|
|
Kinh Hiền Ngu
(Bàlapandita sutta)
Kinh Hiền Ngu Quyển thứ
sáu 27/ Phẩm thứ hai mươi bảy BỐ THÍ MẮT Chính tôi được nghe: Một thuở nọ đức Phật ở nước
Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ Đức Thế Tôn đương tuyên diễn Chánh Pháp
cho Đại chúng nghe, những người dự thính cũng đông, họ kéo nhau đi toán
này toán khác tấp nập. Lúc đó có một người dòng Bà la môn mù, ngồi bên
lề đường, thấy người đi nhộn nhịp hỏi rằng: - Hôm nay các ông đi đâu đông thế? Họ đáp rằng: - Anh không biết hay sao? - Dạ! Chúng tôi không được biết! - Ít được gặp Phật ra đời lắm anh ạ, hiện Ngài
đương thuyết pháp ở nước ta, chúng tôi đi nghe thuyết pháp đây! Người này tuy mù nhưng có một đặc tài là hiểu
biết tám thứ tiếng, anh ta chỉ nghe lời nói là phân biệt được, kẻ tôn
sang, hay người bần tiện. Tám thứ tiếng là: - Điểu thanh - Tam xích điểu thanh - Phá thanh - Nhạn thanh - Cổ thanh - Lôi thanh - Kim linh thanh - Phạm thanh Điểu thanh: là người nói tiếng như chim kêu,
người này có tính quên ơn sinh thành dưỡng dục (bất hiếu), tâm địa không
có liêm khiết. Tam xích điểu thanh: người này bẩm tính hung tàn
bạo ngược, hay làm hại người thương tổn cho nhân vật, ít có lòng Từ bi
hòa thuận. Phá thanh: tức là người con trai nói tiếng như
đàn bà, đàn bà nói tiếng như đàn ông, kẻ này bạc phúc bần cùng hà tiện. Nhạn thanh: tiếng nói như chim nhạn kêu (ken
két) người nay có tính hớt của người làm của mình, ăn cắp lời của người
làm lời của mình. Nhưng hay chơi nhiều bạn thân, và hay đón tiếp người
xa lạ bốn phương. Cổ thanh: tiếng nói vang vang như tiếng trống,
người này biện luận nhanh chóng, giải thích đạo lý sâu huyền có thể làm
quốc sư. Lôi thanh: tiếng nói ầm ầm như tiếng sấm vang,
người này trí tuệ sâu rộng, phân tách được pháp tính giáo hóa cho thiên
hạ. Kim linh thanh: tiếng nói như tiếng chuông,
người này giàu có, lắm tiền của vàng bạc. Phạm thanh: tiếng nói như cõi Trời Phạm thiên,
người này phúc đức cao dày, nếu tại gia thì làm Chuyển Luân Thánh Vương,
nếu xuất gia thì thành Phật. Anh mù nói: - Các ông làm ơn dắt tôi đi với: tôi
có thể phân biệt được tám thứ tiếng, nếu thực là Phật tôi nghe tiếng
nói, thì tôi biết, vì Phật nói thuộc tiếng Phạm Thiên. - Phải! Anh có đi tôi vui lòng dắt anh. Khi tới nơi anh lắng tai nghe Phật thuyết pháp,
quả nhiên âm thanh của Ngài như tiếng Phạm. Vui mừng quá!… tự nhiên hai
con mắt của anh hết mù, được sáng tỏ như mọi người, nhìn thấy Phật sắc
vàng chói lọi, đủ ba mươi hai tướng tốt, và tám mươi vẻ đẹp, một lòng
cung kính lễ dưới chân Phật. Khi Ngài thuyết pháp, anh chí tâm nghe
nhận, nên phá tan được ác kiến trong hai mươi ức kiếp, chứng quả Tu đà
hoàn, đắc tuệ nhãn, cúi đầu bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không biết được duyên
lành gì, con tới đây nhờ sức Từ bi hai mắt được sáng tỏ, đời là vô
thường không thể bảo đảm, cúi xin Thế Tôn cho con được nhập đạo tu hành? Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời tóc anh rụng hết, áo mặc trên mình
biến thành áo Cà sa, đầy đủ vẻ Sa môn. Theo Phật tu học không bao lâu, được đắc quả La
Hán, cắt đứt đường luân hồi sinh tử, thấy thế đại chúng đều cho làm lạ,
tôi từ tòa đứng lên tới trước Phật quỳ thẳng chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi
ích cho muôn loài chúng sinh, kẻ mù được sáng tỏ con mắt, ơn ấy vô cùng
cao cả. Như người Bà la môn này, trong chốc lát được sáng con mắt thịt,
hơn nữa lại được con mắt tuệ, không biết đời trước có duyên gì với Ngài,
cúi xin nói cho chúng con được rõ? Phật nói: - A Nan ông nên biết không những nay
ta cho người này được con mắt sáng, đời quá khứ ta đã khoét con mắt của
ta cho họ một lần. Kính lạy Ngài! Việc cho mắt đời quá khứ thế nào,
xin nói cho chúng con được biết? - A Nan! Đời quá khứ cách đây đã lâu lắm, không
biết bao nhiêu kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một thành
tên là Phú Ca La Bạt, ông vua đó tên là Tu Đề La (Tàu dịch là Khoái
Mục). Ông có con mắt sáng trông xa bốn mươi dặm, coi suốt qua tường
vách, bởi thế nên đặt tên là Khoái Mục. Vua Khóai Mục, thống trị tám vạn bốn ngàn nước
nhỏ, sáu muôn núi sông, tám ức tụ lạc, hai muôn Phu nhân thể nữ, một vạn
quan đại thần, năm trăm Thái tử. Người thứ nhất tên là Thi La Bạt Đề
(Tàu dịch Giới Hiền). Nhà vua Từ bi đạo hạnh đối với dân như cha hiền
thương con. Chăm dạy dân tu thiện, vì thế nên trong nước thanh bình
không có đao binh biến khởi, mưa hòa gió thuận, được mùa lúa tốt nhân
dân an vui sung sướng. Một hôm nhà vua ngồi trên bảo điện tự nghĩ như
vậy: - Ta được làm nhân chúa, phúc như tứ hải, ra lời
nói thiên hạ tùng phúc, như gió thổi lướt ngọn cỏ, đó cũng do phước đã
gây từ bao đời trước, nếu đời nay không tạo nhân lành, đời sau lấy gì
trông cậy, dĩ nhiên bị đau khổ. Tỷ như kẻ nông phu, mùa xuân mất công
cấy lúa, mùa hạ được gặt, hái, thâu hoạch, nếu mùa xuân trễ biếng không
làm, dĩ nhiên mùa hạ không có lúa gặt, sự đói thiếu sẽ đưa lại cho họ. Định xong, hạ lệnh cho bá quan văn võ, mở kho
lấy vàng bạc tiền của quần áo, thóc gạo thức ăn dùng, đem ra ngoài thành
bố thí cho nhân dân, và sắc lệnh cho tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, mở kho
bố thí. Từ đó nhân dân được no nê sung sướng ca tụng ân đức của nhà vua,
vang dội khắp thiên hạ. Bấy giờ có một ông vua nước nhỏ, tên là: Ba La
Bà Bạt Di, ông này không tuân theo sắc lệnh của vua Khoái Mục, trị dân
có năm điều quá trớn. Tính nết vội vàng ít suy nghĩ, lại hay ham sắc
dục, không để ý đến việc nước, không biết thâu dụng những người trung
lương hiền sĩ, bắt dân làm nhiều việc vô ích, các nhà thương mại ngoại
quốc đến buôn bán, đánh thuế quá nặng, nhân dân oán ghét trong triều lúc
đó có một quan tên là Lao Đà Đạt thông minh, thao lược, hiểu biết đạo lý
can vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Ngài có năm điều không hay, nếu
không sửa đổi lại, một ngày gần đây tai họa sẽ tới! Nhà vua nói: - Những việc gì khanh nói cho ta
hay? 1.- Bệ Hạ có tính vội vàng ít suy nghĩ, không lo
việc lớn sau sẽ hối. 2.- Ham mê sắc dục, không đoái đến việc nước, để
cho những kẻ gian thần làm phi pháp, oan uổng nhân dân, muốn kêu không
có chỗ minh xét. 3.- Trong nước có những người trung lương, hiền
sĩ không thâu dụng, không biết phòng ngừa việc chưa xảy ra. 4.- Bắt nhân dân cực khổ làm những việc vô ích,
oán hận rất nhiều. 5.- Nhà thương mại các nước tới buôn bán, đánh
thuế quá nặng! Cho nên các hàng hóa bị ách tắc đắc đỏ. Năm việc này là
triệu chứng vong quốc, xin Bệ Hạ ra lệnh đổi ngay để theo chánh sách cũ. Hiện nay vua Tu Đề La (Khoái Mục) ban ơn cho dân
chúng, các nước đều khâm phục, chỉ có nước ta không chịu theo, nên dân
chúng oán hận. Xin Bệ Hạ mở kho bố thí cho nhân dân, thì con cháu sẽ
được hưởng phúc lâu dài. Ông nghe xong, thay sắc mặt nổi giận nói: - Khanh biết trước thế ư? Để thử xem, chúng oán
hay tự miệng khanh nói ra, ta quyết định không thay đổi chánh sách. Lao Đà Đạt thầm nghĩ như vầy: - Mình thấy nhà vua trị chính không khéo để giới
thiệu những người trung thành ra giúp nước, đã không nghe, lại còn phát
giận với ta, tất nhiên có nguy hại cho ta. Vậy ta phải lập kế cứu lấy
dân. Lao Đà Đạt bị tiết lộ kế hoạch. Nhà vua sai quân vây bắt. Lao Đà Đạt cũng biết
trước, lên ngựa chạy tẩu thoát, quân sĩ đuổi theo sau, ông quay súng bắn
chết mười tám người, còn thì chạy tán loạn. Sang nước Phú Ca La Bạt vào yết kiến vua Khoái
Mục, vua hỏi han vui vẻ, đối đáp sự lý phân minh. Thấy người có tài, nên
nhà vua dùng ông làm việc triều chính, dần dần thân cận, ông trình bày
sự hành động của Ba La Đà Bạt Di cho vua Khoái Mục nghe. Khi đó vua Khoái Mục hỏi bá quan rằng: - Nước vua Ba La Bà Bạt Di có thuộc quyền ta cai
trị không? Bá quan đáp: - Tâu Bệ Hạ! Có, nhưng họ dè chừng
làm lơ, ít khi lui tới, và không chịu tuân lệnh của Bệ Hạ! Lao Đà Đạt nói: - Tâu Bệ Hạ! Ông đó ngoan cố và mờ ám lắm! Có
tính hoang dân vô độ, dân chúng chán ghét, coi như một kẻ thù, xin Bệ Hạ
cấp cho binh mã, hạ thần sang tiêu diệt. Vua Khoái Mục đồng ý cấp binh mã và hạ lệnh cho
các nước đem binh đến trợ chiến. Vua nước bên cạnh thấy thế sang mách. Vua Ba La
Bà Bạt Di chạy trốn, ra đi mặc một cái áo rách, lẩn thân nơi kín đáo. Quan phụ tướng tìm hỏi: - Bệ Hạ lo gì xin cho biết? - Khanh không biết sao! Trước đây Lao Đà Đạt
trốn sang nước Phú Ca La Bạt, hắn mưu với vua Khoái Mục sắc lệnh cho tám
vạn bốn ngàn nước đem đại hùng binh tiêu diệt nước ta, và bắt ta đó. Đại Thần thưa: - Xin Bệ Hạ hãy yên trí, để tập
họp bá quan bàn tính, và cũng không lo, Hạ thần đã có biện pháp. Nhà vua nghe theo phụ tướng, trở về bảo điện
triệu tập quần thần văn võ đông đủ nói: - Bá quan nên biết! Nước nhà nguy ngập đến nơi,
vua Khoái Mục sắp đem quân sang đánh, bá quan làm thế nào kháng cự nổi? Khi đó mỗi ông bàn một cách, đều vô hiệu quả.
Ông phụ tướng này đứng lên nói rằng: - Tôi nghe vua Khoái Mục tự thề rằng: chỉ trừ
cha mẹ không bố thí, còn thân mình cho đến quốc thành thê tử ngoại vật,
ai xin gì cũng cho. Nước ta có một người Bà la môn mù bây giờ sai họ đến
xin mắt, nếu được ta không cần phải đánh, họ cũng tự rút lui. Lập tức cho kêu người Bà la môn đến. Quan phụ tướng nói: - Nước ta sắp bị giặc đến
xâm chiếm, mong người giúp cho một việc. - Kính thưa phụ tướng! Tôi hèn đớn mù lòa thế
này thì làm gì được mà phụ tướng nói giúp nước. - Anh hãy nghe tôi nói: Bây giờ vua Khoái Mục
nay mai sẽ đem quân đến đây đánh nước ta, chúng tôi khỏe mạnh và có con
mắt sáng, còn có thể chạy được, anh mù lòa như vậy thì chạy sao? Tất
nhiên bị nó giết. Tôi biết vua Khoái Mục có nguyện rằng: ai xin gì cũng
cho, chỉ trừ cha mẹ là không cho thôi, bây giờ anh đến xin mắt, quyết
thế nào cũng được, nếu anh xin được, thì không đánh họ cũng phải rút
quân, vì thế mà vua kiếm anh đến đây để nhờ việc đó. - Thưa phụ tướng! Vậy tôi đi bằng cách nào? - Ta sẽ cho người dắt anh đi, lo gì việc đó! Khi đó nước vua Khoái Mục có nhiều điềm bất
tường biến hiện: đất động, sao chổi mọc, mưa đá, mây kéo mờ mịt suốt
ngày, chim chóc kêu thảm thiết, hổ, báo, sài, lang gầm hét, dân chúng
đều kháo nhau là điềm bất tường. Khi anh Bà la môn đã tới nước vua Khoái Mục, vào
trước sân rồng lớn tiếng nói rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạ thần ở nước ngoài, nghe thấy
danh đức Ngài làm hạnh bố thí, nên không quản xa xôi đến đây để ăn xin. Nhà vua từ trên ngai rồng bước xuống hỏi: - Ông ở đâu tới đây? Đường sá xa xôi đi khỏi mệt
không, tới đây muốn xin gì? Tâu Bệ Hạ! Phước bố thí về ngoại vật bé nhỏ, chỉ
có bố thí nội thân mới lớn, tôi vị mù đôi mắt đã lâu, đến đây để xin
Ngài hai con mắt. Nhà vua nghiêm nét mặt nói: - Cũng được, ta vui lòng! - Tâu Bệ Hạ, việc đó lâu mau thế nào ạ? - Anh yên tâm, bảy ngày nữa. Vua Khoái Mục sau khi nhận lời cho mắt, làm
chiếu chỉ thông tư cho tám vạn bốn ngàn nước biết rằng: - Các Vương Hầu nên biết, tôi vì thực hành hạnh
bố thí sau bảy ngày nữa sẽ khoét mắt cho người Bà la môn, vậy hôm đó quý
Ngài đến đông đủ. Vua quan các nước tiếp được chiếu chỉ, khi đến
đông đủ đều thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ! Hạnh bố thí công đức của Ngài nhận
thấy lớn lao vô cùng cực, việc khoét mắt cho kẻ Bà la môn, xét rằng vô
ích quá, Ngài là đấng nhân chúa dùng con mắt sáng, đưa dắt dân làm những
công đức lành, phúc đức như trời biển, như núi non, giờ đây mất hai con
mắt, cũng như cả quốc dân mất con mắt sáng, cúi xin miễn bỏ việc đó. Quan bản triều, Hoàng hậu, cung phi thể nữ, Thái
tử, ai nấy, đều tức bực trong lòng, vì can vua không được, toàn thể đều
âu sầu buồn bã, đến nỗi đêm quên ngủ ngày quên ăn. Ông Thái tử Giới Hiền tâu rằng: - Kính thưa Phụ Vương! Cho con xin thay để kẻ Bà
la môn khoét mắt con, con tuy chết nhưng thiên hạ không bị nguy ngập. Nhà vua thấy họ can gián nhiều quá, đứng trước
đại chúng lớn tiếng nói rằng: - Kính thưa quý Vương hầu, cùng toàn thể! Chính
tôi bố thí mắt này phải có một mục đích: tôi xét rằng từ đời quá khứ đến
nay, trong kiếp sinh tử lâu dài, nếu góp lại những xương thân ấy, có thể
lớn gấp bao lần núi Tu Di, máu tiết chảy ra, có lẽ nhiều hơn nước bốn
biển, những lúc biệt ly nước mắt khóc người thân nhiều hơn nước đại hải,
khi ở trong Địa ngục, những thân bị đốt cháy hoặc mổ xẻ thì những con
mắt ấy bỏ đi vô số. Khi làm loài Ngạ quỉ lửa trong mình phát ra thui
đốt, từ thân này qua thân khác, phá hoại bao nhiêu con mắt. Lúc đọa làm Súc sanh bị loài người đâm chém, nấu
rang, hết thân này lại thân khác. Thì những thân ấy đã tiêu hủy mất bao
nhiêu con mắt kể sao cho xiết. Khi làm người sống lâu hoặc chết non, tranh tài,
tranh sắc, tranh danh, đánh giết lẫn nhau, nhiều ai tính xuể, thì những
