này thì tức khắc thành Phật, không nhọc cầu bên ngoài”. Chùa là cửa Phật, ở đâu hay chùa nào cũng là cửa Phật, tu theo pháp môn nào cũng là đạo Phật và vị Tăng nào cũng là đệ tử Phật. Ai muốn tu chùa nào cũng được, quy y với vị Tăng nào cũng thế vì quy y Tam Bảo chớ đâu phải quy y làm đệ tử riêng cho vị Tăng hay chùa nào. Rất nhiều người cho đến ngày nay vẫn còn lầm tưởng là chỉ quy y với vị Tăng này chớ không quy y với vị Tăng kia hoặc nếu quy y với vị Tăng nào thì phải là đệ tử của vị Tăng đó suốt đời.

Dựa theo luật tạng thì bất cứ vị xuất gia nào đã thọ Đại Giới đều có thể vì chúng sinh mà truyền thọ Tam quy. Bởi vì quy y Tam Bảo là quy y với sự chứng minh của Tăng đoàn để bắt đầu xây dựng cuộc đời tu Phật của chính mình. Đây cũng được gọi là quy y thế gian trụ trì Tam Bảo dành cho những người sơ cơ mới vào đạo bởi vì Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng tức là tượng Phật, kinh điển hay tăng đoàn đều là sinh diệt, vô thường, biến hoại. Mà sinh diệt thì làm sao nương tựa? Khi mê thì thấy mình và Phật là “Hai” vì ta và Phật là hai thực thể khác biệt nên mới cầu Phật bên ngoài đến khi thức tỉnh mới biết tâm mình chính là tâm Phật. Do đó khi đã hiểu đạo rồi thì người Phật tử nên lìa Sự Tướng mà nhập vào Bản thể thanh tịnh bất sinh bất diệt. Đó là tự mình quy y Nhất Thể Tam Bảo để quay về sống với chơn tâm, Phật tánh thanh tịnh sẵn có của chính mình.


Ngày nay Phật giáo Việt Nam xuất hiện rất nhiều giáo hội gây ra biết bao sự chia rẽ khiến tinh thần lục hòa biến mất. Tình trạng Phật giáo thời nay có khác gì loạn 12 sứ quân đời Đinh Tiên Hoàng, ai cũng muốn làm sứ quân, quốc sư cả. Có giáo hội thì phải bày vẽ ra giáo điều. Đạo Phật là đạo giải thoát thì tại sao lại phải tự cột chặt mình vào giáo điều chủ nghĩa, đi ngược lại với lời di huấn của Đức Thế Tôn? Ngày xưa, Lục Tổ Huệ Năng được vua Trung Tông thỉnh mời về triều bao nhiêu lần đều bị Ngài từ chối. Trong lời từ chối, Ngài nói: “Tôi nguyện được trọn đời ở chốn núi rừng”. Đối với Lục Tổ, làm Quốc sư, làm Tăng Thống không quan trọng, chỉ là bả công danh, mà quan trọng nhất là làm sao tẩy sạch mọi ô nhiễm trong tâm để có giải thoát giác ngộ. Sau đó dùng sự giác ngộ, sự thực chứng của mình mà hoằng pháp cứu độ chúng sinh. Phải chăng đây là tâm nguyện của người xuất gia?

Con đường này chính Đức Phật Thích Ca đã đi và Lục Tổ cũng theo dấu chân Phật không sai, không khác. Lục Tổ không làm quốc sư mà ai ai cũng kính ngưỡng và nghe theo lời Tổ dạy làm cho Phật giáo Trung Hoa phát triển rạng ngời. Trong khi đó Thiền sư Thần Tú được phong làm Quốc sư, được mũ cao áo rộng mà chẳng chứng đắc được gì. Tu hành là gạt bỏ trí thức phân biệt đối đãi của thế gian để vun bồi đạo đức, phát triển trí tuệ và thực chứng chân lý. Ngày xưa Lục Tổ một chữ cũng không biết mà tu thành Phật trong khi ngày nay hàng vạn Tiến sĩ mà có ai chứng đắc gì đâu? Điều này đủ chứng minh rằng cái trí thức của phàm nhân và trí tuệ của bậc chứng đắc cũng ví như đom đóm mà so với trăng rằm vậy. Vì thế người xưa cũng nói rằng: “Càng thông minh càng u tối, càng tính toán càng hụt hao” để minh xác rằng cái trí thức vọng tâm hướng ngoại của chúng sinh không có một giá trị nào so với tác dụng vô niệm vô ngã của bậc chứng đắc.