con mắt ấy, đều tan không, tóm lại cũng là vô ích vì không dùng nó để
làm công đức. Hoặc ở cõi Trời vui năm cảnh dục chốn thiên
cung, khi hết phúc, cũng phải đọa đày theo nghiệp, những thân mạng nhiều
không số tính. Xét lại từ đời vô thỉ, nổi chìm trong ba cõi, sống thác
theo năm thú, cũng do ái tình bổn thân của nghiệp tham, sân, si tạo tác,
thân người tan vụn như vi trần, ai đã từng đem thân ấy bố thí để cầu
thành Phật. Đây là một bộ mắt tanh hôi chẳng bao lâu sẽ bị tiêu không vô
ích. Tôi bố thí đôi mắt tanh này, nguyện mười phương chư Phật cho tôi
con mắt "Nhất Thiết Trí". Sau này thành Phật tôi sẽ đem lại con mắt trí
tuệ thanh tịnh cho tất cả quý Vương hầu cùng pháp giới chúng sinh, can
tôi làm chi! Ngăn cản làm chi! Tất cả mọi người nghe vua vói xong, không ai dám
trả lời sao hết, nín thinh như thóc lép. Vua Khoái Mục thấy mọi người đã an lòng, ngoảnh
bảo tả hữu rằng: - Các ông hãy lấy dao khoét đôi mắt hộ tôi. Họ thưa: Tâu Bệ Hạ! Thà cái thân của chúng tôi
có chịu chết tan như hạt cải, chứ không nỡ nào đem cái tay này mà khoét
mắt của Bệ Hạ. - Các ông hãy tìm hộ cho một người, con mắt họ
đen hắc, và hay nhòm xuống lại đây. Đúng như trực, tìm một người tới vua đưa cho con
dao, bảo anh chàng Hắc Mục Thị Hạ rằng: - Anh hãy khoét mắt cho ta. Anh không e dè gì, vua bảo làm ngay, cầm dao
khoét luôn con mắt bên tả để vào tay vua. Nhà vua nâng lên trán lập thệ rằng: - Nguyện đem mắt này bố thí cho kẻ mù, để cầu
thành Phật, kẻ Bà la môn được mắt này có thể trông sáng suốt. Nói rồi nhà vua để vào hố mắt cho họ. Khi được
mắt để vào, anh Bà la môn nhìn thấy vua và tất cả mọi người chung quanh
mừng quá tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Thôi xin một con là đủ nhìn, Bệ Hạ
để lại dùng, tôi không lấy nữa. - Ta đã hứa cho nhà ngươi cả, thì ta cứ cho, vui
lòng mà lấy, không sao! Khoét luôn mắt nữa để vào tay vua, vua lập thệ
rằng: - Nguyện đem mắt này, một lòng thành thực bố thí
để cầu thành Phật, kẻ Bà la môn được mắt này coi xem sáng tỏ. Nói xong để vào hố mắt cho anh Bà la môn. Quí
hóa thay! Lạ lùng thay! Anh chàng mù được mắt ông Quốc Vương nhìn xa
trông suốt, đang tối được sáng, đang mù được mở. Nhà vua hy sinh con mắt
ai dám cả gan, phải chăng người siêu phàm xuất tục coi thân mình tựa
đống tro tàn, đem đổi lấy Pháp Thân Bất Diệt. Đổi mắt đã lạ chưa? Một
phương thuốc huyền diệu phát xuất từ đây. Ngay lúc ấy, trời đất chuyển động, các cung điện
trên thiên cung đều nghiêng ngã, những ông Thiên Tử thấy sự chuyển biến,
nhìn xem có một vị Bồ tát khoét mắt bố thí, họ đều bay xuống tung hoa
cúng dàng, và khen rằng: - Bồ tát làm hạnh bố thí không đoái thân mình,
phước ấy Ngài cầu làm gì? - Thưa Ngài! Tôi hy sinh cặp mắt này, không cần
làm vua Ma Vương, Phạm Thiên, Đế Thích hay Chuyển Luân Thánh Vương để
hưởng dục lạc trong ba cõi, mục đích cầu thành Phật và độ sinh thoát
khỏi luân hồi, cho họ được an vui đạo Niết bàn. - Rất quý tấm lòng cao thượng của Ngài, nhưng
xin hỏi Ngài đau đớn như vậy có phàn nàn gì không? - Sự phàn nàn hối hận quyết không có một mảy
may! Tôi thấy Ngài huyết chảy như lưu ly, thân thể
xanh lợt, tự nói không, việc đó khó tin. - Quý Ngài không tin, tôi xin thề rằng: "Tôi một
lòng thành thực làm hạnh bố thí để cầu thành Phật, nếu miệng nói tâm
nghĩ đúng, thì cặp mắt tôi lại được bình phục như cũ". Nói dứt lời cặp mắt của Ngài, tự nhiên lại được
hoàn toàn, xem coi sáng tỏ hơn xưa. Khi đó, tất cả trời người ai nấy đều
vui mừng và cảm tâm sắt đá của nhà vua, ai ai cũng khen rằng: - Sau này
Ngài thể nào cũng được thành Phật. Khi đó vua Khoái Mục bảo anh Bà la môn rằng: - Hôm nay tôi cho ông cặp mắt thịt, lai sinh
thành Phật tôi sẽ cho ông con mắt trí tuệ. Nói xong sai người dẫn anh vào kho, tha hồ cho
lấy vàng bạc mang về bản quốc. Vua Ba La Bà Bạt Di hay tin ra đón, bắt gặp hỏi
rằng: - Anh xin mắt được chăng? - Tậu Bệ Hạ! Xin được và đã nhìn thấy sáng suốt. - Thế nào! Vua Khoái Mục sống hay chết? - Tậu Bệ Hạ! Khi mổ mắt nhà vua đau đớn huyết
chảy đẫm người coi rất ghê sợ, các ông Thiên Tử đến hỏi thăm, Ngài có
thệ nguyện, khi tuyên thệ xong, tự nhiên hai mắt lại được bình phục như
cũ, có lẽ còn sáng suốt hơn trước. Ông vua này nghe nói tức giận quá, nổ tim chết. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông nên biết: Vua Khoái Mục thuở đó
chính là tiền thân của ta đấy, vua Ba La Bà Bạt Đi nay là ông Điều Đạt,
anh Bà la môn xin mắt vua Khoái Mục thuở đó chính là anh mù vừa đắc đạo
đây. Đời quá khứ, được hàm ân ta, khỏi mù, đời nay
gặp ta sáng tỏ con mắt thịt, đồng thời lại được cả mắt tuệ, ta cũng vì
chúng sanh đời đời làm những hạnh khổ tích công tu đức đến nay được
thành Phật. Vậy các ông cũng nên chăm chỉ mà tu hành cầu đạo vô vi an
lạc làm lòng. Nghe Phật nói xong, tôi và toàn thể, đều cảm
niệm ân đức bao la của Ngài, rồi đó có người đắc sơ quả, cho đến tứ quả,
vui mừng tạ lễ mà lui. 28/ Phẩm thứ hai mươi tám NĂM TRĂM NGƯỜI
MÙ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở một
nước Xá Vệ tại vườn ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ nước Tỳ Xá Ly có năm trăm người mù đi ăn
mày, nghe thấy người ta nói: Đức Như Lai ra đời rất là hiếm có, nếu
chúng sinh nào được gặp, bất luận có bệnh hoạn gì cũng nhờ Ngài cứu
được, kẻ mù sẽ được sáng con mắt, kẻ điếc sẽ được nghe rõ, kẻ còng gù sẽ
được thẳng thiu, kẻ khễnh kiễng sẽ được duỗi thẳng, kẻ cuồng si sẽ được
trí tuệ, kẻ loạn tâm sẽ được an định, kẻ đói rách sẽ được áo cơm, kẻ sầu
khổ sẽ được an vui. Năm trăm người bàn nhau rằng: - Lũ ta sinh nơi hạ tiện, đã bị nghèo đói, lại
mù đôi mắt, trên đời không ai khổ hơn, vậy chúng ta đến chốn Phật nhờ
Ngài tế độ. Bàn nhau xong rồi hỏi thăm người đi đường rằng: - Đức Thế Tôn bây giờ ở nước nào, các ông bảo
cho biết? - Họ đáp rằng: - Ngài đang ở nước Xá Vệ. Lẩm bẩm nói rằng: - Ai là người thương lũ chúng tôi? Làm phúc đưa
chúng tôi đến nước Xá Vệ nơi Phật ngự. Nhưng không! Không ai giúp. Sau họ đi xin tiền, góp lại được năm trăm đồng,
đứng bên lề đường lớn tiếng nói: - Ai đắt chúng tôi đến nước Xá Vệ, xin trả năm
trăm đồng! Khi đó có một người nhận, lấy tiền rồi bảo năm
trăm người rằng: - Các anh hãy nắm vào vai nhau, làm thành một
hàng dọc, còn tôi đi trước đắt. - Khi đến nước Ma Kiệt Đề, tới một cánh đồng
rộng thấy mỏi mệt quá, anh lẩn mất, năm trăm người trơ trọi không biết
lối đi, lúng túng, đường đi chẳng đi, đi xuống ruộng, dẫm nát nhừ đồng
lúa. Thấy năm trăm người mù đi trên ruộng của ông, đầy xéo tan nát lúa
mạ mất nhiều. Ông nổi giận mắng rằng: - Các anh mù, đường chẳng đi, đi giữa ruộng làm
nát lúa, có lên không? - Dạ! Thưa ông, chúng tôi mù lòa không nhìn rõ,
xin ông tha cho. Các anh ở đâu tới đây? - Thưa ông, chúng tôi ở nước Tỳ Xá Ly, nghe đồn
đức Phật Từ bi cứu thế, hiện Ngài ở nước Xá Vệ, chúng tôi thuê một người
dắt, tới đây họ bỏ trốn mất, thành ra lẩn quẩn ở chốn này, ông làm phúc
cứu giúp, ơn ấy không bao giờ dám quên! Nghe họ nói thế, ông cũng thương, về sai người
dắt họ đến nước Xá Vệ, thì Phật sang nước Ma Kiệt Đề, người ấy lại đắt
đến nước Ma Kiệt Đề, thì Phật vừa sang nước Xá Vệ, cứ thế đến bảy lần
vẫn không gặp Phật. Họ mong muốn được gặp Phật, như kẻ đói mong được
cơm ăn, kẻ khát mong được nước uống, một lòng chân thành khát ngưỡng đức
Thế Tôn, vì thế tuy mù con mắt thịt, nhưng con mắt tâm của họ đã từng
nhìn thấy Phật, nên họ vẫn hoan hỷ không biết mỏi mệt. Khi đó đức Thế
Tôn xem biết thiện căn của họ đã thục, lòng tin đã chắc, nên Ngài ở lại
nước Xá Vệ cho họ được gặp. Lần này đến nước Xá Vệ, năm trăm người được gặp
Phật, nhờ ánh hào quang, mọi người hết mù, sáng tỏ đôi mắt, nhìn thấy
Phật thân vàng chói lọi, vui mừng quá! Cùng nhau tới trước lễ Phật đồng
thanh bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con sinh nơi hèn
hạ, ra đời thuần thấy đau khổ! Hôm nay nhờ oai thần của Ngài được sáng
tỏ con mắt, chúng con một lòng thành kính, cúi xin Từ bi tế độ cho nhập
đạo tu hành. Phật mỉm cười nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời, năm trăm người đều rụng hết
tóc, áo Cà sa thấy mặc tại mình, theo Phật tu hành, không bao lâu đã đắc
A la hán. Thấy thế tôi thưa Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế làm lợi
ích cho muôn loài chúng sinh, những người này trong giây phút được sáng
tỏ con mắt thịt, hơn nữa lại đắc quả La Hán, không rõ kiếp xưa họ tạo
tội gì, cúi xin nói cho chúng con được rõ? Phật dạy rằng: - A Nan! Không những kiếp này ta cứu họ khỏi tối
con mắt, mà đời quá khứ cách đây vô lượng kiếp ta đã cứu họ thoát khỏi
khổ hắc ám một lần. - Kính lạy Ngài, cúi xin chỉ giáo cho chúng con
được ân triêm công đức. - A Nan! Ông lắng nghe: Cách đây đã nhiều vô
lượng kiếp, cũng tại Châu Diêm Phù Đề này, thuở ấy có năm trăm người lái
buôn đi qua một cánh đồng rộng, tới con đường hiểm vào một hang núi,
hang ấy tối om, sợ kẻ cướp đánh giết lấy tiền và hàng hóa, không biết
làm thế nào, họ chỉ biết khấn trời vái tất cả thần kỳ trên rừng dưới
biển ủng hộ cho họ. Trong bọn ấy có một người thấy anh em lo sợ bảo
rằng: - Các bạn cứ an tâm, đừng lo nữa, tôi có cách
làm cho sáng sủa để các anh đi. Người đó lấy lụa Bạch Điệp cuốn vào cánh tay tẩm
dầu đốt, đi bảy ngày mới qua hang núi. Khi qua núi được an lành vô sự,
mọi người vui mừng và cám ơn lắm! A Nan! Người đốt cánh tay thuở đó, có phải là ai
đâu, chính là ta đấy. Ta từ đời vô thỉ tới nay, đem quốc thành vợ con
huyết nhục bố thí chúng sinh, bởi thế đời nay được đặc tôn trong ba cõi,
còn năm trăm người lái buôn tức là năm trăm người mù này. Đời quá khứ ta
lấy thân sinh tử bố thí cho họ được sáng sủa, giờ đây thành Phật, ta lại
cho họ con mắt trí tuệ. Tất cả đại chúng nghe Phật nói xong, ai nấy đều
hoan hỷ. Nhân nghe thuyết pháp cũng có người đắc sơ quả cho đến tứ quả,
cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, ngoài ra còn rất nhiều người được
độ, cúi đầu tạ lễ mà lui. 29/ Phẩm thứ hai mươi chín PHÚ NA KỲ CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở một
nước Xá Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Thuở bấy giờ nước Phóng Bát có ông Trưởng giả
tên là Đàm Ma Tiện (Tàu dịch: Pháp Quân), nhà giàu nhất nước ấy, vợ ông
sinh được đứa con trai, nhân gặp lúc nhà vua xuất quân đi đánh trận, nên
đặt tên là Tiện Na (Tàu dịch: Quân). Sau bà lại sinh được cậu nữa, giữa
lúc nhà vua thắng trận, nên đặt tên là: Tỷ Kỳ Đà Tiện Na (Tàu dịch:
Thắng Quân). Phải khi ông Trưởng giả mắc bệnh, các Thầy lang
đến chữa được tiếp đãi trọng hậu, ăn uống rất đàng hoàng, tiền vãng phản
khá nhiều. Nhưng không may gặp bọn Thầy lang gian ác, cho trái thuốc,
cốt ngâm bệnh ông lê nhê mãi không khỏi để chúng kiếm nhiều tiền. Ông có một người ở gái, hàng ngày thuốc thang
cơm cháo hầu hạ, nó biết mưu của bọn Thầy lang như thế, nên nó thưa với
ông rằng: - Thưa ông! Các ông lang không tốt đâu! Họ ác
lắm! Thấy ông giàu có, cho ông uống trái thuốc, dềnh dang cho lâu khỏi,
để cầu lợi. Vậy để tôi cứ như lần trước, theo đúng phép điều trị thì
khỏi! Ông nói: - Phải! Mi nói đúng, cho mi được tùy ý! Sau, cô điều dưỡng cho ông được khỏi bệnh. Một
thời gian sau Trưởng giả khỏe mạnh, cô thưa với ông rằng: - Thưa Trưởng giả! Tôi hầu hạ thuốc thang cho
ông nay ông đã khỏi bệnh. Vậy tôi xin ông một điều, nếu ông vui lòng tôi
xin nói? Trưởng giả đáp: - Mi cứ việc nói. - Tôi mong ước đã lâu, muốn để vui thú ân tình
với ông một đêm, xin ông đừng từ chối! Ông Trưởng giả mỉm cười gật đầu. Cô mừng quá, đêm hôm ấy cùng ông thỏa mãn lòng
dâm dục, sau cô có thai, qua thời gian sinh một cậu con trai, vì được
mãn nguyện vọng, nên đặt tên là Phú Na Kỳ (Tàu dịch là Mãn Nguyện). Song cũng hay! Cậu bé kháu khỉnh, khi lớn có đức
tướng khôi ngô, lòng dạ ngay thẳng trung chính, và thông minh, về mặt
thương mãi có tinh thần hơn người, lại biết cách trồng cây, nuôi súc
vật, đi đến đâu cũng gặp tốt lành. Như vậy, là do tinh khí của ông
Trưởng giả, nên được thông minh xuất chúng, chỉ nỗi làm con người ở gái,
nên đứng vào hàng nô tỳ hèn hạ, không được cao quý bằng con bà lớn. Khi đó Trưởng giả mắc bệnh, biết mình phải chết,
gọi hai con lên dặn rằng: - Con người có sinh phải có tử, xem trong mình
cha không có phần nào ở với các con được nữa, vậy sau khi cha chết, các
con nên ở với nhau, chớ phân chia tài sản! Đáp: - Dạ! Xin cha cứ an tâm điều dưỡng thuốc
thang, nếu cha có mệnh hệ nào, chúng con, anh em ở với nhau, xin nhớ lời
cha dạy. Được ít ngày ông chế, anh em ăn ở với nhau, trên
thuận dưới hòa, sống chung một nhà đoàn viên vui vẻ! Không xảy ra chuyện
chi xích mích. Qua thời gian khá lâu, cũng vì sự sinh sống, hai người
anh con bà lớn đi ra nước ngoài buôn bán, vợ con và tài sản đều giao cho