Có người thắc mắc rằng tại sao thời nay vẫn còn sót một vài quốc gia đang thực thi chánh sách độc tài, phi dân chủ, giết hại chà đạp nhân quyền thế thì luật nhân quả của nhà Phật giải thích như thế nào?


Hãy nhìn ngược lại dòng lịch sử nhân loại, đâu có ông vua nào đốt sách thánh hiền, chôn sống nhân tài hiền sĩ và dùng bạo quyền để bịt miệng dân hơn bạo chúa Tần Thủy Hoàng, nhưng bây giờ vua nhà Tần và nước Tần ở đâu? Tần Thủy Hoàng tàn ác, sát hại dân lành nên khi Hạng Võ (vua nước Sở) đem quân vào Hàm Dương (kinh đô nước Tần) cũng tàn sát, giết hại con cháu nhà Tần không còn ai sống sót. Thế thì luật nhân quả đâu có chừa một ai, từ thiên tử đến chí dân. Thừa tướng Lý Tư vì quyền lợi tối mắt giúp vua Tần làm những chuyện tàn ác vô luân, nhưng về sau con vua Tần Thủy Hoàng cũng vì quyền lợi tối mắt mà chém đầu ba đời dòng họ Lý Tư. Phải chăng đây là nhân quả ứng hiện?


Những năm gần đây, không ai lạ gì tên tuổi nhà độc tài Saddam Hussen, nước Iraq rất nổi tiếng khát máu. Chẳng riêng gì ông mà các con và bà con quyến thuộc của ông cũng rất bạo tàn, giết người làm trò chơi, cưỡng chiếm vợ con người và làm biết bao chuyện vô luân khác. Đến khi quân đội Hoa Kỳ giải phóng đất nước này, ông bị treo cổ và các con ông cũng bị giết hết. Một lần nữa, “Quả báo nhãn tiền” của nhà Phật quả không sai bao giờ! Vì thế cổ nhân có câu: “Hữu thế bất khả ỷ tận, thế tận oan tương phùng” nghĩa là khi nắm trong tay quyền thế thì đừng có ỷ quyền, ỷ thế hại người. Đến khi hết quyền, hết thế thì oan oan tương báo nó trả lại ghê gớm, thảm sầu. Do đó chạy theo thời thế để có danh, văn, lợi, dưỡng hại người lợi mình là chạy theo tội nghiệp còn sống với chân lý mới là cứu cánh thanh tịnh Niết bàn. Giáo lý của Đức Phật giúp chúng sinh thức tỉnh, dừng lại trước hố thẳm của tội lỗi đau thương bởi vì có giàu nhất thế giới như Bill Gates thì khi ra đi cũng bỏ lại hết cho thế gian.


Thêm nữa, con người cũng vì quyền lợi tối mắt mà làm những chuyện tầy trời, rước voi về cày mã tổ đưa đến chiến tranh giết hại biết bao sinh linh vô tội. Vì thế, trong lịch sử Việt Nam, có rất nhiều mẫu chuyện nói về các vua chúa cõng rắn cắn gà nhà, nhưng có lẽ vua Quang Trung Nguyễn Huệ là người duy nhất đã hai lần đánh đuổi ngoại bang về dầy xéo quê hương cũng vì quyền lợi cá nhân của vua Lê và chúa Nguyễn. Những chiến công hiển hách của nhà Tây Sơn là những trang sử rực rỡ làm cho Trung Hoa và Thái Lan đều khiếp sợ.