Phú Na Kỳ là em thứ ba ở nhà coi sóc, đảm nhiệm việc gia đình. Theo lời hai anh, Phú Na Kỳ ở nhà phụng sự gia
nghiệp, tăng gia sản xuất để nuôi gia đình một cách rất chu đáo, đối với
hai chị dâu và các cháu. Một hôm đứa con trai nhỏ của Thắng Quân đến xin
tiền Phú Na Kỳ, phải lúc không sẵn, Phú Na Kỳ nói: - Hôm nay chú không sẵn, cháu muốn mua gì để chú
mua cho! Nó giận chạy về mách mẹ rằng: - Mẹ ơi! Chú Phú Na Kỳ không có công tâm, con
bác muốn gì chú cũng cho; hôm nay con xin tiền mua quà chú không cho! - Thế à! Làm sao con đứa ở lại thiên lệch như
vậy? Thôi không thèm để mẹ bảo cho. Sau khi Thắng Quân về, chị hai chưa nguôi cơn
giận, đem chuyện đó nói với chồng. Thắng Quân cũng si mê nổi giận nói: - Con đứa ở sao dám thiên lệch như vậy? Nó muốn
chết ư? Ta sẽ giết nó cho xem! Thắng Quân lên nói với anh cả rằng: - Thưa anh, theo lời cha dặn lúc sinh thời, anh
em ở chung nhau, nhưng em thấy chú Phú Na Kỳ quá đáng, em xin anh cho ở
riêng! - Thôi chú ạ! Phú Na Kỳ tốt lắm đấy, chú nghe
chi trẻ con đàn bà, trái lời cha dặn là bất hiếu! Thắng Quân nói tới hai lần không thôi. Người anh biết rằng nếu ở chung rồi sẽ xảy ra
những chuyện không hay, bất đắc dĩ phải cho phân cư. Tất cả ruộng vườn,
của cải, súc vật chia ra bốn phần: Anh cả hai phần, Thắng Quân một phần, còn một
phần cho Phú Na Kỳ, chia gia tài xong, Thắng Quân nói: - Phần anh thì anh lấy, còn của Phú Na Kỳ để em
giữ. Người anh biết ý Thắng Quân muốn hại Phú Na Kỳ,
nên khéo léo cho Phú Na Kỳ đi ở nơi xa. Lúc bước ra đi, Phú Na Kỳ được
chị cả cho năm đồng tiền ăn đường. Phú Na Kỳ sang tỉnh khác làm ăn, hôm ấy ra chợ
mua củi, đưa về cởi ra được mấy đoạn gỗ chiên đàn và mấy đoạn gỗ ngưu
đầu, đem chặt ra mười đoạn cất đi. Cũng do phúc của Phú Na Kỳ đến ngày phát hiển,
khi đó Hoàng hậu mắc bệnh nhiệt, phải dùng hai thứ gỗ nói trên uống thì
khỏi, nhà vua cho người đi tìm không được, phải viết bản cáo thị: "Nếu
ai tìm được gỗ chiên đàn, ngưu đầu sẽ trả cho ngàn lạng vàng". Phú Na Kỳ mừng quá, đem vâng vua một đoạn, vua
cho một ngàn lạng vàng, cứ thế, dâng vua hết mười đoạn, được mười ngàn
lạng vàng. Đem về mua mười mẫu đất, xây cất nhà cửa, xe,
ngựa, lục súc, nuôi nô tỳ, thuê người làm lụng, từ đó gia nghiệp trở nên
phong phú. Bấy giờ có năm trăm người lái buôn biết Phú Na
Kỳ khá vốn, rủ ra biển buôn bán. Phú Na Kỳ thưa với anh cả rằng: - Thưa anh, em muốn ra biển buôn bán, và tìm
trân bảo, có được xin anh cho phép? - Được lắm, tôi sẽ cấp thêm tiền và cho một
người đi cùng chú. Phú Na Kỳ ra biển buôn bán phát tài, và lấy được
rất nhiều ngọc thạch, hột xoàn, trân bảo, vàng bạc nên mừng thầm, lớp
này về nhà được giàu có, của này ăn đến bảy đời không hết. Đương lúc thuyền trôi lênh đênh trên mặt biển,
một trời một vực, thốt nhiên mọi người đều nhìn thấy ba mặt trời xuất
hiện, lạ quá hỏi người lái đò rằng: - Hôm nay, sao lại có ba mặt trời, ông có biết
là điềm gì không? - Các ông nên biết: đây là điềm nguy biến cho
chúng ta đấy, không bao giờ có ba mặt trời, ở biển này có loài cá Ma
Kiệt lớn dày bảy trăm do tuần, mỗi giấc ngủ của nó là một trăm năm, khi
thức giấc, nó há mồm cho nước biển và tôm cá chảy vào làm món ăn, trên
kia là mặt trời chính, còn hai là mắt cá, giữa khoảng trắng kia là răng
nó, nước đương chảy vào chỗ tối kia là mồm nó, nguy đến nơi rồi các bạn
ơi! Bọn ta chết trong mồm cá này đây, thật là hết lối tẩu thoát, thuyền
cứ theo dòng nước chảy vào mồm cá, khi gần tới nơi, có một người Ưu bà
tắc theo Phật giáo lớn tiếng nói rằng: - Các bạn! Cái chết của chúng ta tới nơi rồi,
các bạn mau mau, dốc lòng thành kính niệm "Nam mô Phật"; Ngài là một
đấng đức nhân trong ba cõi, không ai bằng. Ngài có đại lực cứu khổ ban
vui trong chớp mắt! Ai nấy đều lo chết, nghe ông Hiền giả nói xong,
một lòng thành kính tha thiết, đồng thanh niệm Nam mô Phật. Cá Ma Kiệt nghe được danh hiệu Phật, phát Từ
tâm, ngậm mồm lại, rồi lăn xuống đáy biển, mọi người đều thoát nạn trở
về nước. Về đến nhà, Phú Na Kỳ lấy mâm đựng các của quý
ngoài biển, đem biếu người anh cả tên là Tiện Na rồi nói rằng: - Thưa anh, em đã vì gia đình, sinh kế mà lập
nghiệp, bây giờ nhà cửa ruộng đất, các trang vật đầy đủ, con cháu ăn đến
bảy đời không hết, xin biếu anh cả, em xin anh cho xuất gia theo Phật tu
hành cho thoát ách đau khổ! - Phải! Chú nói hay, tôi cũng không muốn trái ý,
song chú hãy còn ít tuổi, chưa hiểu lẽ nhân luân, Phật Pháp cao sâu, làm
sao theo nổi, chú hãy lui lại vài năm nữa hãy đi tôi rất đồng ý! - Thưa anh! Mạng người vô thường, sớm còn chiều
mất không có nhất định, không có bảo đảm, bữa trước đây em ra biển gặp
cá Ma Kiệt suýt chết! Chết hụt, cũng nhờ ơn đức của Phật cứu sống, vậy
anh hãy hoan hỷ cho em đi, đừng gàn em nữa, vì em đã quyết định như vậy. - Thôi, chú đã có tâm như vậy, tôi cũng không
dám cản chú xuất gia, tôi vui lòng! - Dạ! Anh hoan hỷ nhé! Phú Na Kỳ rủ năm trăm người lái buôn đến nước Xá
Vệ yết kiến Phật, tới nơi cúi đầu lễ sát đất bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tới đây cầu
xin xuất gia tu đạo, cúi xin Ngài Từ bi tế độ. Đức Thế Tôn nhìn thấy họ tội căn đã hết, quả Bồ
đề đã phát sinh, nên Ngài mỉm cười nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời, năm trăm người đều biến thành các
vị Sa môn theo Phật tu học, chẳng bao lâu tâm trí giác ngộ, dứt hết lậu
nghiệp ba cõi, đắc quả La Hán. Duy có Phú Na Kỳ kết sử nặng quá, phải
giảng thuyết cho nghe nhiều cũng không giác ngộ, sau thành tâm cố gắng
lập chí tu học, được chứng sơ quả, từ đó tinh tiến ngồi thiền tụng kinh,
không dám lười biếng. Ngày an cư đã tới: Đức Thế Tôn cho các vị Tỳ
kheo ai muốn an cư ở đâu cũng được tùy ý. Phú Na Kỳ tới trước Phật bạch
rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Khóa hạ năm nay, đệ tử
xin đến nước Phóng Bát an cư, cúi xin Từ bi hoan hỷ. Phật dạy: - Pháp Tử, người nước Phóng Bát bạc
ác, tin theo tà đạo, kiến thức hẹp hòi, con là kẻ sơ học, đối với giáo
pháp của ta chưa hiểu bao nhiêu, nếu bị họ hủy nhục thì làm thế nào? - Kính lạy đức Thế Tôn! Nếu họ có hủy nhục con,
một cách tệ mạt đi nữa, nhưng họ không làm hại con thì cũng được! - Nếu kẻ gian ác nó làm hại con, thì sao? - Kính lạy Ngài! Nếu nó làm hại, mà không giết
con cũng còn hàm ơn họ! - Nó giết con không ích gì cho con, lúc đó con
làm thế nào? - Kính lạy Ngài! Tất cả vạn vật, có hình phải có
hoại, nếu họ giết con thì con chịu chết! - Nó hủy hoại con, làm nhục con, mà nó không
giết con, thì con có giận nó không? - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con không có giân, chính
kẻ đó lấy một sự không có căn cứ, vô cớ hủy nhục con, phỉ báng con, hoặc
đem dao gậy đánh đập con, sau giết con, mà chưa chết hẳn, tới phút cuối
cùng, con cũng không có một niệm giận họ! Phật khen rằng: - Đệ tử! Nếu con thực hành được
như vậy thì rất hay, sẽ làm hiển dương cho ngôi Tam bảo! Phú Na Kỳ cúi đầu lễ Phật, rồi cầm bát mang áo
ra đi. Tới nước Phóng Bát, nghĩ tại rừng một đêm, sớm ngày mai vào thành
khất thực, đến một nhà đại phú Bà la môn, anh chủ nhà chạy ra đuổi mắng! Phú Na Kỳ qua nhà khác, anh này cứ theo sau phỉ
báng, mắng nhiếc và đánh đập luôn tay. Nhưng Phú Na Kỳ vẫn bình tĩnh coi
như không, nét mặt vẫn tươi như hoa mới nở! Vui vẻ! Và không nói năng
gì. Anh chàng đánh chán tay, mỏi cánh, mắng rát cổ, thấy Phú Na Kỳ không
thay đổi sắc mặt và oán giận gì, nên anh tự thẹn hổ trong lòng, là vì vô
cớ đánh người, trách mình là kẻ tàn nhẫn quá, rồi đến xin tạ lỗi. Trong ba tháng an cư, Phú Na Kỳ chăm chỉ tu
hành, được hết mọi kết sử, tội chướng tiêu tan, hốt nhiên giác ngộ: đắc
quả vô lậu, giải thoát sinh tử ba cõi, thành ngôi A la hán. Hết ba tháng an cư: từ giã các người thân tín,
về nhà dặn anh rằng: - Anh chớ có ra biển, ngoài biển có nhiều sự
nguy hiểm, tiền của em để lại cho anh, có thể anh dùng trong bảy đời
không hết. Dặn xong ra về, khi tới Tinh xá và lễ Phật, chúc
mừng Phật, rồi về phòng nghỉ. Tiện Na không nghe lời Phú Na Kỳ dặn, một hôm
cùng với những người lái buôn ra biển, lấy rất nhiều gỗ chiên đàn, gỗ
ngưu đầu, đầy thuyền chở về. Giữa biển thuyền trôi lênh đênh, gặp một
con rồng, làm giông tố dữ dội, nó muốn đánh đắm thuyền để cướp lại gỗ,
tất cả mọi người la ó, khóc than! Kêu trời vái đất ầm ĩ! Tiện Na nhớ
rằng vì không nghe lời em, nên nay bị nạn, khi đó chỉ lớn tiếng gọi chú
Phú Na Kỳ, gọi liên hồi khan tiếng! Khi đó Phú Na Kỳ ở nước Xá Vệ tại Tinh xá Kỳ
Hoàn, đương tọa thiền, bỗng nghe thấy tiếng anh mình kêu mắc nạn, lấy
thiên nhãn nhìn thấy Tiện Na đương ở ngoài biển bị con rồng hãm hại, bèn
dùng La Hán thần túc hóa ra một con chim Kim Xúy Điểu, xòe cánh dài tám
vạn do tuần, bay đến khủng bố Rồng! Rồng thấy chim sợ hãi, lặn chìm
xuống đáy biển, nhờ sức thần túc của Phú Na Kỳ mà sóng gió đều im, mọi
người thoát nạn trở về nước nhà. Khi Tiện Na về tới nhà, Phú Na Kỳ thưa với anh
rằng: - Anh muốn được phước báo trang nghiêm trên cõi
Nhân Thiên, cho muôn ngàn thế hệ sau này, thì lấy gỗ chiên đàn làm một
tòa lâu đài, mời Phật về ngự, và thuyết pháp cho quốc dân nghe. - Việc làm tôi xin làm chu đáo, nhưng còn thỉnh
Phật thì phải làm thế nào? Và sắm sửa những gì cúng dàng? Chú cho biết
để sắp đặt. - Việc đó anh không lo! Để em chịu trách nhiệm! Sau khi Tiện Na làm xong các tòa lâu đài bằng gỗ
chiên đàn các công việc sắp đặt chu đáo. Phú Na Kỳ lấy lò đốt hương trầm
lên một lầu cao, hướng về rừng Kỳ Hoàn, lễ Phật cùng Thánh chúng khấn
rằng: - Kính lạy đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật! Cùng
chư vị Hiền Thánh Từ bi chứng giám, sớm ngày mai tới nước hèn mạt này,
giáo hóa cho lũ ngu si mê muội, được ân triêm đức hóa. Khấn nguyện xong, khói hương ấy bay tới đầu đức
Thế Tôn, kết thành cái táng bằng khói hương. Sau Phú Na Kỳ dùng thần
thông phóng nước đến rửa chân Phật. Tôi thấy điềm lạ, quỳ xuống bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ai phóng nước và khói
tới đây, xin nói cho chúng con được rõ? - Hôm nay Tỳ kheo Phú Na Kỳ ở nước Phóng Bát,
khuyên người anh thỉnh mời ta và các Tăng chúng, nên phóng nước và khói
tới đây để làm tin về việc thỉnh. Vậy ông đi phát thẻ cho các vị Thần
túc Tỳ kheo sớm mai đến nhà Tiện Na thụ trai. Tôi theo lời Ngài đi phát thẻ cho các vị có thần
túc và dặn sớm mai đến nước Phóng Bát. Ông Kỳ Kiền Trực Kỳ (Tàu dịch: Tục Sinh), giữ
chức trực nhật (làm cơm hàng ngày), ông đã đắc quả A na hàm, ngồi kết
già phu, thân phóng quang minh, chiếu sáng bốn phương, đem theo các thứ
dùng bữa ăn, bay trên hư không tới nước Phóng Bát. Tiện Na trông thấy hỏi: - Đây là Thầy em hay sao? - Không phải, đây là người sửa soạn cơm cho các
Tỳ kheo, tới trước để giúp bữa trai hôm nay. Tiện Na đem âm nhạc ra cúng dàng, Ngài từ từ hạ
xuống vào nhà. Lần thứ hai có mười sáu vị Sa di, trong đó có
ông Quân Đề, dùng thần túc biến hóa ra rừng cây, hái các thứ hoa quả,
biến hóa rất nhiều, phóng quang minh chiếu sáng cả trời đất, người cỡi
ngựa hoặc cỡi lạc đà đi tới. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em hay sao? - Không phải! Đây là những đệ tử Sa di cùng Thầy
với em; mới có bảy tuổi đã đắc quả La Hán, lậu nghiệp đã hết, thần túc
đầy đủ, lại đây trước để hái hoa cúng dàng. Tiện Na đem hương hoa, âm nhạc ra cúng dàng, các
vị từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có các vị cao niên trưởng lão Đại A la hán,
hóa ra ngàn con rồng kế thân làm tòa, đầu ngóc ra bốn bên, gầm thét vang
trời, mồm rồng phun ra nước mưa Thất bảo, ở trên đặt những tòa lớn, bằng
bảy thứ báu ngọc, bay bổng trên không gian, phóng quang minh chiếu sáng
khắp thiên hạ, đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em hay sao? - Không phải, đây là nhóm ông Kiều Trần Như, lúc
Phật mới thành đạo, thuyết pháp ở vường Lộc Uyển, bọn ông cả thảy năm
người được độ đầu tiên, có thần thông vô ngại. Tiện Na nghe nói thêm lòng cung kính, đem hương
hoa âm nhạc ra cúng dàng, các vị từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Ca Diếp hóa ra một ngàn nhà giảng, bằng
Thất bảo, phóng quang minh ở trong mình ra, chiếu khắp bốn phương, bay
đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em hay sao? - Không phải, đó là Ngài Ma Ha Ca Diếp, hay tu
hạnh Đầu Đà thương kẻ ty tiện, chăm cấp giúp kẻ nghèo cùng. Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Xá Lợi Phất, ngồi tòa ngàn con Sư tử,
hướng đầu ra bốn phương, mồm phun nước mưa Thất bảo, gầm thét, làm chấn
động cả trời đất, trên mình Sư Tử bày tòa bằng Thất bảo, thân Ngài phóng
quang minh chiếu soi bốn phương, bay trên hư không, đi đến nước Phóng
Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? - Không phải, đó là vị đại đệ tử của Thầy em!
Trí tuệ bậc nhất, tên là Xá Lợi Phất. Tiện Na vui mừng, lấy hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng, Ngài từ từ hạ xuống nhà. Sau Ngài Mục Kiền Liên hóa ra một ngàn con voi,
quay đầu ra bốn bên, mỗi con có sáu ngà, mỗi đầu ngà có bảy hồ tắm,
trong mỗi hồ có bảy hoa sen, trên mỗi hoa có bảy người ngọc nữ, ngoài ra
còn biến hiện rất nhiều, phóng hào quang sáng lớn, làm vang động cả bốn
phương trời, trên đầu voi bảy tòa Thất bảo, Ngài ngồi trên, bay đến nước
Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em, tên là
Đại Mục Kiền Liên, thần thông bực nhất, đức hạnh đầy đủ. Tiện Na vui mừng đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài A Na Luật tự hóa ra bảy ao tắm bằng
Thất bảo; trong ao có hoa sắc vàng; hoa lá bằng Thất bảo. Ngài ngồi kiết
già phu trên hoa, cổ Ngài đeo chiếc nhật quang soi khắp thiên hạ, những
ánh hào quang ấy thuần sắc vàng bay trên không gian đến nước Phóng Bạt. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em tên là A
Na Luật Đề, đối với đại chúng, là một vị thiên nhãn bực nhất. Tiện Na vui mừng! Cung kính lấy hương hoa kỹ
nhạc ra cúng dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau em Phật là Nan Đà, hóa ra ngàn cỗ xe ngựa
Thất bảo trên xe che tán Thất bảo, phóng quang minh chiếu ra bốn phương,
bay trên hư không, đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là em của Phật tên là Nan Đà,
tướng mạo và đức hạnh đầy đủ. Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau Ngài Tu Bồ đề hóa ra bảy quả núi ngọc, Ngài
ngồi trong hang lưu ly, thân phóng quang minh nhiều sắc lẫn nhau, chiếu
sáng trời đất, bay đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em tên là Tu
Bồ đề, học nhiều trí tuệ sâu rộng, là một vị bậc nhất giải rõ pháp
"Không". Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau đó ông Phân Nậu Văn Đà Ni Tử, hóa ra một
ngàn thân Ca Lâu La Vương, kết thành toà ngồi, đầu hướng ra bốn bên, mồm
ngậm các thứ châu bảo, phát ra những tiếng hòa nhã, ở trên bảy tòa Thất
bảo, bay trên không gian đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy của em phải không? - Không phải, ông đó cùng đồng Thầy với em, tên
là Phân Nậu Văn Đà Ni Từ, một vị biện tài đệ nhất. Tiện Na vui vẻ! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có Ngài Ưu Bà Ly hóa ra ngàn con nhạn giụm
mình vào nhau đầu quay ra ngoài, tiếng kêu hòa nhã! Mồm ngậm các thứ
châu bảo, bay liệng trên không gian, trên mình bày tòa quý đẹp, phóng
đại quang minh chiếu khắp bốn phương, bay đến Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đó là đệ tử của Thầy em, tên là Ưu
Ba Ly, một vị trì luật bực nhất trong hàng Tỳ kheo. Tiện Na vui mừng! Lấy hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau đó hai mươi ức vị Sa môn, hóa ra những hàng
cây ở trên hư không, dùng ngọc lưu ly xanh làm lối kinh hành, giữa hai
hàng cây giáp nhau, làm bằng Thất bảo, bên lề đường cũng bằng Thất bảo,
các vị đi trên lối kinh hành đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đây là hai mươi ức vị Sa môn, đệ
tử trong các hàng Tỳ kheo, tinh tiến hơn hết. Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng, các Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông Đại Kiếp Tân Ninh, hóa ra bảy hàng
cây báu, trên cây có rất nhiều hoa quả, dưới gốc cây có bảy tòa cao đẹp,
Ngài ngồi trên tòa phóng quang minh. Bay trên hư không đến nước Phóng
Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đây là một vị cùng Thầy với em,
tên là Đại Kiếp Tân Ninh, oai nghi đĩnh đạc, dũng mãnh nghiêm chỉnh đệ
nhất. Tiện Na vui mừng, đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông Tân Đầu Lư Phả La Đỏa Sà ngồi tòa hoa
sen, cổ đeo chiếc nguyệt quang, phóng ra ngàn tia sáng, soi khắp trời
đất, bay trên không gian đến nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải chăng? - Không phải, đó là đệ tử Phật, tên là Tân Đầu
Lư Phả La Đỏa Sà, một vị tọa thiền giỏi nhất. Tiện Na vui vẻ, đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Sau có ông La Hầu La hóa làm vua Chuyển Luân; có
ngàn người con và Thất bảo vây quanh trước sau, bay trên không gian đến
nước Phóng Bát. Tiện Na hỏi: - Đây là Thầy em phải không? Đáp: - Không phải, đó là con Phật, tên là La Hầu
La ở tại gia sẽ thống trị bốn thiên hạ, Thất bảo tự nhiên đầy đủ, không
phải dùng quân đội và khí giới, mà có thể dẹp yên được giặc, bỏ ngôi cao
quý xuất gia tu đạo, được đắc quả A la hán, đủ sáu phép thần thông, giờ
đây biến thân để biểu lộ cái ngôi của Ngài. Tiện Na vui vẻ đem hương hoa âm nhạc ra cúng
dàng. Ngài từ từ hạ xuống vào nhà. Đây là năm trăm đệ tử của Phật, có phép thần
thông vô ngại biến hiện phi thường không tả xiết. Khi đó đức Thế Tôn
biết các vị đã đi đến nước Phóng Bát rồi. Ngài bèn phóng hào quang chiếu
sáng trời đất thuần sắc vàng. Thấy điềm tướng này, Phú Na Kỳ bảo Tiện Na rằng: - Thưa anh! Đức Thế Tôn sắp đến, nên Ngài phóng
hào quang cho biết trước! Đức Thế Tôn đương ngồi trên tòa, la chân xuống
đất, tất cả trên trời dưới đất đều rung động sáu lần. Phú Na Kỳ nói: - Động đất này là do đức Thế Tôn,
Ngài la chân xuống đất làm chấn động như thế đó. Đức Thế Tôn vừa ra khỏi Tinh xá, Ngài dừng lại
nhập định, thì thần kim cương đứng ở tám mặt; bốn ông Thiên Vương đi
trước, vua Đế Thích với các ông Thiên Tử cõi Dục và năm trăm ngàn muôn
chúng thị vệ bên tả, vua Trời Đại Phạm và các ông Thiên Tử cõi Sắc, với
vô số người đứng bên hữu. Tôi (A Nan) đứng sau Phật cùng với đại chúng,
phóng quang minh chiếu khắp trời đất, bay trên hư không đến nước Phóng
Bát. Đi được nữa đường, gặp năm trăm nông phu đương
cày ruộng, các con trâu tự nhiên đứng dừng lại không kéo cày nữa, một vẻ
trầm tĩnh và kính cẩn biểu lộ, ngửa mặt nhìn lên trời, các người nông
phu ngửa nhìn theo trâu, họ đều quỳ xuống bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thê Tôn! Để lòng thương lũ chúng
con, tạm xuống chỗ này giáo hóa chúng con thoát ly được những nỗi đọa
đày thể xác lẫn tinh thần, đời đời được an vui sung sướng! Phật lấy lòng Từ bi và biết những người này
duyên lành đã tới, nên Ngài từ từ hạ xuống thuyết pháp cho họ nghe. Họ được lãnh hội giáo lý của Ngài, tâm trí tự
nhiên sáng tỏ, hiểu thấu đời là vô thường không gì vững chắc, liền ngắt
dứt được hai mươi ức kiếp tội ác, thành ngôi Tu đà hoàn, còn những con
trâu, sau khi chết được sinh lên trời, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, lễ
sát dưới chân Phật. Thuyết pháp xong, đức Phật lại bay lên hư không
mà đi, đi chưa được bao xa có năm trăm kẻ đồng nữ chơi ở một cánh đồng
rộng, nhìn xuống đất có ánh sắc vàng, ngửa mặt lên trời thấy Phật, chúng
nó vui mừng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy Phật! Xin Ngài xuống đây thuyết pháp
cho lũ con nghe! Phật biết những đứa này có túc duyên, căn lành
với Tam bảo đã chín, Ngài từ từ hạ xuống, mọi đứa tới gần cúi đầu lễ
kính, đức Phật tùy theo căn cơ của nó, nói những lời đạo đức, giảng dạy
môn tu. Chúng nghe xong đều phát trí sáng, đắc quả Tu đà hoàn, chúng vui
mừng tha thiết lễ dưới chân Phật. Cảm hóa đã xong, Ngài cùng với các đệ tử đi bộ
trên hư không, qua khoảng rừng xanh, có năm trăm ông tiên nhìn thấy Phật
và đại chúng, họ đều tha thiết lễ kính và bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Nhân Ngài qua đây, chúng
con được hạnh ngộ, ngửa mong ơn Từ bi cao cả tế độ lũ chúng con được
nhập đạo tu hành. Phật coi duyên trước của những người này, biết
có thể độ được, nên Ngài từ từ hạ xuống trước mặt, mọi người cúi đầu lễ
sát đất. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói xong râu tóc họ rụng hết, biến thành các vị
Sa môn, Ngài giảng giải cho nghe, mọi người đều được sáng tỏ cõi lòng,
hết lậu nghiệp đắc quả A la hán. Phật bay lên hư không thì những người
này họ cũng bay theo. Phú Na Kỳ xa ngó thấy Phật và đại chúng sắp tới
bảo anh rằng: - Phật sắp tới anh ạ! Tiện Na vui mừng, lấy hướng hoa âm nhạc ra cúng
dàng, Phật và dại chúng Tăng từ từ hạ xuống vào nhà thứ tự ngồi an tĩnh. Tiện Na và gia quyến, sửa soạn cỗ bàn trai nghi
trịnh trọng thành kính dâng Phật và đại chúng. Phật dùng cơm xong, rửa tay súc miệng, thăng tòa
thuyết pháp cho cả nhà Tiện Na và toàn thể dân nước nghe. Xong cuộc
thuyết pháp này, gia quyến Tiện Na đều chứng quả Tu đà hoàn, còn những
người trong nước một số rất đông được độ. Thấy thế, tôi (A Nan) hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Phú Na Kỳ đời quá khứ
tạo ác nghiệp gì phải sinh làm con kẻ hạ tiện? Thuộc nô tỳ nhà người? Và
có phước gì gặp Phật được thoát sinh tử? Cúi xin đức Thế Tôn Từ bi chỉ
thị. Phật dạy: - A Nan! Ông muốn biết hãy nghe cho kỹ
và nghĩ cho khéo, tôi sẽ nói cho hay! - Dạ! Lạy đức Thế Tôn, chúng con xin chú ý nghe! - A Nan! Đời quá khứ đã lâu, thời Đức Phật Ca
Diếp giáng thế độ sinh. Bấy giờ có ông Trưởng giả, nhà rất giàu có, cũng
vì việc cầu phước, nên ông làm một ngôi chùa và phòng Tăng, dâng bốn
món: áo mặc, thức ăn, giường tòa, thuốc thang đầy đủ, cúng dàng Phật và
các vị Thánh Tăng. Sau khi ông chết, người con trai của ông đi xuất gia,
không có người thừa tự, nên sự cúng dàng ngày một thiếu hụt, các sư phải
giải tán đi nơi khác, chùa chiền bỏ hoang vu, không người sửa chữa, bị
mục nát, điêu tàn! Người con trai ông đi xuất gia, khi trở về thấy thế,
đi nói với dân làng và bè bạn thân quen, bỏ tiền ra tu bổ lại ngôi chùa,
và mời các Sư Tăng về cúng dàng như xưa, bấy giờ các Sư Tăng đến tu rất
đông, phần nhiều là những vị Cao Tăng Đại đức tu hành tinh tiến, đức
hạnh đầy đủ. Người con trai ông khi đó làm chủ chùa. Trong
các Sư Tăng phân công mỗi người một chức, để chấp tác việc chùa, hôm đó
có một vị phải phiên trực nhật, nhổ cỏ quét đất vun thành một đống ở
giữa sân chưa kịp hốt. Ông chủ chùa bẳn gắt mắng rằng: - Ai quét sân nhổ cỏ để đây không hốt đi, làm ăn
thế à? Không khác gì đứa nô tỳ, lười lẫm như vậy? Trái lại sư này đã tu
chứng đến quả vị La Hán, mà ông không biết! Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan! Ông chủ chùa thuở đó chính là Phú Na
Kỳ, bởi một lời nói ác, mắng vị La Hán Thánh nhân, tỷ dụ Ngài như đứa nô
tỳ, vì tội ấy nên trong năm trăm năm, thường phải làm thân nô tỳ. Cũng
do công đức sửa lại chùa chiền, khuyên người cúng dàng Tăng, đền tội đã
xong, nay được gặp ta đắc giải thoát; những người nước này được giáo
hóa, là những người ngày xưa giúp việc làm chùa và cúng dàng chúng Tăng,
nên đời đời sung sướng, hôm nay gặp ta đều giải thoát cả. Khi đó tôi và đại chúng nghe xong đều vui mừng,
tạ lễ mà lui. 30/ Phẩm thứ ba mươi NI - ĐỀ Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá
Vệ, tại vườn của ông Cấp Cô Độc, và rặng cây của Thái tử Kỳ Đà. Bấy giờ trong thành Xá Vệ người ở đông đúc, chỗ
cư xử chật hẹp, nhà xí ít, đi đại tiểu tiện phần nhiều phải ra ngoài
thành, những nhà giàu sang họ đi vào trong một cái bô, đậy nắp cẩn thận,
mướn người xách ra ngoại thành đổ. Khi đó có ông Ni Đề nhà nghèo, hàng ngày sinh
sống bằng nghề đổ phân thuê. Đức Thế Tôn luôn luôn nghĩ đến chúng sinh
có duyên, kẻ nên độ trước thì độ trước, kẻ nên độ sau thì độ sau, cũng
như cây kia nở hoa trước, thì kết quả trước, cây này nở hoa sau, thì kết
quả sau, tùy theo những chúng sinh căn lành đã thục, hoặc sớm hoặc muộn
đều được độ cả. Ngài biết ông Ni Đề căn lành đã thục, nghiệp chướng đã
tiêu, nên một hôm tôi theo Ngài vào thành để cứu ông ra con đường giải
thoát. Khi đức Thế Tôn và tôi vừa vào tới đầu phố, thì
ông Ni Đề gánh hai cái thúng phân đi đổ, ông nhìn thấy Phật trong lòng
tủi hổ, quẹo đi ra con đường khác để lánh mặt, vừa ra khỏi đường, bỗng
nhiên gặp Phật, sợ quá! Tẻ ra lối khác, tâm ý lộn xộn, đập thùng vào bờ
tường gạch, phẩn bắn đầy người, ông ngồi thụp xuống và không dám nhìn
Phật. Đức Thế Tôn tới gần an ủi và nói rằng: - Ni Đề, muốn theo ta xuất gia tu đạo cho thoát
khỏi các nỗi đau khổ không? - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài là dòng Kim
Luân Vương, các đệ tử của Ngài là những quý nhân, con là kẻ hạ tiện hèn
hạ, đâu dám xuất gia đồng hàng cùng các đệ tử của Ngài được! - Ni Đề! Nghe ta nói: pháp của ta thanh tịnh
nhiệm mầu, cũng ví như nước sạch có thể tẩy trừ được tất cả cấu uế nhơ
bẩn, cũng như đống lửa cháy lớn có thể đốt tiêu mọi vật, mặc dù vật lớn
hay nhỏ, cứng hay mềm, tốt hay xấu, đã bỏ vào thì thành tro than hết,
pháp của ta cũng thế, rộng rãi vô biên, giàu nghèo, sang hèn, trai gái,
nếu ai muốn tu ta sẽ độ hết. Ông Ni Đề nghe Phật nói xong, lòng tin chắc
chắn, phục xuống lạy và thưa rằng: - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài đã giàu lòng
thương đến con, vậy cúi xin Ngài cho con được nhập đạo tu hành. Thấy ông bẩn thỉu quá, Phật sai tôi đưa ông ra
sông tắm, và cho ông một tấm áo mới, mặc về Tinh xá Kỳ Hoàn, Phật thuyết
pháp cho ông nghe như sau: - Sinh tử là đau khổ phải nên sợ! Niết bàn là
pháp an vui lâu kiếp bất diệt, phải nên kính. Ông nghe Phật thuyết pháp xong hốt nhiên giác
ngộ, chứng được sơ quả, chắp tay lễ kính thọ giáo làm Sa môn. Phật nói: - Thiện Lai Tỳ kheo! Ngài nói dứt lời, tóc của ông rụng hết, áo Cà sa
thấy mặc tại mình. Phật dạy: - Ni Đề! Ông nên biết: Sắc thân năm ấm
này là khổ, những ác nghiệp gây ra từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tập
họp ở tâm thức nên đoạn nó đi. Diệt phải nên chứng, đạo phải nên tu. Nghe Phật nói xong, tự nhiên giác ngộ, dứt hết
lậu nghiệp đắc quả La hán, đủ ba phép Minh và sáu phép thần thông. Khi bấy giờ người trong nước họ nghe biết đức
Phật độ cho ông Ni Đề, ai cũng lắc đầu lè lưỡi có ý khinh bỉ, nói cùng
nhau rằng: - Ông Ni Đề là người đổ phân thuê, đứng vào hàng
hạ tiện, tại sao Phật lại độ cho ông ấy đi xuất gia. Lũ ta lễ bái làm
sao? Thỉnh Phật và Tăng đến cúng dàng không mời kẻ đó! Lúc làm trai nghi
họ lại ngồi bẩn giường nhà ta. Họ xôn xao đồn khắp trong thành, ai ai cũng nghe
biết, sau đến tai vua, vua nghe thấy cũng không hoan hỉ tâm, thầm nghĩ
rằng: - Ta phải can thiệp việc này, nếu để Phật độ
những người nghèo hèn xuất gia thì khi cúng dàng lễ bái không tiện. Nghĩ xong lên xe đi đến rừng Kỳ Hoàn, khi tới
cửa rừng, vua dừng chân đứng nghỉ, nhìn thấy một vị sư ngồi trên tảng đá
lớn vá áo, ở dưới có bảy trăm người cõi trời dâng hoa cúng dàng, lễ
kính, đi nhiễu xung quanh, nhà vua tới gần thưa rằng: - Kính thưa Tôn giả! Tôi muốn vào yết kiến Phật
xin Ngài vào thông bạch cho. - Phải! Bệ Hạ để tôi vào thưa trước giùm. Nói xong rẽ qua hòn đá đi vào trong bạch Phật
rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Ba Tư Nặc ở ngoài
cửa rừng muốn xin vào yết kiến đức Thế Tôn. Phật nói: - Ni Đề hãy dùng đạo lực đi ra nói
rằng: Ta cho vào. Ông Ni Đề từ tảng đá lớn ấy bước ra cũng như
người nhô khỏi mặt nước không có vướng vúi gì, bảo nhà vua rằng: - Thưa Bệ Hạ! Tôi đã thưa với Phật, xin Ngài cứ
việc đi vào. Vua Ba Tư Nặc thầm nghĩ như vầy: - Việc ta định hỏi trước, hãy khoan, ta sẽ hỏi
Phật, vị Tỳ kheo này ở đâu tới đây có thần lực cao siêu, hơn nữa lại
được các người cõi trời kính phục cúng dàng như vậy? Khi tới nơi cúi đầu dưới chân Phật, đi ngang về
bên hữu ba vòng, lui đứng về một bên bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Bên ngoài cửa rừng có
một vị Tỳ kheo, thần lực cao siêu đi vào trong hòn đá cũng như người đi
dưới nước, đá vẫn không nứt vỡ, họ tên gì, và ở đâu tới đây xin nói cho
con được biết? Phật dạy: - Đó là một người hèn hạ nhất ở trong
nước nhà vua đấy, tên là Ni Đề hàng ngày đi đổ phân thuê, tôi thương
tình độ cho xuất gia tu học, chưa được bao lâu đã chứng Thánh quả, hôm
nay nhà vua đến đây cũng định hỏi tôi việc đó! Nghe Phật nói thế nhà vua tàm quý, tự bỏ hết tâm
kiêu mạn, nhân thế Phật nói rằng: - Phàm con người ở trên đời, tôn, ty, sang, hèn,
giàu, nghèo, khổ, vui, cũng do tạo ác nghiệp, hay thiện nghiệp đời quá
khứ. Người nhận từ đạo đức, khiêm nhượng, kính trên nhường dưới, đó là
bậc quý nhân, kẻ hung ác tàn bạo, ương ngạnh, kiêu ngông vô lễ độ, không
phân phải trái thiện ác là kẻ hạ ngu tiểu nhân. - Kính lạy đức Thế Tôn! Bậc Đại Thánh xuất thế!
Cứu tế cho muôn loài đến những người hạ tiện, đê hèn còn cứu khổ ban
vui, không bỏ sót từng lớp người nào, nếu có duyên lành. Ông Ni Đề tại
nhân duyên gì phải sinh nơi hạ tiện? Làm phúc gì được gặp Thế Tôn? Hơn
nữa lại được chứng quả La Hán cúi xin Từ bi chỉ thị. - Nhà vua nghe cho kỹ, tôi sẽ nói rõ nguyên nhân
cho biết. - Dạ! Lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe, cúi
xin chỉ giáo. Đây cũng một câu truyện đời quá khứ, thời đức
Phật Ca Diếp giáng thế độ sinh, sau khi Ngài vào Niết bàn, có mười vạn
vị Tăng cùng ở với nhau một Tùng Lâm. Hôm ấy vị Sa môn chủ Tùng Lâm mắc
bệnh phải uống thuốc hạ, ông cậy thế làm một vị chủ không chịu đi ra nhà
cầu, mua một cái bình bằng bạc mạ vàng, đi đại tiểu tiện vào trong, rồi
bắt một người đệ tử đem ra ngoài đổ. Song người đệ tử ấy đã đắc quả Tu
đà hoàn. Bởi thế! Vì không có tâm khiêm nhường, không
phân biệt được người hay kẻ dở, cậy mình có thế lực, giữ việc Tăng
chúng, gặp chút bệnh nhẹ lười biếng không chịu đi, sai vị Thánh nhân đổ
phân cho mình. Vì nhân duyên ấy bị lưu lãng trong vòng sinh tử, thường
phải làm kẻ hạ tiện trong năm trăm đời, đi đổ phân thuê, cho đến ngày
nay không thôi. Cũng do công đức xuất gia trì giới, nên gặp ta cứu
thoát. Nhà vua nên biết ông chủ Tùng Lâm thuở đó, nay là Tỳ kheo Ni Đề
đấy. - Dạ! Kính lạy đức Thế Tôn quý hóa thay, Ngài
xuất thế thực là hiếm có, làm lợi ích cho không biết lượng nào chúng
sinh đau khổ. - Quý hóa! Như thế đấy, ông nói cũng phải, chúng
sinh luân chuyển trong ba cõi không có định, người tích thiện tu nhân,
được sinh vào nhà tôn quý, kẻ tạo ác phóng túng vô lễ độ, phải sinh nơi
hèn hạ. Nghe Phật nói! Nhà vua rất vui mừng bỏ hết tâm
kiêu mạn, khinh người, đứng lên quỳ thẳng ôm lấy chân ông Ni Đề lễ lạy,
và cầu xin ông xá tội. Đức Thế Tôn nhân vì ông thuyết pháp nói về luận
"Bố Thí", Luật "Trì Giới", luận "Sinh Thiên". Kẻ tà dâm phạm dục là hạnh
bất chính, đoạn dục là hạnh an vui. Bấy giờ tất cả mọi người dự thính, ai nấy đều
vui mừng, tự thệ bỏ tâm kiêu ngạo tuân lời Phật dạy, tu hành tạ lễ mà
lui. (Quyển Thứ Sáu Hết)
Kinh Hiền Ngu Quyển Thứ Bảy 31/ Phẩm thứ ba mươi mốt ĐẠI KIẾP TÂN
NINH Chính tôi được nghe: Một thời Phật ở nước Xá Vệ,
tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà. Về phương nam nước Xá Vệ có một nước tên là Kim
Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tân Ninh, con trai ông tên là Đại Kiếp Tân
Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau khi nhà vua băng hà, Thái
tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn sáu nước, quân lính
rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng lẫy bốn phương.