Nước Việt Nam lúc bấy giờ ngoài Bắc có vua Lê, nhưng thực quyền nằm trong tay chúa Trịnh. Còn trong Nam thuộc chúa Nguyễn Định Vương. Sự phân chia, chiến tranh Nam Bắc dai dẳng làm cho người dân Việt sống trong lầm than khổ sở biết bao năm. Do đó khi nhà Tây Sơn dấy binh khởi nghĩa là muốn thống nhất đất nước để con dân Việt được sống trong thanh bình, an cư lạc nghiệp.


Chiến thắng Đống Đa vẻ vang mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) do quân Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của Vua Quang Trung đã đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi Việt Nam do vua Lê Chiêu Thống cầu viện ngoại bang. Cuộc chiến quyết định tại trận Đống Đa đã đánh bại trên 200.000 quân Thanh khiến Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, quên mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, quên luôn cả ấn tín cùng tàn quân chạy về Tàu.


Năm Bính Thân (1777) sau khi Nguyễn Nhạc xưng vương liền cử hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vào Nam đánh chúa Nguyễn Định Vương và Đông Cung thua chạy về Vĩnh Long và sau cùng tử trận tại Long Xuyên. Chỉ còn người cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát được. Phúc Ánh chạy trốn và được Giám mục Bá Đa Lộc (Pigneau De Béhaine, Evêque d’Adran) đem trốn vào rừng và sau đó Bá Đa Lộc giúp phương tiện cho Nguyễn Ánh lấy đảo Thổ Châu (Phú Quốc) rồi trở về Long Xuyên cùng tướng Đỗ Thành Nhơn đánh lấy lại thành Gia Định. Nguyễn Phúc Ánh xưng vương và phong Đỗ Thành Nhơn làm Phụ chánh, nhưng chẳng bao lâu Đỗ Thành Nhơn bị Nguyễn Ánh xử tử.


Bốn năm sau, Nguyễn Huệ đem binh vào cửa Cần Giờ, phá tan quân Nguyễn Ánh tại sông Ngã bảy. Phúc Ánh chạy về Lữ phụ. Nguyễn Huệ đuổi đến Lữ phụ rồi dùng thế trận bối thủy của Hàn Tín tức là dàn quân quay lưng về phía sông, công hãm quân Nguyễn Ánh tan rã tơi bời, Phúc Ánh suýt chết, chạy ra Phú Quốc rồi qua cầu viện Thái Lan, diễn cảnh cõng rắn cắn gà nhà. Vua Thái Lan là Chánh Vương Chất Tri từ lâu đã có dã tâm muốn chiếm lấy Gia Định nên không ngần ngại sai tướng Thát-Xi-Đa đem binh bất ngờ đánh úp chiếm được Hà Tiên. Năm 1783, Nguyễn Huệ hay tin liền kéo đại binh vào Nam đánh tan binh Nguyễn Ánh. Nguyễn Phúc Ánh thua to phải chạy ra đảo Phú Quốc và gởi Châu Văn Tiếp sang Thái Lan cầu viện lần nữa. Quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, Nguyễn Phúc Ánh phải chạy từ đảo này sang đảo khác để trốn. Trong khi trốn tránh, Nguyễn Phúc Ánh gặp lại Bá Đa Lộc và được Bá Đa Lộc đề nghị nên sang cầu nước Pháp. Nguyễn Phúc Ánh gởi Hoàng tử Cảnh và một tờ quốc thơ cho Bá Đa Lộc sang Pháp xin viện binh. Tờ quốc thư có 14 điều đại để nói rằng: Nguyễn Vương giao toàn quyền cho Bá Đa Lộc sang Pháp nhờ giúp cho 1500 quân võ trang, để bù lại, Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An và quần đảo Côn Lôn. Cửa bể Đà Nẳng sẽ là đất chung cho cả Đại Việt lẫn Pháp. Người Pháp được tự do xây dựng trên cửa biển ấy và người Pháp được đặc quyền buôn bán trên đất nước của Nguyễn Vương. Trong lúc sắp ra đi thì có tin quân cứu viện Thái Lan sắp đến.


Năm 1784 quân Thái Lan chia hai đường tiến vào Việt Nam. Ba vạn bộ binh và kỵ kinh vượt qua Cao Miên và hai vạn thủy binh tiến vào Kiên Giang. Quân Thái Lan đánh tới đâu thắng tới đó, sát hại dân lành làm quân Tây Sơn phải lui về Gia Định. Nguyễn Huệ lãnh ấn kiếm của Vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) đem quân vào Nam. Nguyễn Huệ là tay anh hùng xuất chúng, hành quân như vũ bão, mưu kế thần tình, lão luyện binh thơ chiến pháp chẳng khác Tôn Tử ngày xưa. Thêm vào đó, binh sĩ của Nguyễn Huệ võ nghệ giỏi, xông trận như hùm beo nên chẳng bao lâu quân của Thái Lan và Nguyễn Phúc Ánh chết ngổn ngang, đen đặc cả một giòng sông, bốn vạn xác nghẽn cứng một đoạn sông, ba trăm chiến thuyền cháy ngùn ngụt khói đen cả một bầu trời. Nguyễn Phúc Ánh thua chạy về Hà Tiên rồi trốn sang Thái Lan cầu viện Pháp.


Trong hai mươi bốn năm từ ngày khởi nghĩa, Vua Quang Trung và nhà Tây Sơn đánh Nam dẹp Bắc không ngừng nghỉ, chỉ mong đem lại bình yên lâu dài cho đất nước. Đem cái dũng để đánh ngoại bang, đem lòng nhân để trị thiên hạ, chỉ mong sao cho đất nước thái bình. Nhưng trời không chiều lòng người trung nghĩa nên làm vua mới được bốn năm, khi vận nước chưa yên, vua Quang Trung băng hà khi mới vừa 40 tuổi. Từ khi Vua Quang Trung qua đời, nội bộ của nhà Tây Sơn chia rẽ và cuối cùng Nguyễn Phúc Ánh với sự trợ giúp của người Pháp đã chiếm lại toàn cõi Việt Nam.


Nguyễn Phúc Ánh xưng vương tức là vua Gia Long. Thời chiến  tranh binh biến từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây, thắng thua thành bại là chuyện thường, tướng nào thờ chủ nấy, tận trung báo quốc. Ngay cả Tào Tháo là tay gian hùng mà ông chỉ tha những người tận trung vì chúa của họ và ra lệnh chém đầu những kẻ hai lòng. Sau đây là câu chuyện trả thù của vua Gia Long phỏng theo tài liệu của giáo sĩ De La Bissachère, người có cơ hội chúng kiến cuộc hành hình đẫm máu tại Phú Xuân vào mùa Thu năm 1802. Đây là một mẫu chuyện để luận cổ suy kim vậy.


Vào ngày trăng tròn nhằm ngày rằm tháng 7 năm 1802 cũng là ngày Vu lan báo hiếu, vua Gia Long cùng đoàn tùy tùng trên các xe song mã dừng trước khán đài. Ngoài vua, còn có các quan ngự sử, thượng thư cùng các phu nhân. Về phía người Pháp có sự hiện diện của giám mục Eyot, giáo sĩ Le Labouse, giáo sĩ De La Bissachère, thuyền trưởng hai chiến thuyền giúp Nguyễn Ánh ngày xưa là Dayot, Vannire và hai Đại tá quân đội viễn chinh Pháp.


Tử tội là tướng Trần Quang Diệu, nữ tướng Bùi Thị Xuân, mẹ Trần Quang Diệu và Trần Bích Xuân là con gái của đôi tướng tài. Đội hành quyết dẫn bốn người ra trình diện vua. Mẹ Trần Quang Diệu, tuy ngoài 80 nhưng nét mặt vẫn còn quắc thước. Nữ tướng Bùi Thị Xuân chân bị còng dây xích bước từng bước ngắn rất khó nhọc nhưng vẫn toát ra một vẻ hiên ngang oai dũng.


Trước giờ hành quyết, vua Gia Long hạ lệnh:


- Trần Quang Diệu. Ngươi có điều gì muốn nói trước khi chết không?