Nhưng xứ Trung Quốc họ không tùng phục. Bấy giờ có một người lái buôn đến nước Kim Địa
buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa Bạch Điệp rất tốt. Vua nhận rồi hỏi
rằng: - Vật này mua ở xứ nào? - Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc! - Trung Quốc tên chi? - Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ, Xá Vệ, và còn
nhiều nước khác nữa. - Các vua xứ Trung Quốc, tại sao không đem lụa
này dâng ta? - Tâu Bệ Hạ, đối với lực lượng họ cũng chẳng kém
gì nên họ không dâng! Vua Kim Địa thầm nghĩ như vầy: - Thế lực của ta có thể toàn thu được thiên hạ
về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta sẽ cử đại hùng binh sang
đánh! Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng: - Các nước xứ Trung Quốc, nước nào lớn hơn và
hùng mạnh hơn? - Tâu Bệ Hạ, nước Xá Vệ lớn nhất, và hùng mạnh
nhất! Nhà vua nói: - Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho anh, và cho anh
ra! - Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui. Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai người mang sang
cho vua Ba Tư Nặc như sau: - Ba Tư Nặc! Ông nên biết: Nước ta hùng mạnh
khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh tuyệt giao với ta; Ta sai người
mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh đương nằm nghe thấy
chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đương ngồi phải đứng
dậy ngay! Nếu đương ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đương tắm phải quấn tóc lại
ngay! Nếu đương đứng phải chạy đến đỡ lấy ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết
ta! Nếu không theo đúng lời nói đây, ta sẽ đem đại hùng binh sang tiêu
diệt nước của nhà ngươi! Vua Ba Tư Nặc tiếp được tờ chiếu chỉ vua Kim
Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết nghĩ sao liền đi cầu Phật giải
quyết. Bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim
Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày nữa đem binh sang đánh, con vừa nhận
được thơ. Cúi xin đức Thế Tôn đoán cho! Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo sứ giả
rằng: Ta cũng có một ông Đại Vương nước lớn, ông đó theo Phật giáo, cũng
gần đây, vậy nhà ngươi mang tờ chiếu này đến cho Đại Vương ta coi! Sứ giả đi cùng vua Ba Tư Nặc đến rừng Kỳ Hoàn. Đức Thế Tôn tự biến ra vua Chuyển Luân, sai ông
Mục Kiền Liên làm một vị đại tướng cầm quân, cơ nào đội ấy rất hùng
mạnh, biến rừng Kỳ Hoàn ra một cái thành lớn, bằng Thất bảo, chung quanh
thành có bảy lần hào lũy, thành có bảy lần hàng cây cũng bằng Thất bảo,
dưới hào có hoa sen, đủ các sắc, quang minh sáng sủa, các cung điện
trong thành thuần bằng Thất bảo. Vua Chuyển Luân ngồi trên bảo điện tôn
nghiêm đáng sợ. Sứ giả vào tới thành, nhìn thấy vua Chuyển Luân,
lẫm liệt như ông Thiên Đế Thích trên cung trời Đao Lợi, tâm hồn kinh
ngạc, sợ hãi! Thầm nghĩ như vầy: - Vua Kim Địa vô cố lại chiêu cái họa vào thân! Vừa run, vừa sợ! Không biết tính cách gì nói cho
tiện, quỳ xuống dâng lá thơ thưa rằng: - Kính tâu Đại Vương! Con là sứ thần của vua Kim
Địa, tuân mạng dâng bức thơ này lên Đại Vương! Vua Chuyển Luân, vất tờ thơ ấy xuống đất, đạp
lên trên nói: - Ta làm một ông Đại Vương thống trị bốn thiên
hạ, chúa nhà ngươi điên cuồng sao dám vô lễ, về ngay bảo cho chúa nhà
ngươi biết rằng: Mau mau lại đây triều cống nước ta, đương nằm nghe thấy
lời của ta đến, phải ngồi dậy ngay! Đương đứng phải bước lại ngay! Hẹn
bảy ngày nữa phải đến! Nếu trái lệnh ta, khi chịu chết đừng có hối hận! - Dạ muôn tâu Đại Vương! Hạ thần xin phụng mạng! Sứ Giả về nước nhà! Tâu vua Kim Địa những lời
nói trên, và trình bày thế lực cho nghe. Kim Địa nghe xong núng thế, tự
trách mình đã quá kiêu ngạo, rồi thảo thơ đi mời các vua nước nhỏ đến,
để đi yết kiến vua Chuyển Luân (Phật). Song hãy còn ngờ sai sứ đến tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Tiểu Vương Kim Đại phái hạ thần đến
đây, kêu với Bệ Hạ đưa ba vạn sáu ngàn vua các nước đến yết kiến, hay đi
một nữa, xin cho hạ thần được rõ? - Đại Vương đáp: "Cho để lại một nữa, tới đây
một nữa?" Sứ Giả về tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Đại Vương cho để lại một nữa, sang
một nữa! Vua Kim Địa sửa soạn binh nhung đầy đủ lương
thực, và đưa một vạn tám ngàn vua nước nhỏ sang. Tới nơi thấy thành
quách trang nghiêm thuần bằng Thất bảo, quân đội hùng mạnh, vua Chuyển
Luân như ông trời Đế Thích, oai phong lẫm liệt, cảnh giới không khác
thiên cung. Song lại nghĩ như vầy: Đức tướng và cảnh giới tuy hơn, nhưng lực lượng
chưa chắc đã hơn ta. - Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ của ông như vậy,
sai quân lấy cung cho vua Kim Địa giương thử. Kim Địa cầm cung giương
không nổi. Thấy giương không nổi, vua Chuyển Luân cầm lấy
cung giương lên như bỡn, rồi Ngài trao cho Kim Địa bắn thử, nhưng bắn
không nổi. Vua Chuyển Luân cầm lấy cung, bắn tiếng kêu, làm
chấn động ba ngàn thế giới, lại bắn thêm một phát nữa, hóa ra năm mũi
tên, các đầu tên đều tỏa ra vô số quang minh, trên đầu tia sáng đều có
các hoa sen lớn, to như vành bánh xe, trên mỗi một hoa, đều có một ông
Chuyển Luân Vương ngồi tòa Thất bảo, ngọc nữ đông đủ. Những tia sáng của
hoa làm đoạt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ba ngàn cõi, hào quang
ấy làm cho tất cả chúng sinh trong năm thú được lợi ích. Trên các cõi trời, những người được thấy ánh hào
quang, và được nghe thuyết pháp, thân tâm họ đều được thanh tịnh an vui!
Rồi có người đắc quả thứ hai, hoặc thứ ba; cũng có người phát tâm cầu
đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, dự vào ngôi bất thoái. Những chúng sinh ở đạo người được thấy hào
quang, và nghe tiếng thuyết pháp, ai nấy đều vui mừng! Sau có người đắc
nhị quả hoặc tam quả, cũng có người phát tâm xuất gia, và phát tâm cầu
đạo Vô thượng Bồ đề, dự vào ngôi bất thoái. Trong loài Ngạ quỉ được thấy hào quang này và
nghe tiếng thuyết pháp, đều tiêu hết nghiệp, thân tâm an lạc, nhiệt não
tiêu tan, phát sinh tâm tôn kính Đức Phật, họ đều được giải thoát loài
Ngạ quỉ, sinh lên thiên đường hoặc sinh cõi nhân gian. Loài Súc sanh được gặp ánh quang minh này, lòng
tham dục, sân si tự nhiên tiêu diệt, sinh lòng tôn kính Đức Phật, đều
thoát khỏi loài Súc sanh, hóa sinh về cõi người cõi trời. Những người trong Địa ngục, được gặp ánh quang
minh này, kẻ rét được ấm áp, kẻ nóng được mát mẻ, kẻ đau khổ được an
lành, thân tâm vui sướng kính mến Phật, liền thoát khoải Địa ngục sinh
về cõi người, cõi trời. Đại Kiếp Tân Ninh và các ông vua thuộc xứ Kim
Địa, thấy phép thần biến như vậy, vui sướng, tôn kính, cảm phục, sợ hãi
vua Chuyển Luân có thần biến và đức độ vô biên, ngay lúc ấy tâm của các
ông vua đều giũ hết mọi trần cấu Đắc Pháp Nhãn Tịnh. Đức Phật thấy các ông đã chuyển tâm quy hướng,
nên Ngài thu nhiếp thần lực, hiện lại nguyên hình, các đệ tử vây quanh
trước sau. Kim Địa và các ông vua thấy Phật, oai đức phi
thường thần thông hiển hách, sinh tâm cung kính, cùng nhau quỳ thẳng
chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tuy làm nhân
chúa, còn mê muội chịu ách luân hồi sinh tử, muốn trút bỏ kiến thức hẹp
hòi của chúng sinh, ràng buộc, cúi xin Ngài Từ bi cho xuất gia học đạo! Đức Phật khen ngợi! Và nói lên rằng: - Thiện Lai Tỳ kheo! Nói dứt lời râu tóc các ông đều rụng hết, áo Cà
sa thấy mặc tại mình, nghe Phật thuyết pháp được hết lậu nghiệp thành
ngôi La Hán. Thấy thế, tôi (A Nan) tới trước quỳ thẳng chắp
tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa, trước tu
hạnh gì, nay được làm nhân chúa, lại được gặp Thế Tôn, đắc quả La Hán
cúi xin nói cho chúng con, và chúng sinh đời vị lai được rõ? Phật dạy: - A Nan, tất cả chúng sinh do tạo công
đức lành đời trước mà được hưởng quả báo tốt đời này. Đây cũng một thời
quá khứ sau, Phật Ca Diếp nhập Niết bàn, có một ông Trưởng giả, bỏ tiền
ra xây tháp, làm chùa, và các phòng xá, cúng dàng chư Tăng, nào áo mặc,
thuốc thang giường tòa, các món ăn, sau khi ông chết trải qua lâu năm,
chùa tháp bị hư hỏng và các món ăn cũng không còn nữa, nên các sư phải
đi xứ khác. Con ông ta đi xuất gia làm Tỳ kheo, trở về nhà thấy thế, ra
khuyến hóa nhân dân, tu sửa chùa tháp, đặt các giường tòa, và các đồ ăn
dùng cúng dàng chư Tăng đầy đủ, rồi phát nguyện rằng: - Nguyện công đức này, đời mai sau cho con được
phú quý tràng thọ, gặp Phật nghe pháp và đắc đạo quả! A Nan ông nên biết, con Trưởng giả ở thời đó,
chính là vua Kim Địa tên là Đại Kiếp Tân Ninh, còn những người dân góp
tiền của chúng dàng, nay là một vạn tám ngàn các ông vua nước nhỏ bây
giờ. Nghe Phật nói xong ai nấy vui vẻ! Phát tâm cầu
đạo tu phúc, tuân theo lời vàng ngọc, tạ lễ lui ra. 32/ Phẩm thứ ba mươi hai TỶ KHƯU NI VI
DIỆU Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá
Vệ, tại Tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi vua Ba Tư Nặc đã băng hà, Thái tử Lưu
Ly chấp chính, bạo ngược tham tàn, thả voi đạp chết nhân dân vô kể. Bấy giờ các con gái trong nhà quý phái, thấy thế
chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để cầu giải thóat rất đông. Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ Thích, hoặc các
nhà Hầu Tước, là những dòng họ tôn sang bỏ sự vinh hoa sung sướng, xuất
gia tu đạo, cả thảy năm trăm người, nên họ rất tôn kính, tranh nhau cúng
dàng. Một hôm các cô ấy bàn nhau như vầy: - Chúng ta tuy được xuất gia, mang danh là Tỳ
kheo Ni, song đối với Phật Pháp chưa hiểu biết gì; chưa được uống Pháp
Dược, để tiêu những tập chướng Dâm, Nộ, Si từ đời vô thủy. Bây giờ phải
đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỳ kheo Ni xin học hỏi, và để bà truyền pháp Bát
kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thưa rằng: - Kính thưa bà, chúng con không biết có phúc
duyên gì, được hạnh phùng Tam bảo xuất gia tu đạo, làm Tỳ kheo Ni, song
đối với giáo lý cao siêu của đức Phật chưa hiểu biết gì, hôm nay chúng
con cả thảy năm trăm người, đến đây cầu xin bà Từ bi thí Pháp Nhũ, cho
chúng con được ân triêm công đức! Bà Thâu Lan Nan Đà nói: - Các cô sinh trưởng nơi tôn sang, lớn họ dài
giòng, vinh hoa thiếu chi, đương tầm tuổi trẻ, xuất gia học đạo làm gì
cho khổ một đời tươi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về lấy chồng,
hưởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội chi làm Tỳ kheo Ni
ở nơi chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời như đống tro tàn lạnh
lẽo! Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ hoang mang, sa
nước mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo nhau rằng: - Chúng ta muốn thoát khỏi con đường tình ái,
ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà đã không khuyên bảo lũ ta được
gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang hầm miệng sói,
trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu, cầu bà tế độ. Năm trăm cô đến chỗ bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu, cúi
đầu lễ sát đất thưa rằng: - Kính thưa bà, chúng con ở tại tập tục mê muội,
tuy đã đi xuất gia, nhưng tâm ý vẫn còn tham ái, lòng dục vẫn thường
phát khởi như lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà thuyết pháp để
giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con! Bà Tỳ kheo Ni Vi Diệu đáp rằng: - Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, các
cô muốn hỏi gì? - Dạ! Kính thưa bà, đời quá khứ, và đời vị lai,
còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi, xin hỏi bà: Cái tội thắt chặt
của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó hay hay nó dở, có kết
quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi cho tương lai, xin bà
giải thích! - Các cô muốn biết rõ hãy để ý nghe! - Dạ chúng con xin chú ý nghe! - Các cô nên biết! Tất cả trời người, cho đến
vạn vật có hình thức trên vũ trụ này, loài nào cũng do nghiệp ái dục mà
sinh ra; Dâm dục ví một dám lửa cháy dữ dội nó có thể đốt tiêu hủy núi
rừng, cây, cỏ, gỗ, đá cho đến vũ trụ bao la, kẻ mắc phải dâm dục, cũng
như bị giặc vào phá nhà; kẻ đó sẽ đọa xuống tam đồ ác đạo, không có kỳ
hẹn được ra. Những ai luyến gia nghiệp, đó là tham sự sum họp
ân yêu vui vầy! Vì nhân duyên ấy nên sanh già bệnh chết, biệt ly, huyễn
quan xúc não! Đương yêu nhau bị ly biệt, thương tiếc khóc than! Luyến ái
tổn hại đến tâm can ngất đi sống lại, tâm ý trói buộc như lao ngục. Tôi
vốn là một con nhà dòng Phạm Chí, cha tôi là một người được tôn quý nhất
trong nước. Buổi đó ông Trưởng giả dòng Phạm Chí, có người
con trai xinh đẹp trí óc thông minh. Thấy ta xinh đẹp lại dòng quý phái,
nên ông nói với cha mẹ ta, cưới ta về cho con trai ông. Sau khi đã thành
gia thất, vợ chồng ăn ở với nhau được một đứa con trai, đã lâu ngày xa
cha cách mẹ, lòng nhớ mong không tả xiết? Giữa lúc ta đang có mang, sợ
sinh tử vô thường nên ta xin phép chồng về nhà thăm cha mẹ; chồng ta ưng
thuận cho đi. Buổi sáng ấy, hai vợ chồng ẵm con và mang đồ hành lý ra
đi, đi chừng được nữa đường trời vừa sẩm tối, vợ chồng nằm nghỉ dưới gốc
cây to, không may lúc cnh khuya ta đau bụng sinh, huyết chảy ra lênh
láng, các loài rắn độc, thấy mùi tanh tìm lại, cắn chết chồng ta! Đương
lúc ngủ say! Ta gọi mãi không thấy trả lời. Trời vừa tảng sáng, cầm tay
kéo dậy, thấy lạnh buốt ngay đờ như cục gỗ, không còn tri giác, xem kỹ
biết rằng rắn cắn, thương quá! Trời ơi! Khổ chi đến nỗi thế này! Khi đó
hồn phách ta không biết bay đâu? Ngất đi mê mết! Thằng nhỏ ngồi bên vừa
gọi vừa khóc! Dần dần tỉnh dậy. Rồi ta cõng thằng nhỏ trên vai, tay ẵm
đứa con mới nở, vừa đi vừa khóc! Qua quãng đường vắng, tới một con sông
lớn, nước không sâu lắm, không có thuyền qua, ta phải để thằng nhỏ trên
bờ, ẵm đứa bé bơi qua sông, sang tới bờ để đứa bé bên này, lại ngồi sang
đón thằng nhỏ, không may, thằng nhỏ té xuống sông lúc nào mất, ta lại
bơi sang bờ sông bên này, thì đứa bé mới sinh đã bị hổ tha, chỉ thấy
những giọt máu chảy ròng ròng trên mặt đất, ta buồn khổ quá! Chết ngất
đi hồi mới tỉnh lại. Thơ thẩn một mình bước trên đường đi, vừa được vài
dặm, gặp một người bạn thân của cha ta, ông hỏi rằng: - Con đi đâu về? Sao bác coi con nhem nhuốc tiều
tụy như vậy? - Thưa bác! Hôm qua vợ chồng nhà con ẵm cháu về
thăm cha mẹ, đêm qua không may chồng con bị rắn cắn chết, sáng hôm nay
mất hai đứa cháu: Một đứa lăn xuống sông, một đứa bị hổ tha, thực là đau
khổ cho con quá! - Ôi thế ư! Hôm qua nhà con bị phát hỏa, cha mẹ
con, và cả nhà con đều bị chết cháy hết rồi, còn gì đau khổ hơn cho con
nữa! Nghe xong như sét đánh bên tai, ta ngã lăn ra
đất, chết ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại! Hết khóc lại than, thực là một
sự vô cùng thảm khốc! Ông ấy thương ta đau khổ! Đưa ta về nhà nuôi nấng
coi ta như con đẻ. Qua thời gian lâu, ta dần dần nguôi cơn đau khổ,
nơi đó có người con trai, cũng dòng Phạm Chí, thấy ta xinh đẹp, cậy
người mối lái, muốn cùng ta kết bạn trăm năm. Thôi cũng liều nhắm mắt
đưa chân, thử xem cuộc thế xoay vần đến đâu? Ta cùng người ấy kết duyên
với nhau, thấm thoát đã có mang mãn tháng nọ ngày tới kỳ hoa nở, hôm đó
giữa lúc canh khuya, ta đau bụng sanh, thì chồng của ta đi ăn uống nhậu
nhẹt, hay cờ bạc ở đâu về, gõ cửa gọi, giữa giờ phút sanh cháu nhỏ, nên
không ra mở cửa được, anh chàng tức giận phá cửa vào, đánh đập liên hồi,
ta kêu van và nói: - Thưa anh, em đương đau bụnh sanh, chứ không
phải lười hay khinh mà không ra mở cửa cho anh! Kẻ vũ phu nổi giận giết
tươi đứa con của ta mới sanh, rồi bắt ta phải ăn sống đứa con ấy. Ta
không chịu ăn, vì đánh đau quá! Nên ta nhắm mắt ăn liều, ăn xong tự hối
hận trong lòng: "Đời mình bạc phúc, gặp kẻ bất nhân". Sáng ngày hôm sau,
bỏ nhà ấy đi đến nước Ba La Nại, ngồi ở ngoài thành, con trai ông Trưởng
giả tại đây mới chết vợ, hàng ngày ra viếng mộ ở ngoài thành, thấy ta
anh hỏi: - Cô ở đâu tới, tại sao ngồi một mình ở đây? Khi đó ta nói thật những chuyện như trên cho anh
nghe, anh bảo ta rằng: - Cô cùng tôi vào nơi quán uống nước! Khi ngồi chơi uống nước chuyện trò vui vẻ, anh
hỏi: - Bây giờ có người muốn kết duyên cùng cô, vậy
cô có đồng ý không? - Thưa anh, em thấy ngán lắm! Vui không được bao
nhiêu, mà sự khổ đưa lại dồn dập, kẻ hiền lương không gặp, gặp kẻ bất
nhân, lại gây thêm phần đau khổ. - Đời ở một mình sao? - Em không ở một mình, nhưng nếu gặp hiền nhân,