Trần Quang Diệu đứng thẳng, nghiêm trang nói:


- Mẹ ta nay tuổi già sức yếu, một đời người chẳng hại ai, nay đã ngoài tám mươi. Xin ngươi hãy tha chết cho mẹ ta.


Vua Gia Long đưa mắt nhìn mẹ Trần Quang Diệu rồi cười nói:


- Hôm nay là ngày Rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, Ta mở lượng khoan hồng tha cho mẹ ngươi được sống, nhưng nhà ngươi phải chết không toàn thây. Quân đâu, mang tên Trần Quang Diệu ra xử lăng trì.


Mẹ Trần Quang Diệu nghe vậy đứng thẳng người giơ tay chỉ thẳng vào mặt vua Gia Long mắng:


- Thằng tiểu nhân! Giết gì thì cứ giết việc gì phải phanh thây xẻ thịt. Ta quyết không vì sự sống của thân già này mà để cho các con ta chịu nhục.


Nói xong tự mình đập đầu vào tam cấp tự tử mà chết.


Bùi Thị Xuân đau đớn than rằng:


- Mẹ ơi!  Sao mẹ lại hủy hoại thân mình như thế làm chúng con đau lòng!


Ba hồi trống dục nổi lên, ngoài sân đội hành quyết bắt đầu hành hình tướng Trần Quang Diệu. Một tên chém đầu ông lìa khỏi cổ, tên thứ hai chém ngang hông dứt làm hai đoạn rồi chúng tiếp tục lóc da xẻ thịt.
Bùi Thị Xuân tức giận chỉ vào mặt vua Gia Long hét lớn:


Nguyễn Ánh! Ngươi là kẻ tiểu nhân hèn hạ, đã làm điều dã man tàn bạo, đào mộ Tiên đế ta (tức Vua Quang Trung), dù ngươi là kẻ chiến thắng nhưng mai này ai dám bảo ngươi là kẻ anh hùng.
Vua Gia Long cười mỉa hỏi:


- Ngươi thử cho ta biết, ta và Nguyễn Huệ, ai hơn ai?


- Luận về tài, ngươi làm sao so sánh được, một bên là mãnh hổ một bên là cẩu (chó) hèn. Tiên đế ta trăm trận trăm thắng từ Nam ra Bắc, đại phá quân Thanh lấy lại cơ đồ chỉ trong năm ngày. Còn ngươi cầu cứu quân ngoại bang cả vạn binh, chỉ một đêm bị quân ta đánh tan rã.


Vua Gia Long giận run nhưng vẫn làm ra vẻ bình tĩnh hỏi:


Còn nói về đức thì thế nào?


Bùi Thị Xuân đáp:


- Về đức, ngươi cũng không đáng để so sánh. Tiên đế ta lấy nhân nghĩa đối xử với các tôi nhà ngươi. Còn ngươi dùng tâm của kẻ tiểu nhân hèn hạ đối xử với các nghĩa sĩ. Tiên đế ta đánh đổ hai nhà Trịnh, Nguyễn là đem an lạc và đời sống ấm no cho sơn hà xã tắc. Còn ngươi rước quân ngoại bang về tàn sát lương dân, bắt được các sĩ tướng của Tiên đế ta thì xử tru di tam tộc. Tiên đế ta chết đã mười năm, ngươi còn đào mả lấy xương cốt làm tội.


Bùi Thị Xuân vừa dứt lời, các tướng hầu cạnh vua đều rút gươm khỏi vỏ. Vua Gia Long ngăn lại bảo:


- Đừng giết ngay, ta muốn xem gan nó lớn cỡ nào. Quân đâu! Đem con gái Bùi Thị Xuân ra cho voi giày trước mặt nó.


Bỗng có một người con gái tuổi thanh xuân từ cánh trái khán đài tiến đến cạnh vua nói lớn:


- Xin Hoàng huynh hãy tha tội chết cho con gái Bùi Thị Xuân, nó còn trẻ dại đâu có tội tình gì?


Mọi người giật mình quay nhìn lại, thì ra đó là Quận chúa Ngọc Du. Vua Gia Long lấy làm ngạc nhiên hỏi Ngọc Du:


Trong trận đánh Bình Định, Trần Quang Diệu đã giết chết Võ Tánh chồng của em, sao em còn xin tha cho con gái của nó?


Ngọc Du trả lời:


- Thưa Hoàng huynh! Ngày trước trong trận đánh thành Quy Nhơn, chồng em không giữ nổi thành nên tự vận và Bùi Thị Xuân đã tha mạng cho mẹ con em nên em mới còn sống đến ngày nay. Xin Hoàng huynh nghĩ tình ấy mà tha tội cho con gái Bà.


Vua Gia Long lắc đầu, đoạn quay sang bọn quân sĩ quát lớn:


- Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc. Quân đâu, hãy mang con gái Bùi Thị Xuân ra hành hình.


Thế là một hồi trống dục lại nổi lên. Đội hành quyết áp tải người con gái tên Trần Bích Xuân ra sân lột hết y phục một cách dã man tàn bạo. Một võ sĩ khác dẫn một con voi to lớn bước chậm rãi đến gần nàng. Khuôn mặt nàng biến sắc, Bích Xuân hoảng sợ nhìn về phía mẹ kêu thất thanh:


- Mẹ ơi cứu con với!


Bùi Thị Xuân nghiêm nét mặt hét lớn:


- Con nhà tướng phải chết anh dũng! Hãy hiên ngang chết cùng cha mẹ còn hơn là sống với đám tiểu nhân bán nước!


Bùi Thị Xuân vưa dứt lời, voi đã dùng vòi quấn lấy con gái Bà tung lên không trung. Khi nàng rơi xuống cùng với tiếng hết hãi hùng, voi đưa cặp ngà ra hứng. Ngà voi nhọn xuyên qua người, Bích Xuân quằn quại trên miệng voi mà chết. Voi quăng xác nàng xuống đất rồi dùng chân phải giày đạp lên. Xót thương thay người con gái trẻ chết nát tan thân thể. Mọi người hiện diện đều rùng mình rơi nước mắt.


Nữ tướng Bùi Thị Xuân lặng người đau đớn. Bà kéo lê đôi chân đã bị xiếng đến gần con voi vừa giày đạp con gái mình. Khí sắc bà vẫn hồng hào, hiên ngang như khi lâm trận. Tên điều khiển voi thúc voi quấn lấy bà. Voi vừa vươn vòi, bà trợn mắt hét lên một tiếng như sấm nổ, voi thất kinh co vòi thụt lui. Tên nài voi lại thúc voi, voi bước tới thấy bà lại thối lui. Tên nài không biết tính sao, lấy gậy đập vào đầu voi, voi thét lên một tiếng hất tên nài xuống đất rồi cắm đầu chạy ra khỏi pháp trường. Đội quân hành quyết lại đưa voi khác vào thay, nhưng con nào cũng thế, khi đến gần nghe nữ tướng hét lên đều co vòi quay đầu bỏ chạy.
Ba hồi trống dục dứt tiếng. Cả pháp trường im phăng phắc đến nghẹt thở. Nguyễn Ánh tức giận quát lớn:


- Nếu voi không giết nổi người đàn bà này thì cho ngũ mã phanh thây. Nhất định cho nó chết không toàn thây.


Ba hồi trống dục lại vang lên. Năm tên nài ngựa trong đội hành quyết dẫn năm con ngựa khỏe ra pháp trường, chúng dùng dây buộc mỗi con vào đầu, vào tay, vào chân nữ tướng xếp thành hình ngôi sao. Nữ tướng vẫn bình tĩnh, nét mặt không thay đổi và không tỏ chút sợ hãi nào. Tiếng trống tiếp tục dồn dập trong bầu không khí thê lương. Tên đội trưởng ra dấu cho năm tên nài cùng quất roi cho ngựa chạy về năm hướng làm thân xác Bà bị xé nhiều mảnh, máu me lai láng trông rất kinh hãi. Ai nấy đều xúc động, mặt đầm đìa nước mắt và vô cùng cảm kích trước sự anh dũng của nữ tướng khi chứng kiến những giây phút sau cùng đầy khí phách, kiên cường của Bà và hình ảnh bất diệt này vẫn còn vang vọng đến ngày nay.