có đạo đức có học vấn. - Thôi cô ơi! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật,
chính tôi con trai ông Trưởng giả thành này vừa mới chết vợ, thấy cô là
người hiền đức, muốn làm bạn trăm năm cô nghĩ sao? Ta thấy có vẻ tướng hiền hòa, lại dòng quý phái,
nên đồng ý kết duyên cùng anh. Nhưng cũng không may cho ta, vợ chồng ăn
ở với nhau chưa được ba năm, anh mắc bệnh chết. Luật ấy, "nếu vợ chết thì chồng được phép lấy vợ
khác, nhưng nếu chồng chết thì chôn theo cả vợ". Như thế, ta cũng bị
chôn luôn với chồng một huyệt! Nhưng ta chưa chết hẳn, tối hôm đó tụi
cướp đến đào mả để lấy những trang vật vàng bạc của ta, anh tướng cướp
thấy ta xinh đẹp bắt về làm vợ, anh giặc này chưa được bao ngày, bị họ
bắt được chém mất đầu, bọn bộ hạ của anh cướp lấy xác mang về bắt ta đem
chôn sống cùng anh giặc một thể. Vừa được ba ngày có con hổ bới mả định
ăn thịt, trời tang tảng sáng chúng thấy người đi chợ đông, bỏ chạy, nhân
thế ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng: - Chẳng biết kiếp trước ta làm tội gì, mà nay
gặp nhiều tai nạn như vậy? Chết đi sống lại mấy lần, làm thân nữ nhi
thực là tội nghiệp. Xét rằng: Muôn vàn các bạn gái khác, chồng con cũng
chẳng qua dưới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si, không biết nhận
thức một hạnh trong sáng thanh cao, bước lên on đường chân chính, tìm
hiểu chân lý, tu hành cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng chỉ vì nghiệp
tham ái vô minh che tối, khi mới biết nhận thức con người, đã ngăm ngăm
trong đáy lòng toan tính những đường duyên nợ, chịu chết nơi sào huyệt
của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả sinh tử luân hồi,
ta sực nhớ rằng: Trước đây có người họ Thích xuất gia tu đạo, nay đã
thành Phật, vậy đến đó để nương thân cho thoát khổ. Đứng dậy bước đi, dạ
đói thân đau, đường xa nhiều hiểm trở, vừa đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng
Kỳ Hoàn trời vừa sẩm tối, xa xa nhìn thấy đức Như Lai sáng rực như quả
núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ Từ bi, thật là một đấng siêu phàm
thoát tục, tế độ nhân thiên, sung sướng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành
kính hướng về Ngài, tha thiết ân cần cầu tế độ. Ngài đến tận nơi, khi đó
hình thể ta lõa lồ ngồi dưới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật sai
Ngài A Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trước đức Thế Tôn cúi đầu lễ dưới
chân, và trình bày những nỗi thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo. Ngài sai ông A Nan đem ta giao cho bà Đại Ái Đạo
dạy bảo, theo lời dạy bà thọ giới Tỳ kheo, rồi bảo ta pháp "Tứ Đế" là
Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Vô Thường, Vô Ngã. Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã chúng được
đạo quả, hiểu biết đời quá khứ, và đời vị lai, coi thấy những tội ta đã
tạo từ đời quá khứ, nên phải chịu ác báo không sai một tí nào! - Kính thưa bà, đời quá khứ bà phạm tội gì, đời
này bị quả báo như vậy? Xin bà nói cho chúng con được rõ? - Muốn biết các cô hãy để ý nghe! - Dạ, chúng con xin chú ý nghe! - Đời ấy cách đây đã quá lâu, thuở đó có ông
Trưởng giả nhà giàu, nhưng không có con, sau ông lấy một người vợ lẽ; vì
có sắc đẹp nên ông mến lắm! Hai người với tình yêu khắng khít, chẳng bao
lâu sinh được đứa con trai; từ đó ông lại càng đằm thắm hơn xưa, thấy
thế người vợ cả thầm nghĩ như vầy: - Công ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp nên được
giàu có, sau này đứa con của vợ lẽ nó hưởng tất, thật là luống công vô
ích cho ta, chi bằng ta giết quách nó đi là xong! Định kế như vậy rồi lấy một cái kim dài, chờ lúc
vắng người, cấm ngập vào giữa đỉnh đầu đứa bé. Cách ít ngày đứa trẻ ấy
chết, vợ nhỏ thương con khóc suốt ngày đêm không ngớt tiếng! Rồi tự nghĩ
rằng: - Con ta không ốm không đau, tự nhiên mà chết,
chắc rằng chị cả giết nó đây! - Hỏi: - Con tôi có tội gì, mà chị nỡ giết nó? Vợ lớn đáp: - Ô hay! Cô nói quàng nói điên như
vậy? Tôi thề rằng nếu tôi giết con cô, thì đời đời chồng tôi bị rắn cắn
chết, có con thì bị nước ngập hổ tha, lang bắt, còn thân tôi sẽ bị chôn
sống, và tôi tự ăn thịt con tôi, cha mẹ và cả nhà tôi sẽ vị chết cháy
trong đống lửa. Các cô nên biết người vợ lớn của ông Trưởng giả thuở đó
chính là tiền thân của ta; vì ta không biết tin tội phúc báo ứng, ác tâm
giết đứa con trai của người vợ bé ngày đó, rồi lại tự thề như vậy, cho
nên kiếp này chịu lấy quả báo đau khổ, cũng đúng như lời thề ngày xưa
không khác. - Kính thưa bà! Bà tu công đức gì, kiếp này được
gặp Phật và đắc đạo giải thoát, xin bà nói cho chúng con được biết? - Các cô để ý nghe: Đời quá khứ đã xa xưa, ở
nước Ba La Nại có một quả núi lớn gọi là Tiên Sơn, trong núi có nhiều
những vị Bích Chi Phật, Thanh văn và ngoại đạo thần tiên. Khi đó có vị
Duyên giác vào thành khất thực bà Trưởng giả thành ấy hoan hỷ cúng dàng,
Ngài dùng cơm xong bay lên hư không hiện ra các phép thần biến. Thấy thế
bà Trưởng giả chắp tay cung kính, hướng lên Ngài mà khấn rằng: - Kính lạy Đại đức Tôn giả! Xin cho con đời sau
cũng được đắc đạo như Ngài! - Các cô nên biết: Bà Trưởng giả ngày đó, chính
là tiền thân của ta, vì sự thành kính cúng dàng vị Thánh Tăng, và phát
nguyện nên đời nay được gặp Phật, đắc quả La Hán! Thân ta bây giờ tuy
đắc quả La Hán nhưng thường thường bị đau nhói một cái từ đầu xuống chân
không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xương! Như thế đó, tội báo mặc
dầu cho lâu kiếp đến đâu cũng không thể xóa nhòa được. Năm trăm Ni Cô nghe bà kể lại lịch kiếp tiền
sinh như vậy, ai nấy trong lòng run sợ, tự quan sát cái căn bản của dâm
dục, cũng như một đám lửa cháy hừng, tâm tham dục mất hẳn. Coi những nỗi
đau khổ của thế gian, khác chi lao ngục, trần cấu tự nhiên tiêu hết, tâm
ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo mầu. Bình tĩnh thâm tâm, nhập định Diệt Tận,
thành ngôi La Hán, khi xuất định thưa với bà Vi Diệu rằng: - Thưa bà, chúng con bị triền miên với lòng dâm
dục không gỡ nổi, hôm nay nhờ ơn bà đã được giải thoát. Phật khen bà Vi Diệu rằng: - Quý hóa, bà Vi Diệu thuyết pháp lợi mình lợi
người, chính là đệ tử của Tam thế chư Phật! Các cô, và đại chúng dự thính ai nấy đều hoan hỷ
tạ lễ mà lui. 33/ Phẩm thứ ba mươi ba LÊ KỲ DI Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá
Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua
Ba Tư Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ Di, nhà giàu, sinh được bảy
người con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu thứ bảy chưa
có vợ, ông tự nghĩ: Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập
gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng, và con người xinh đẹp. Một hôm có người bạn thân dòng Phạm Chí đến
chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông nói: - Thưa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy
vợ cho nó, nhưng chưa tìm được nơi đâu xứng đáng. Bác từ trước đến nay
đi du lịch các nước đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con nhà tử tế, có
nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một người! - Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp
được. Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nước
Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ đi hái hoa. Ông theo sau để quan
sát, tới một suối nước chảy cô nào cô ấy đều tụt giày dép lội qua, duy
có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia
đều vén quần lội qua, nhưng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo,
khi đi tới rừng cây, các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô
này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin được rất nhiều, ông tới trước
hỏi cô kia rằng: - Thưa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có được
không? - Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao! - Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép
lội qua riêng cô không tụt là có ý gì? - Thưa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho
cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh sành, và các vật có thể làm hại
chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dưới nước làm sao
trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt! Ông hỏi tiếp: - Qua sông, các cô kia đều vén
quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi? - Thưa ông người con gái, phải có sự kín đáo
nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt bàng quang, và tự thẹn cho mình
nên tôi không vén! Ông hỏi tiếp: - Các cô kia đều trèo cây, tại sao
cô không trèo? - Thưa ông leo cây sợ cành gãy, làm nguy hai cho
mình, vì thế nên tôi không trèo? Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào! - Thưa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua
Ba Tư Nặc tên là Đàm Ma La Tiện. Phạm tội trốn sang nước này, làm bạn
với ba tôi sinh ra tôi. - Cha mẹ cô bình sinh cả chứ? - Dạ, thưa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh
cả! - Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có được không? - Dạ, thưa ông được! - Cô đưa ông về tới nhà, rồi vào thưa với cha
rằng: - Thưa cha, có người Bà la môn muốn vào thăm
cha! Ba cô bước ra nhà khách, hai người gặp nhau,
chuyện trò vui vẻ! Ông Bà la môn thưa rằng: - Thưa ông, cô gái này là con ông phải không? - Dạ, thưa phải cháu ngoan lắm! - Ông đã lập gia đình cho cháu chưa? - Dạ, chưa có, cháu còn đi học! - Thưa ông, nước Xá Vệ có quan Đại thần là Lê Kỳ
Di ông có quen không à? - Dạ, chính tôi quen ông ấy đã lâu. - Thưa ông, cậu con trai út của ông Lê Kỳ Di,
người thông minh lắm muốn để xin cô gái của ông cho cậu ấy, có được
không ạ? - Dạ, được lắm, tôi rất bằng lòng, là vì ông ấy
với tôi là bạn thân, hơn nữa nhà ông ấy là dòng quý phái, đôi bên đều
xứng đôi cả. - Dạ, xin ông tôi cáo lui. Ông định về báo tin cho ông Lê Kỳ Di nhưng lại
gặp một người bạn thân về nước Xá Vệ, ông biên thơ gửi cho ông Lê Kỳ Di. Được thơ rồi, ông Lê Kỳ Di sắm sửa lễ vật, và
tiền bạc lên xe sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, đến nơi ông sai người vào hỏi
han các công việc trước. Ông Đàm Ma La Tiện tiếp đãi rất trịnh trọng. Lê
Kỳ Di tới sau, chủ khách tương kiến hai họ vui vẻ! Hỏi han trao đổi ý
kiến, thỏa thuận cuộc hôn thú của hai nhà, công việc đã xong, họ trai
đưa cô dâu về nước Xá Vệ. Khi bước ra đi bà mẹ dặn cô rằng: - Con về nhà chồng luôn phải mặc áo mới đẹp, ăn
uống cho ngon lành, ngày nào cũng phải soi gương, chớ quên lời mẹ dặn! - Dạ, lạy mẹ con xin vâng lời mẹ dặn không dám
trái. Ông Lê Kỳ Di nghe thấy bà dâu gia dặn con gái
như vậy, tự hận để tâm và thầm nghĩ rằng: - Nhân sinh nhất thế, khổ, vui, áo mặc, miếng ăn
ngon đâu có nhất định, ngày nào cũng soi gương, thực là cả một sự vô lý. Sau khi hai họ Từ biệt bước lên đường, cô dâu
cùng chàng rể, ngựa võng nghênh ngang, người đông như hội, pháo nổ vang
trời, cũng hình như một đám rước thần. Nửa đường tới một nhà hàng có
hiên mát mẻ, những người đi trước đều vào nhà này nghỉ, cô dâu tới sau
thưa với bố chồng rằng: - Thưa cha! Nhà này không nghỉ được, mau mau
phải ra ngoài nghỉ! Ông cũng phải theo ý cô ra nghỉ một nơi khác,
cũng có số người không chịu đi, một lát có đàn voi tới, cọ vào cột làm
đổ nhà đè chết mấy người. Ông Lê Kỳ Di thầm nghĩ rằng: - Mình thoát chết là nhờ con dâu! Rồi lại bắt đầu đi, tới một bờ khe suối, mọi
người dừng chân đứng nghỉ. Cô đến sau nói rằng: - Nghỉ ở đây không hay, phải lên ngàn cao kia
mới được! Khi đó mọi người đều phải theo lời cô, lên tới
ngàn cao, chỉ trong chốc lát mây kéo đen, sấm sét vang dội, mưa như trút
nước xuống, chảy tràn ngập cả bờ khe suối ấy, ông Lê Kỳ Di tự niệm rằng: - Ta thoát chết hai lần là do con dâu cứu sống! Lại bắt đầu đi, lúc về tới nhà, họ hàng thân
quen kẻ xa người gần, tấp nập đến chào mừng. Hôm đó ông Lê Kỳ Di thiết đãi họ hàng ăn uống
rất linh đình vui vẻ! Cuộc nghinh hôn tới đây đã xong. Một hôm ông Lê Kỳ Di họp gia đình lại nói rằng: - Các con, bây giờ cha đã già yếu, việc gia đình
cha không thể kham nổi, tất cả cơ nghiệp tài sản này, kho tàng chìa
khóa, con nào đảm đang nổi, cha sẽ giao phó cho? Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô Tỳ Xá
Ly thứ bảy, đứng lên thưa rằng: - Thưa cha các chị con không ai dám nhận, vậy
con xin nhận để đỡ cha! Ông Lê Kỳ Di vui vẻ giao phó cho cô tất cả công
việc trong gia đình. Từ đó cô chăm chỉ thức khuya dậy sớm, bảo ban Thầy
tớ các công việc rất chu đáo, tới bữa dâng cơm cha mẹ ăn trước, sau đến
các anh các chị cháu trai cháu gái, rồi đến các gia nhân, phân phó công
việc được ổn thỏa, rồi cô mới đi ăn cơm, thường thường cứ như thế. Ông thấy cô là một người trung kiên cẩn thận,
khác hẳn những người thường, và quái sao? Không thấy cô theo lời mẹ dặn
lúc bước ra đi. Ông hỏi: - Trước khi con về làm dâu, mẹ con có
dặn: Phải mặc áo mới đẹp, ăn thức ăn ngon lành, và ngày nào cũng soi
gương, thế sao con không theo lời của mẹ con đã dặn? Cô quỳ xuống thưa rằng: - Thưa cha! Mẹ con dặn mặc áo mới đẹp nghĩa là:
Áo mặc bao giờ cũng phải cho sạch sẽ, lúc khách tới nhà quan chiêm cho
khỏi thô con mắt. Dặn con ăn thức ăn ngon lành là Không phải ăn những
thứ thịt ngon béo, ý mẹ con dặn bao giờ cũng phải ăn sau, lúc đói gặp
thứ ngon cũng tốt cả. Còn soi gương, là không phải gương bằng đồng bằng
kính, ý nói phải dậy sớm bao phất trong nhà những giường ghế cho sạch sẽ
cẩn thận, chăn chiếu mền mùng cho gọn gàng. Mẹ con dặn là ý như vậy! - Ừ, hay lắm! Mẹ con là người có đức lớn, cha
cũng phải kính phục. Ông mừng thầm con dâu có tài, có đức, tinh thần
minh mẫn, biệt đãi hơn trước, từ đó công việc trong gia đình ông cứ thản
nhiên, không phải nghĩ tới. Một hôm nhà vua cùng triều thần văn võ bá quan,
đương ngồi trên bảo điện để bàn việc nước, tự nhiên thấy những chùm lúa
tám cánh rơi xuống sân rồng, họ nhìn lên trời thấy một đàn chim nhạn bay
qua, thấy thứ lúa quý, nhà vua giao cho mỗi ông quan một ít về trồng. Ông Lê Kỳ Di đem về giao cho cô Tỳ Xá Ly là con
dâu thứ bảy, dặn rằng: - Lúa này nhà vua giao cho đem về trồng, con hộ
cha việc đó. Sau một thời gian Vương Phu nhân mắc bệnh, các
Thầy lang chẩn mạch xong tâu với vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, bệnh của Phu nhân, phải dùng thứ
lúa tám cánh ở bãi biển thì khỏi! Nhà vua triệu các quan vào nói rằng: - Trước đây tôi có giao cho các ông thứ lúa tám
cánh, đem về trồng, nay lúa đã chín chưa? Các ông kia tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Vì không hợp
thủy thổ, lúa có lên, nhưng không kết quả. Ông Lê Kỳ Di về nhà hỏi con
dâu rằng: - Con trồng lúa tám cánh có tốt không? Nhiều hột
không? Nhà vua đương cần làm thuốc cho Hoàng hậu! - Thưa cha mùa này con trồng được nhiều lúa tốt
lắm, nếu dùng làm thuốc thì cấp cho toàn quốc cũng đủ! - Con đem cho cha một ít vào dâng vua? - Dạ, để con cho người xay giã cẩn thận đã. Hôm sau ông đem gạo tám cánh vào dâng vua rồi
tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ, tuân theo thánh chỉ, hạ thần trồng
được rất nhiều, nay xin dâng Hoàng thượng một mớ gạo tám cánh đã làm cẩn
thận! - Tốt lắm, Khanh khéo tay trồng cấy! Vua sai người đem gạo ấy nấu cơm. Hoàng hậu ăn xong thì khỏi bệnh. Thời đó nước Đặc Xoa Thị Lợi với nước Xá Vệ có
sự xích mích về việc thương mãi, nên thường hay xảy ra cuộc xung đột
giữa hai nước. Tuy thế nhưng vua nước Đặc Xoa Thị Lợi vẫn còn e
dè, sợ nước Xá Vệ có nhiều nhân tài, nên nhà vua lập thế để thử xem có
hay không thì biết. Lần đầu sai người mang sang nước Xá Vệ hai con
ngựa cái, để xem có thể phân biệt được con nào là mẹ: con nào là con? Vì
hai con đều lớn bằng nhau. Khi đó tất cả vua quan triều thần văn võ bá quan
đều không thể phân biệt nổi, đâu là mẹ, đâu là con. Ông Lê Kỳ Di về nhà có vẻ buồn! Cô dâu hỏi: - Thưa cha, hôm nay cha vào triều có
chuyện chi? Thấy cha không vui! - Con ơi! Nước Đặc Xoa Thị Lợi, cử người mang
sang hai con ngựa cái, để xem con nào là mẹ, con nào là con, tất cả
triều thần văn võ bá quan đều không ai biết, nếu không giảng nổi, họ sẽ
đem quân sang đánh, vì thế nên cha buồn! - Thưa cha việc ấy không khó! Chỉ lấy một bó cỏ
ngon, cho ăn, nếu thấy con nào ăn thong thả và nhường, là mẹ, con nào ăn
dành và hốp tốp là con. Cha nghe có lý, vào tâu vua như lời cô nói. Nhà
vua sai người lấy cỏ cho ngựa ăn thử, quả thấy như lời cô nói là đúng.
Nhà vua kêu sứ thần đến chỉ vào con ngựa ăn chậm là mẹ, con ăn hốp tốp
là con, Sứ thần chịu nhận là phải. Sau khi sứ ra về, nhà vua rất mừng!
Phong thưởng tước lộc cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều. Sứ thần về tới nước nhà tâu vua đúng sự thật như
trên. Nhà vua lại mang sang hai con rắn, dài bằng nhau, lớn bằng nhau,
đố biết con nào đực, con nào cái. Tuân lệnh lần thứ hai, Sứ thần mang rắn sang hỏi
vua Ba Tư Nặc, lần này từ vua đến quan tịt mít, không ai giải đáp nổi. Ông Lê Kỳ Di về nhà nói với con dâu rằng: - Con ơi: Hôm nay nước Đạc Xoa Thị Lợi, mang
sang hai con rắn hỏi con nào đực, con nào cái, tất cả vua quan trong
triều không ai đoán quyết nổi, vậy con có cách gì biết, nói cho cha rõ? - Thưa cha, việc ấy cũng không khó! Chỉ lấy một
thước lụa rất nhẵn, mềm, nhũn trải trên một cái nong, bỏ nó vào rồi nhìn
xem: con nào nằm im, con hay chạy thì biết: vì con cái thuộc âm tính,
thấy mát êm bụng, lòng dục phát động, nên nó nằm im; con đực thuộc dương
tính (nóng động tính) thấy người thì sợ muốn tìm lối tẩu thoát nên chạy
lung tung. Ông nghe có lý, vào tâu vua như lời nói trên.
Vua sai người lấy lụa làm đúng, quả nhiên thấy rõ sự thực. Một diệu kế này biết đúng, nên nhà vua sai người
gọi Sứ đến bảo cho biết. Sứ thần phải phục cái tài của nhà vua nhận xét
đúng sự thật. Sau khi Sứ thần ra về, nhà vua rất hài lòng và
thưởng cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều vàng bạc. Sứ thần về tâu vua Đặc Xoa Thị Lợi sự nhận xét
đúng của vua Ba Tư Nặc, nhà vua vẫn còn chưa tin hẳn, nên lại bắt sứ
thần mang sang cây gỗ dài một trượng, gốc ngọn bằng nhau nhẵn trơn không
có dấu, vết, đố biết gốc ngọn? Sứ thần tuân mạng mang sang nước Xá Vệ, lần này
cũng không ai biết. Ông Lê Kỳ Di lại về hỏi con dâu: - Con ơi! Lần này nước Đặc Xoa Thị Lợi mang sang
một cây gỗ nhẵn trơn không có mấu vết, đố biết gốc ngọn, trong triều
không ai quyết đoán nổi, vậy con có cách gì biết được nói cho cha hay? - Thưa cha, việc ấy càng không khó, chỉ đem bỏ
xuống sông thì biết: đầu nào chìm là gốc; đầu nào nổi là ngọn; vì gốc
bao giờ cũng nặng, nên chìm; ngọn bao giờ cũng nhẹ, nên nổi. Ông Lê Kỳ Di tâu vua như lời nói trên, vua sai
đem ra sông bỏ, quả nhiên một đầu chìm, và một đầu nổi, vua gọi Sứ ra
nói rằng: - Sứ thần ông nên biết: đầu chìm kia là gốc, đầu
nổi là ngọn. Sứ thần nói: - Dạ Tâu Bệ Hạ, đúng như lời Ngài
nói, hạ thần xin chịu! Sứ thần về bản quốc tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Lần này vâng lệnh Bệ Hạ đưa gỗ
sang, họ đều nói đúng cả, như vậy biết rằng nước Xá Vệ có rất nhiều nhân
tài, theo như hạ thần nhận thấy. Nhà vua nghe nói cũng phải cảm phục, và thôi
việc gây chiến với nước Xá Vệ. Muốn để hai nước có tình thân mật, nên
nhà vua nước Đặc Xoa Thị Lợi sai người mang vàng bạc và các của quý sang
biếu vua Ba Tư Nặc rồi gởi lời nói: - Chúng tôi đáng khen ngợi trong nước của nhà
vua, lắm hiền tài vậy từ nay nên gắng công tu nghĩa hiếu, và dạy dân
theo chánh giáo. Khi đó vua Ba Tư Nặc triệu ông Lê Kỳ Di vào cung
hỏi rằng: - Các việc giải đáp vừa qua, tại sao Khanh biết? - Tâu Bệ Hạ! Đó là con dâu của hạ thần, chứ tiểu
thần đâu có trí tuệ siêu nhân, hơn các hàng nam tử văn khoa nhà vua nghe
nói rất quý kính, rồi tặng cho có chức "Đệ tam muội". Qua một thời gian nữa, cô Tỳ Xá Ly đẻ được ba
mươi quả trứng, bửa ra được ba mươi cậu con trai, cậu thứ nhất, đoan
nghiêm đặc sắc, sau lớn tuổi, sức lực hùng mạnh vô song, có thể đánh nổi
ngàn người, cha mẹ rất yêu quý! Trong nước ai cũng kính nể. Sau cưới vợ
cho các cậu, nguyên những con gái các nhà hòa hiền trong nước. Bà Tỳ Xá Ly vốn là người tín sùng ngôi Tam bảo,
thường hay đi nghe Phật thuyết pháp. Hôm ấy bà thỉnh Phật và chư Sư về
cúng trai. Khi Phật dùng cơm xong thăng tòa thuyết pháp, cả nhà người
lớn người nhỏ đều đắc quả Tu đà hoàn, duy có cậu con út của bà, sự hiểu
biết kém, nên không đắc đạo quả gì. Cậu hãy còn có tính hung hăng, ngày
ngày cỡi voi trắng đi chơi, hôm đó đi qua một cái cầu gỗ lớn, giữa cầu
con trai quan Phụ Tướng ngồi trên xe, hai cậu tranh nhau: cậu nào cũng
cậy ta là con nhà quan lớn, không chịu tránh. Cậu con bà Tỳ Xá Ly nổi
giận, trên mình voi nhảy xuống, đẩy đổ xe và con quan con Phụ Tướng
xuống hào lầy, thấy trược cả thân thể, máu me chảy đầm đìa trở dậy vừa
đi vừa khóc, về nhà thưa với cha rằng: - Thưa cha, con út của bà Tỳ Xá Ly vô cớ đẩy xe
và con xuống hào; làm con bị đau đớn như thế này! Quan Phụ Tướng thấy con đau quá nổi giận nói: - Nó sức lực khỏe mạnh, hơn nữa lại thân với nhà
vua, thôi con đừng khóc nữa, để cha trả thù cho! Ông quan Phụ Tướng này mượn người làm ba mươi
hai cái roi ngựa bằng Thất bảo, trong ruột roi, cắm một con dao nhọn,
rồi ông mang đi tặng cho con trai bà Tỳ Xá Ly mỗi cậu một cái. Các cậu này còn ít tuổi, tính khí nông nổi, được
roi vui mừng thường mang roi đi chơi, vô tâm, không hiểu cái thâm ý của
quan Phụ Tướng. Luật nước cấm ngặt khi vào nhà vua không được
đeo dao, nếu ai trái lệnh sẽ bị tội tử hình. Những con bà Tỳ Xá Ly ra vào nhà vua, là chuyện
thường, không ai được cấm đoán, vì nhà vua rất yêu đãi đối với bà Tỳ Xá
Ly. Hôm đó quan Phụ Tướng vào tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, ba mươi hai con bà Tỳ Xá Ly, khỏe
mạnh lắm, một người có thể địch được ngàn người, chúng đương mưu kế để
hại nhà vua! Nhà vua nghe ông nói, nhưng cũng chưa lấy gì làm
tin; ông lại thưa rằng: - Tâu Bệ Hạ, việc này hạ thần quan sát có sự
thật, và có bằng chứng lắm! Vì hạ thần thấy mỗi cậu có một cái roi;
trong roi đều có một con dao nhọn ở trong ruột! Nhà vua liền sai người lấy roi xem, quả nhiên
thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ như thế, nhà vua sai các lực sĩ,
gọi ba mươi cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm không cho ai
biết, chặt đầu ba mươi cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang lại
cho bà Tỳ Xá Ly. Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chư Sư
về nhà cúng trai, trong nhà đương nhộn nhịp; kẻ bưng cơm người rót nước
tấp nập, bà thấy người nhà vua khiêng một cái hòm đến, tự mừng thầm và
nói rằng: - Hôm nay có lẽ nhà vua cho người mang các món
ăn tốt đến giúp ta cúng dàng hẳn! Bà sai người mở xem. Phật nói: - Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi
sẽ mở! Khi thụ trai xong, đức Phật gọi bà lên ngồi một
bên Ngài nói rằng: - Thân này vô thường, nó chịu đựng những sự đau
khổ! Rồi lại thành không, chính là không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy
hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập được bao lâu; nó trói buộc bằng
mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly! Thương
luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho
đạo, ta nói đây, chỉ riêng những người có trí tuệ, mới nhận thức được
pháp thiết yếu này. Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng được
quả A na hàm, vui mừng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn, con xin bốn đều như sau: Con xin cúng dàng các vị Tỳ kheo bệnh, và các
món ăn tùy theo bệnh. Con xin cúng dàng các vị khán bệnh. Các vị Tỳ kheo ở xa tới con xin cúng dàng trước. Các vị Tỳ kheo đi xa con xin cúng dàng lương
thực. Lạy Đức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có
thuốc tốt và món ăn ngon lành nên bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc
nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải trông nom bệnh nhân,
nên không đi khất thực được, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi xa
mới tới, chưa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân
làm thương tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng
trước. Các vị đi xa phải có bè bạn, nếu không có lương thực đem theo
hoặc đi không kịp, đường sá nguy hiểm, nhiều độc thú, đi một mình, sợ
mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lương thực. Đức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài
khen rằng: - Quý hóa có tâm như thế công đức rất lớn, như
thế cũng khác chi cúng Phật! Nói xong đức Phật và chư sư trở về rừng Kỳ Hoàn. Sau khi đức Phật đã về, bà sai người mở hòm xem
nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba mươi hai cái đầu lâu người, chính
là con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thường, và đắc quả A na
hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than gì
mà chỉ nghĩ thoáng câu: - Đau khổ thay! Thương xót thay có sinh tất có
tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến như thế! Bấy giờ ba mươi hai nhà vợ, nghe biết con rể
chết về tay nhà vua, họ nói rằng: - Nhà vua vô cớ giết oan người lương thiện! Lòng thương con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ
đem quân đến vây kinh thành nhà vua để báo thù. Vua Ba Tư Nặc chạy sang với Phật, họ đuổi theo,
sang vây rừng Kỳ Hoàn. Khi đó tôi (A Nan) ra mời họ vào để hỏi nguyên ủy
là câu chuyện gì. Ba mươi hai ông bố vợ của con bà Tỳ Xá Ly vào lễ
Phật xong lui về một bên, tôi quỳ thẳng bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ba mươi hai người con
của bà Tỳ Xá Ly, đời quá khứ có tạo ác gì với nhà vua không? Mà nay bị
ông giết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ? Phật dạy: - Truyện oan trái tiền khiên này, về
đời quá khứ, cách đây đã lâu lắm. Thuở bấy giờ có ba mươi hai người chơi
thân với nhau, một hôm đi bắt trộm được một trâu, để ăn uống cùng nhau
cho thỏa chí. Gần đấy có một bà lão nhà nghèo, lại không có con, nên các
anh này đưa trâu để giết nhờ. Bà cũng vui vẻ cho giết, trong nhà bà có
đủ củi đóm, nồi nấu, dao, quạt, cho mượn. Lúc sắp giết, con trâu quỳ
xuống nói rằng: - Xin các anh tha tôi! Nếu các anh giết tôi đời
sau tôi cũng không tha các anh đâu, dầu cho các anh tới ngày được đạo
giải thoát, tôi quyết định trả thù bằng được. Mấy anh thấy trâu nói, nhưng lòng bất nhân không
nghe, xúm nhau lại vật trâu ra giết, mổ, sả, xào xáo, chưng kho, ăn uống
no say. Bà lão hôm đó cũng được bữa no, rồi nói rằng: Nhờ các anh được bữa thịt nên thân, hết thèm
thuồng. A Nan ông nên biết: Con trâu thuở đó, nay là vua
Ba Tư Nặc, các anh ăn trộm trâu, ngày đó, nay là ba mươi hai người con
của bà Tỳ Xá Ly. Bởi quả báo ấy nên trong năm trăm đời thường bị ông
giết lại, cho đến ngày nay không thôi. Bà lão là người giúp đỡ và vui
mừng trong cuộc giết trâu, nên trong năm trăm đời phải làm mẹ những
người này, mà chịu lấy sự thống khổ chua xót ấy! Nghe xong biết rõ câu chuyện oán báo của đôi
bên, tôi lại hỏi Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Những người này có phúc
gì được sinh vào nhà giàu sang và thân thể khỏe mạnh, cúi xin Ngài chỉ
bảo cho? Phật dạy: - A Nan ông nên biết: Đây cũng là một
đời quá khứ, thời đức Phật Ca Diếp, có một bà lão biết tin kính ngôi Tam
bảo, nhà rất giàu một hôm bà lấy các thứ hương hoa với dầu để sơn tháp,
đi nữa đường gặp ba mươi cậu con trai, nhân dịp bà khuyên các cậu ấy
rằng: - Các cậu đi đâu? Đây có một việc phúc đức lắm,
hôm nay tôi đi sơn tháp Phật, nếu các cậu sơn giúp tôi, thì đời được sức
lực khỏe mạnh và đẹp đẽ! - Thế ư cụ? Vâng cụ đã dạy, các cháu xin đi. Sơn
xong các cậu ấy đều thưa rằng: - Thưa cụ! Do cụ khuyên các cháu trồng phúc
lành, xin đem công đức này, nguyện cho cháu sinh nơi nào cũng được tôn
vinh phú quý, và đời đời chúng cháu được làm con cụ; cụ là mẹ chúng
cháu, và được gặp Phật nghe pháp chóng đắc đạo quả! Bà lão nói: - Quý hóa! Các cậu phát nguyện như
thế! Nhờ công đức Tam bảo gia hộ, sau này thế nào chả được như nguyện! A Nan ông nên biết: Bà lão thuở đó nay là bà Tỳ
Xá Ly, ba mươi cậu con trai này đó, nay làm con trai bà. Khi đó những quan quân vây rừng Kỳ Hoàn, nghe
Phật nói xong họ biết rằng đó là do sự oan báo trả nợ của đôi bên, nên
lòng căm giận của họ tự nhiên tiêu mất, rồi tự đến trước vua Ba Tư Nặc
tạ lỗi. Tới đây đức Thế Tôn, nhân vì bốn chúng đệ tử,
nói rộng các thiện nghiệp nên tu, ác nghiệp nên bỏ, và giảng giải rõ
ràng pháp Tứ Diệu Đế. Đức Phật thuyết xong, tất cả mọi người ai nấy
đều vui mừng, tạ lễ lui ra. 34/ Phẩm thứ ba mươi tư THIẾT ĐẦU LA
KIỆN NINH Chính tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước
La Duyệt Kỳ, tại vườn Trúc. Khi đó tôi mặc áo chỉnh tề, tới trước quỳ
thẳng chắp tay bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Nhóm ông Kiều Trần Như
đời trước có nhân gì tốt với Ngài, trống Pháp bắt đầu kêu, bọn ông được
nghe trước, nước Cam Lồ được uống trước, cúi xin nói rõ cho chúng con và
chúng sinh đời sau được biết nguyên do? Phật dạy: - A Nan ông nên biết: năm người này,
đời xưa ăn thịt của ta trước tiên, nên được lành mạnh, qua lúc đói khổ,
vì nhân duyên ấy, nên đời nay được nghe pháp của ta trước, và được giải
thoát đầu tiên! Tôi lại thưa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trước bọn
ông ấy ăn thịt Ngài, công chuyện đó tại nhân duyên sao? Cúi xin Ngài dạy
bảo cho chúng con được biết? Phật dạy: A Nan ông nên biết: Từ khi đó tới nay
đã lâu lắm, có tới vô lượng vô kiếp A tăng kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề
này, có một ông vua nước lớn, tên là Thiết Đầu La Kiện Ninh, thống trị
tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, hai
muôn Phu nhân thể nữ. Nhà vua rất có Từ bi, luôn luôn thương dân chăm
làm những việc lợi ích cho quốc gia xã hội, ít có sự lợi ích cho riêng
mình, gia đình mình, nên họ yêu quí ông như một người cha lành. Thời ấy gặp hỏa tinh xuất hiện, các nhà thiên
văn học tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Điềm bỏa tinh xuất hiện là triệu
chứng đại hạn, có lẽ kéo dài mười hai năm. Vậy Bệ Hạ nên làm thế nào cho
dân tránh khỏi sự chết đói? Nghe lời các nhà thiên văn nói thế, nhà vua lo
buồn quá! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm quên ngủ! Như thế thì nhân dân sống
sao? Quốc gia sẽ bị điêu đứng. Liền triệu tập tất cả văn võ bá quan để cứu xét
về việc này: - Bây giờ các ông tính sao? Có cách gì làm mưa
được, hay có biện pháp gì cho dân qua lúc hạn hán này mà sống được. Các quan tâu vua rằng: - Tâu Bệ Hạ! Bây giờ thông cáo cho các nước tính
số dân hiện có bao nhiêu, và tính xem trong mười hai năm mỗi người ăn
hết bao nhiêu? Xong cuộc hội nghị này, theo sắc lệnh tính nhân
khẩu và thóc biết rằng mỗi người dân, chỉ được một thăng gạo. Vì thế nên
bị chết đói rất nhiều. Nhà vua thương dân ngày đêm không ngớt nước mắt!