Vua Gia Long nhờ Pháp phục hồi được ngôi vị, nhưng than ôi con rắn đã vô nhà rồi thì đàn gà làm sao chống nổi. Vì thế mà trong suốt chiều dài gần hai trăm năm lịch sử của Việt Nam, con cháu Gia Long bị người Pháp kềm kẹp, khống chế, tù đày, tuy mang tiếng làm vua nhưng hữu danh mà vô quyền (làm vua mà hàng tháng lãnh lương của Pháp). Đây phải chăng là nhân quả, cha ăn mặn con khát nước?


Không những sự phân chia dị biệt giữa những người khác giống nòi mà ngay cả những người cùng nòi cùng giống, cùng tập quán hay tín ngưỡng cũng phân chia mà sinh ra xung đột mãnh liệt đưa đến sự tranh đấu chém giết lẫn nhau. Thí dụ Phật giáo ngày nay trên thế giới được chia thành hai phái Tiểu thừa và Đại thừa mà trong mỗi phái lại chia ra thành nhiều tông phái khác nữa. Thiên Chúa giáo thì chia làm Công giáo và nhiều chi phái Tin Lành, đó là chưa kể những nhánh khác như phái Chính Thống ở Nga, phái Hợp Nhất ở Hy Lạp. Về phía những nhà triết học thì đồ đệ của Hégel đã chia thành hai phe Tả và Hữu, những môn đồ của Marx cũng phân làm các phe Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, TiTo, Mao Trạch Đông, ở Hoa Kỳ thì có đảng Cộng Hòa, Dân Chủ… Sự bất đồng tư tưởng đã đưa con người đến nhiều cuộc tranh chấp đẫm máu. Những cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo hoặc trong một tôn giáo hay những sự thanh toán quyết liệt giữa các phe phái chính trị đã cho thấy rằng sự bất đồng tư tưởng là một trở ngại lớn lao đưa đến chiến tranh thảm khốc, giết hại lẫn nhau mà không biết gớm.


Đức Phật đã nâng cao những giai cấp thấp tận cùng xã hội lên địa vị bình đẳng. Vì thế theo Đức Phật, nếu giá trị con người nằm ở đời sống đạo đức và trí tuệ thì con đường giải thoát giác ngộ sẽ không còn ranh giới của giới tính, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ… cho nên nếu bất cứ ai một khi thực hành đúng chánh pháp của Như Lai thì chắc chắn sẽ có hạnh phúc, an lạc, Bồ-đề và Niết bàn. Đức Phật thường dạy các đệ tử đừng vì kính nể, tôn trọng Ngài mà nhắm mắt tin theo lời Ngài dạy. Chúng sinh hãy tư duy, kiểm nghiệm để cảm nhận được sự lợi ích thì lúc đó hãy thực hành những lời Như Lai dạy. Cảm tình với thầy mình là vô minh mà hãy noi theo đạo đức và trí tuệ của thầy mình mới là hành động của người trí, là theo chánh đạo.


Tại sao ngày nay người tu thì nhiều mà không đạt được đạo? Bởi vì họ không giữ giới. Trong tam vô lậu học “Giới-Định-Tuệ” thì giới là khuôn vàng thước ngọc, là cánh cửa để vào căn nhà giác ngộ. Tham thì phá giới, sân phá định và si phá trí tuệ khiến con người sống trong tăm tối mà làm nô lệ cho phiền não vô minh. Vì tầm quan trọng của giới mà trước khi nhập diệt, Đức Phật đã dạy rằng: “Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới luật làm thầy”.