Riêng mình được an vui! Nhìn thấy nhân dân đau khổ, không nỡ lòng như
vậy. Nhân lúc Phu nhân thể nữ, Thái tử đi du ngoạn nơi viên quán, nhà
vua cúi đầu lễ bốn phương khấn rằng: - Kính lạy thập phương tam thế chư Phật! Hiện
nay nhân dân bị chết đói rất nhiều, con xin bỏ thân này, nguyện làm một
con cá lớn, để cung cấp thịt cho dân ăn qua lúc đói khát! Khấn xong trèo lên cây đâm đầu xuống đất mà
chết! Thần thức của ông hóa làm con cá lớn, mình dài năm trăm do tuần. Khi đó có năm người thợ mộc, vác búa ra bờ sông
đốn củi. Con cá nhìn thấy bảo họ rằng: - Lũ các ông có đói thì lấy thịt tôi mà ăn, ăn
no và cho đem về, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ lấy pháp thực cứu thoát
cho bọn các ông trước, và gọi nhân dân ra lấy thịt của tôi về mà ăn. Nghe cá nói, năm người vui mừng quá! Đương đói,
vác búa ra bổ lấy một tảng lớn đem củi đốt lửa thui ăn; ăn no, lại mang
về, mách bảo mọi người lấy thịt cá. Họ ồ ạt tranh nhau, kẻ vác búa, người cầm dao,
kẻ cầm rổ, người mang thúng ra bổ xả lấy thịt, vì thế nên nhân dân hết
nạn chết đói. Khi lấy hết một nửa mình bên hữu, cá xoay lại mình bên tả,
cho lấy; lấy hết mình bên tả thì mình bên hữu đã mọc đầy thịt! Cứ như
thế hết bên nọ lại chuyển sang bên kia, tất cả nhân dân Châu Diêm Phù Đề
được ăn thịt cá trong mười hai năm. Từ khi họ được ăn thịt cá, nên người
nào cũng có tâm Từ bi, sau khi chết được sinh lên Trời. Nói tới đây Phật nhắc lại rằng: - A Nan, ông nên biết vua Thiết Đầu La Kiền Ninh
thuở đó, chính là tiền thân ta đấy! Năm người thợ mộc được ăn thịt cá
đầu tiên, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người; còn nhân dân lúc đó,
nay là tám vạn chư thiên, và các đệ tử được độ. Lúc đó bọn ông được ăn thịt ta mà sống, vì thế
nay ta bắt đầu thuyết pháp bọn ông được nghe trước, ta chỉ lấy một chút
thịt của pháp thân, để trừ khỏi sự đói khát tam độc của họ ngày đó. Khi đó tôi và tất cả hàng đệ tử nghe Phật nói
xong, ai nấy đều tôn kính lòng Từ bi bố thí của Ngài đã thực hành được,
cúi đầu lễ tạ lui ra. 35/ Phẩm thứ ba mươi lăm A DU CA Chính tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước
Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà. Một buổi sớm ấy đức Phật và tôi vào thành khất
thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp một cái
thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy
Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới
nơi, nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng. Phật cầm lấy giao cho tôi, và dặn tôi mang về
bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về rừng Kỳ Hoàn, tôi đem đất ấy
làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng: - A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công
đức ấy sau khi ta vào Niết bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được làm vua
tên là A Du Ca còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm quan đại thần cai trị
tất cả các nước Châu Diêm Phù Đề; làm hưng long cho ngôi Tam bảo phân
phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng
dàng ta. Tôi vui mừng bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công
đức gì, mà được phúc báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng
con được rõ? - Phật dạy: - A Nan ông muốn biết hãy nghe cho
kỹ ta sẽ nói cho hay! - Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe! - A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xưa, có một ông
vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, thời
đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng đạo
Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc,
giường tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy: - Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên
thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta thường
được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân
dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng
Phật, ban phát cho các nước để cúng dàng cầu phước. Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ
cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức Phật Phất
Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại. Các họa sĩ cứ thế phóng ra được tám vạn bốn ngàn
bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ. Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nước một
bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm nhạc nghinh
thỉnh rước về. Vua quan nhân dân các nước, tuy được bức tranh,
nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không khác. - A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó
chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám vạn bốn
ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng
dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân
thiên, sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai
tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công
đức ấy; và sau khi vào Niết bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp. Tôi và tất cả mọi người nghe Phật nói xong, ai
nấy đều vui vẻ phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra. 36/ Phẩm thứ ba mươi sáu BẢY LỌ VÀNG Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá
Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái tử Kỳ Đà. Khóa an cư năm ấy, đức Phật cho các vị Tỳ kheo
được tùy ý đi các nơi kết tập. Khi hết hạn, các vị đều về thăm Phật và nhận
chịu lời dạy bảo của Ngài. Phật và các vị trong chín tuần xa cách, hôm
nay về nơi Ngài đông đảo Ngài vui vẻ! Với lòng Từ bi cất cánh tay ngàn
vòng xoáy, xoa đầu các vị rồi hỏi: - Các người ở xa, sự an cư có được yên không? Ăn
uống có đầy đủ không? Ít bệnh ít não không? - Dạ, lạy đức Thế Tôn! Nhờ công đức Thế Tôn, năm
nay được an cư yên ổn! Mọi điều kiện đều được đầy đủ. Sự giáo hóa dễ
dàng, chúng sinh vui vẻ! Công đức của Phật như trời cao! Như biển cả!
Khắp nhân gian thiên thượng ai bì kịp, hôm nay thấy Ngài tuy hỏi han các
vị, nhưng có một vẻ khiêm kính, khác mọi lúc, chắc có một thâm ý gì
khác, nên tôi tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế là một
việc rất hiếm có, công đức và trí tuệ, rộng như hư không, lớn như pháp
giới. Hôm nay Ngài hạ ý hỏi han các vị Tỳ kheo một cách khiêm kính.
Không rõ lời nói khiêm kính ấy là gần hay xa, cúi đầu chỉ bảo cho chúng
con được rõ? Phật dạy: - A Nan, muốn biết hãy để ý nghe, tôi
sẽ vì ông mà nói! - Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe! - A Nan, câu chuyện này từ đời quá khứ, đã lâu
lắm, không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên
là Ba La Nại, có một người chăm làm giàu, được đồng nào chỉ mua vàng cất
kỹ, không dám ăn uống may sắm dần dần được một lọ vàng đem chôn, cứ như
thế chăm chỉ làm ăn cực khổ đã lâu năm không dám tiêu xài, và giúp đỡ
cha mẹ anh em, sau được sáu lọ nữa cũng đem chôn giấu hết. Qua thời gian chẳng may bị bệnh chết mất, vì
tiếc vàng nên phải đọa làm thân con rắn độc, ở ngay nhà mình, để coi bảy
lọ vàng. Trải qua lâu năm nhà ấy bị mục nát hư hỏng, con rắn ấy cũng
chết: Bởi linh hồn rắn còn tham tiếc vàng, nên bị đọa làm thân rắn một
lần nữa, chừng vài muôn năm, quanh quẩn coi giữ, trên đống đất chôn
vàng; coi giữ mãi, thấy không có ích gì, sinh lòng chán ghét, thầm nghĩ
như vầy: - Ta vì tham tiếc vàng nên phải chịu thân thể
xấu ác, vậy đem số vàng này cúng dàng, để cầu cho ta đời đời được nhiều
phước tốt lành trên cõi nhân, thiên. Nghĩ xong bò tới bên lề đường lẩn thân trong đám
cỏ, chợt thấy một người đi qua, lớn tiếng gọi: Người ấy nghe tiếng gọi
đứng lại nhìn xung quanh không thấy ai, lại bắt đầu đi, con rắn liền bò
ra giữa đường gọi rằng: - Này bác kia ơi! Bác lại gần đây tôi nhờ bác
việc này! Đáp: - Ngươi độc ác như vậy! Gọi ta làm chi, lại
gần để hại ta hay sao? - Phải, tôi ác như thế này, nếu không lại tôi sẽ
tác hại đấy! Người đó tuy sợ nhưng cũng phải đến gần. Rắn nói: - Nhà tôi có lọ vàng, muốn nhờ bác đem
đi cúng dàng cầu phước, bác có thể hộ tôi được không? Nếu không hộ, tôi
sẽ cắn chết! - Vâng, tôi xin giúp, không sao! Rắn dẫn ông này về đống đất chôn vàng, bảo ông
bới lên một lọ rồi nói rằng: - Bác mang vàng này đến chùa cúng dàng, và lấy
ra một ít, nhờ bác bán lấy tiền, mua gạo và các món ăn, hoa quả làm cơm
chay cúng sư Tăng, định ngày nào cúng thì mang một cái gậy đến đây
khiêng tôi đến chùa! Người ấy mang vàng đến chùa đưa cho ông Tăng Duy
Na, và nói lý do như trên cho ông nghe. Ông Duy Na cười nói: - Rắn độc sao lại biết cúng
dàng như vậy? Muốn cúng tôi sẽ định ngày cho! - Thưa Ngài hôm nào Ngài cho biết trước để sửa
soạn? - Ngày mười rằm tới, là ngày trai, cũng là ngày
sám hối, cúng ngày đó công đức vô lượng! - Dạ, xin phép Ngài tôi về để thu xếp công việc! Tới ngày nói trên, ông mang một cái gậy đến, rắn
thấy ông vui vẻ hỏi han? Rồi quấn mình vào cây gậy phủ cái chăn chiên
lên trên cho người ta khỏi nhìn thấy, đi đường gặp người hỏi: - Ông khiêng cái gì đẹp thế? Ông lặng yên không trả lời, họ lại hỏi: - Ông khiêng gì đẹp thế? Họ hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh không trả
lời. Rằn thấy ông không trả lời, giận quá! Nghĩ như vầy: - Anh này dở quá, người ta trịnh trọng hỏi đến
ba lần, mà không nói, thực là ngu si quá! Nghĩ như thế thì độc tâm lại càng bộc phát, định
nhả độc phun chết ông. Xong lại thầm nghĩ: - Người này vì ta làm phước, ơn đó chưa trả, vậy
ta nên nhẫn đi. Một lát đi tới chỗ đất không đồng vắng, rắn tự
nói rằng: - Bác để tôi xuống đây! Vừa để xuống, rắn mắng rằng: - Con người ta có mồm để nói để ăn, anh có mồm
để làm gì? Mà người ta hỏi đến ba lần không nói? Anh ngu si quá! Ông nghe rắn mắng, nhưng tâm không có giận, tự
hối hận một vẻ khiêm tốn và xin lỗi. Rắn lại dặn rằng: - Từ đây trở đi, anh không được thế nữa, ai hỏi
phải nói đàng hoàng. - Dạ từ nay tôi xin thọ giáo, không dám như
trước nữa! Khi đến chùa để rắn trước giảng đường, vừa đúng
thời trai chư Tăng, ông đứng ở lối kinh hành. Rắn sai ông dâng hương cúng sư Tăng; rắn nhìn
ông dâng hương, bằng cặp mắt thành kính tín ngưỡng, không hề chớp. Khi
Tăng chúng đi nhiễu quanh tháp. Rắn sai ông dâng nước, và giương đôi mắt
cung kính quan sát! Chư Tăng dùng cơm xong thuyết pháp cho nghe như
sau: - Bố thí cúng dàng được phước báu giàu sang,
thân hình khỏe mạnh. Giữ giới được sinh nhân, thiên, hưởng phúc tốt
lành. Thấy Phật và sư Tăng hoan hỷ chiêm bái thì được thân tướng đoan
nghiêm tươi đẹp. Keo sẻn tích trữ, không chịu bố thí, thì đọa làm loài
quỷ đói. Tâm tham độc sân si, bị loài thú ác độc trùng, trăn, rắn. Rắn nghe xong vui vẻ thưa rằng: - Kính thưa Đại đức! Mời Ngài đến chỗ con ở, hãy
còn sáu lọ vàng nữa, xin cúng để cầu giải thoát! Ông Duy Na theo rắn và người hộ vệ cho rắn, đi
lấy hết sáu lọ đem về chùa dâng lên Tam bảo, làm lễ cầu nguyện, hướng
phúc cho rắn, nhân sự cầu nguyện ấy và phước cúng dàng, rắn chết được
lên cõi trời Đao Lợi. Tới đây Phật thuật lại rằng: - A Nan, ông nên biết: Người khiêng rắn ấy há
phải ai đâu; chính là tiền thân của ta đấy! Rắn độc thuở đó; nay là ông
Xá Lợi Phất. Ngày ấy ta bị rắn mắng trách còn tự thẹn hổ, và
sinh lòng khiêm hạ, không những thế, ta đối với tất cả muôn loài, đều
coi bình đẳng, cho đến nay không thoái chuyển. Khi đó tôi và các vị Tỳ kheo, nghe Phật nói
xong, ai nấy đều kính phục, tâm bình đẳng khiêm nhượng của người, một
lòng lễ kính, bái tạ lui ra. 37/ Phẩm thứ ba mươi bảy SAI MA Chính tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La
Duyệt Kỳ tại Tinh xá rừng Trúc, với vô số đệ tử ở đó. Bấy giờ có một người dòng Bà la môn, nhà nghèo,
tuy có chăm làm nhưng cũng không đủ ăn, đủ mặc, anh nghèo ấy hỏi người
ta rằng: - Ở thế gian làm những hạnh gì được phúc báu
hiện tại? Có người mách bảo rằng: - Anh không biết ư? Hiện nay Đức Phật xuất thế
độ sinh, làm lợi ích cho tất cả muôn loài. Ngài có bốn vị tôn đệ tử là:
MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ
này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh
đau khổ. Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy,
thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện. Anh chàng Bà la môn nghe mọi người đều nói như
vậy, rất vui mừng! Tự đi làm thuê được món tiền nhỏ đem về mua sắm các
món ăn, sửa soạn trai nghi trịnh trọng mời các vị Hiền Thánh Tăng đến
nhà cúng dàng với lòng thành kính, thiết tha cầu phúc báu hiện tại. Vợ
anh tên là Sai Ma (Tàu dịch: An Ổn). Các vị tôn đệ tử tới nhà dùng cơm xong, thuyết
pháp cho vợ chồng anh nghe như sau: - Tội phúc, như bóng theo hình, như vang ứng
tiếng, trồng nhân gì sẽ kết quả ấy. Muốn cho tội chướng tiêu trừ, phúc
đức lớn lao, phải biết tôn kính ngôi Tam bảo, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới;
Bát Quan Trai giới, bố thí, cúng dàng, thì đời hiện tại, hay tương lai
muốn cầu gì cũng được toại nguyện. Vợ chồng cúi đầu lễ kính, xin thọ trì Tam Quy,
Ngũ Giới và Bát Quan Trai giới, truyền giới xong các vị trở về Tinh xá. Bấy giờ vua Bình Sa vào rừng trở về, gặp một
người phạm tội bị trói treo trên đầu cột dựng bên đường. Người có tội ấy xin vua món ăn, nhà vua nhận lời
cho, nhưng về thành quên mất, chợt nhớ ra thì trời đã tối; nhà vua sai
người hầu hạ trong Hoàng cung mang cơm cho tội nhân, nhưng không ai dám
đi, họ thưa với vua rằng: - Tâu Bệ Hạ, giờ đã tối khuya, mãnh thú; ác quỷ
rất nhiều, chúng tôi thà chết ở đây chứ chúng tôi không dám đi. Nhà vua hết sức thương người đó đói khổ, sai
người ra ngoài thành báo cáo rằng: - Đêm nay nếu ai đem món ăn cho người có tội ở
nơi mổ, thì nhà vua thưởng cho ngàn lạng vàng! Không ai dám đi, Sai Ma thường nghe họ nói rằng: - Nếu ai thọ phép Bát Quan Trai giới, thì ma
quỷ, ác thú không dám làm hại! Mạnh dạn với một lòng tin vững chắc, đến xin vua
đi. Khi đi, nhà vua dặn: - Nếu được hoàn toàn trở về, ta sẽ cho ngàn
lạng vàng. Ra đi, Sai Ma chí thành, chí kính trì phép Bát
Quan Trai, ra khỏi thành đã xa xa gặp một con quỷ La sát tên là Lam Bà,
vừa lúc ấy nó mới sinh được năm trăm quỷ con, đương lúc đói thấy Sai Ma
muốn bắt ăn. Nhưng Sai Ma trì trai, quỷ trông thấy sợ hãi không dám ăn,
quỷ hỏi Sai Ma rằng: - Chị đi đâu? Có món ăn cho tôi một chút! - Sai Ma trao cho một chút món ăn, tuy ít nhưng
vì lực của quỷ nên cũng được no đủ. Quỷ La sát hỏi: - Chị tên chi? - Tôi tên là Sai Ma! Quỷ vui vẻ nói: - Hôm nay tôi sinh cháu được
lành mạnh, cũng do phúc của chị, mà tôi được nhiều lợi ích, tôi được
sống, lại được nghe danh hiệu tốt, nhà tôi có cái búa vàng, xin đền đáp
ơn chị, lúc về qua đây, chị nhớ vào lấy. - Dạ, chị có lòng tốt em xin nhớ lời dặn. Quỷ lại hỏi: - Bây giờ chị đi đâu? - Thưa chị, em mang thức ăn cho người có tội ở
nơi mổ! - Tôi có một em gái cũng ở gần đấy, tên là A Lam
Bà, tôi gởi lời thăm và bảo cho biết: Tôi mới sanh được năm trăm cháu,
thân thể lành mạnh. Sai Ma đi tới chỗ quỷ A Lam Bà cũng nói như trên
cho quỷ nghe. A Lam Bà nghe xong vui vẻ hỏi: - Chị tên chi? - Em tên là Sai Ma! Cô quỷ vui vẻ nói: - Chị tôi sinh được lành
mạnh, tên cô cũng tốt lành lắm, nhà tôi có cái búa vàng, xin biếu cô,
lúc về nhớ vào qua mà lấy. - Dạ, quý hóa! Chị có lòng tốt tôi xin nhận! Cô quỷ lại hỏi: - Bây giờ cô đi đâu? - Thưa chị, theo lệnh nhà vua em mang món ăn,
cho tội nhân nơi mổ! Cô quỷ A Lam Bà nói: - Tôi cũng có một người em
tên là Phân Na Kỳ ở gần đấy, tôi gởi lời hỏi thăm. Sai Ma từ giã cô quỷ, đi đến chỗ quỷ Phân Na Kỳ,
cũng đem lời hỏi thăm của hai bà chị nói cho nghe, và nói thêm bà chị cả
sinh được năm trăm cháu đều vô sự. Được tin hai bà chị bình an rất vui
vẻ và hỏi: - Cô tên chi? - Tôi tên là Sai Ma! - Tên cô tốt lành, và được tin hai chị tôi mạnh
khỏe, thực là quý hóa! Nhà tôi có cái búa vàng xin biếu cô, lúc về qua
đây nhớ vào lấy. - Quý hóa, có lòng cho, tôi xin nhận. Sai Ma đi một lát tới nơi chỗ tội nhân, đưa món
ăn và nói rằng: - Nhà vua cho món ăn này, anh lấy mà dùng cho
khỏi đói! Anh vui mừng! Nhận cơm, và cảm tạ một cách rất
tha thiết. Sai Ma trở về lấy ba cái búa vàng, và đến nhà vua lấy thưởng
một ngàn lạng vàng. Từ đó vợ chồng Sai Ma được giàu sang sung sướng,
làm nhà cửa mua ruộng nương, nuôi đầy tớ, nhân dân đến làm thuê rất
đông. Vua Bình Sa thấy Sai Ma là người có đức, triệu
vào cung cho làm quan đại thần, được lộc nước ơn vua, nhà lại giàu thêm,
từ đó lòng tín kính Phật Pháp của Sai Ma càng tiến tới. Một hôm Sai Ma sửa soạn trai nghi, mời Phật và
Sư Tăng về nhà cúng dàng. Khi Phật dùng cơm xong Ngài lên tòa thuyết pháp
nói về phúc bố thí và phép trì giới, phép sinh thiên. Sai Ma nghe xong tâm ý sáng tỏ, đắc quả Tu đà
hoàn. Bấy giờ tất cả mọi người dự cuộc thuyết pháp
này, ai nấy đều hoan hỷ, phát tâm cúng dàng bố thí, giữ giới tu đức, cúi
đầu lễ tạ mà lui. (Quyển Thứ Bảy Hết)
|