Ngoài ra, trong Luật tạng cũng ghi lại những hiện tượng của người xuất gia không biết giữ gìn Chánh pháp để chúng sinh tư duy quán chiếu:


1) Dục giới: tức là lòng còn ham muốn vật chất. Vị nào thích ăn ngon, mặt đẹp (như áo cà sa phải vải tốt) hoặc thích ở nơi có tiện nghi sung túc đều không phải là chân tu. Ngày xưa Đức Phật thường ca ngợi những Tỳ kheo thiểu dục vì thế Đức Thế Tôn luôn quy định vật dụng, y bát đều làm bằng những vật liệu thô thường (không được làm bằng vật liệu quý hiếm), áo cà sa phải làm màu vải xấu đi và việc ăn uống không cầu mỹ vị hay yêu sách cúng dường. Đức Phật khuyên thiểu dục là đáp ứng nhu cầu căn bản để bảo đảm cuộc sống tức là nuôi thân mà tu đạo.


2) Sắc giới: tức là lòng ham muốn danh tiếng địa vị nghĩa là nghĩ mình mặc chiếc áo vàng là cao trọng hơn người khác, bắt người lạy cúng và gặp ai cũng cho là tội lỗi còn mình là thanh khiết. Đua đòi làm chùa chiền to lớn một cách quá nhu cầu, tổn hại sức bá tánh để thỏa mãn bản ngã của riêng mình (chùa tôi vĩ đại hơn chùa thầy) mà cho rằng đó là hoằng dương đạo pháp thì cũng là háo danh ham địa vị.


3) Vô sắc giới: là lòng tham cầu hư danh. Hiện tượng này không phải đến bây giờ mới xuất hiện mà ngay vào thời Đức Phật đã có nhiều Tỳ kheo tuyên xưng mình đắc pháp dù chưa đắc pháp (Đề Bà Đạt Đa). Họ dùng Niết bàn để chiêu dụ hay địa ngục để gây hoang mang, kinh sợ cho tín đồ. Họ còn mượn Phật để mê hoặc chúng sinh vào con đường mê tín. Luật tạng có ghi lại nhiều chuyện giống như vậy đã bị Phật chê trách.


Thời nay thay vì chú tâm tu học Phật pháp, người đệ tử Phật ở hải ngoại chỉ lo hô hào, tổ chức gây quỹ dưới những hình thức đượm màu tục lụy để tranh nhau xây chùa to, đúc tượng lớn mà xa dần phẩm hạnh của đời sống tinh thần nên dễ dàng lâm vào cảnh nợ nần ngân hàng nên cả Thầy lẫn đệ tử phải đôn đáo lo “chạy tiền” trả nợ “chùa” bằng cách biến chốn tôn nghiêm thanh tịnh thành ra những hí viện, trung tâm ca nhạc. Đức Phật dạy rằng: “Một người chết đuối thì không thể nào cứu một người khác đang chết đuối được”. Mình thì tham-sân-si mạn nghi đầy ấp, to hơn cả núi Tu Di thì làm sao dạy chúng sinh sống đời trong sạch?


Vì thế Đức Phật lại dạy rằng: “Người đem tâm đời tức là danh, lợi, sân, si mà làm việc đạo thì việc đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm đạo tức là từ, bi, hỷ, xả mà làm việc đời để giúp đỡ chúng sanh thì việc đời trở thành việc đạo.” nghĩa là: “Đem đời vào đạo sẽ làm cho đạo chao đảo chông chênh, nhưng đem đạo vào đời sẽ làm cho đời thêm thanh cao vững chắc”.


Trăm năm trước người Trung Hoa đến định cư tại Hoa Kỳ, họ cũng xây chùa to, tạc tượng lớn, tụng niệm có khác gì Phật giáo Việt Nam ngày nay. Nhưng chỉ mới trải qua hơn trăm năm khi thế hệ già, thế hệ củ mất đi thì chùa chiền cũng theo họ biến mất. Vì sao? Bởi vì giáo lý nhiệm mầu của Đức Phật không còn được rao giảng, các sư chỉ chú trọng vào hình thức, cúng vái cầu xin và thiếu đức hạnh nên tinh thần Phật giáo không còn ăn sâu vào đời sống xã hội vì thế những thế hệ trẻ mất niềm tin nơi Phật Pháp nên không còn tiếp tục con đường truyền thống mà ông cha đã đi qua.


HẾT

|