Một hôm trên pháp tòa, đức Phật thuyết giảng về lý nhân quả luân 
				hồi, Ngài nói:
				
				Ngày 
				xưa có một vị vua rất mực đạo đức, công bằng, bốn phương thiên 
				hạ đều ngưỡng mộ. Nhà vua đóng đô tại thành Ba-La-Nại. Trên sáu 
				mươi nước chư hầu quy phục. Cung thành có trên năm trăm thớt voi 
				thiện chiến, và trên hai chục ngàn cung phi mỹ nữ trẻ đẹp.
				
				Tuy uy 
				danh vang lừng bốn phương, nhưng nỗi buồn thầm kín của nhà vua 
				là không có thái tử để kế tự. Nên việc nối dõi tông đường lúc 
				nào cũng làm cho nhà vua suy tư lo nghĩ. Nhà vua thường phát tâm 
				bố thí bần dân, khuyên trăm họ ăn ở hiền lành. Hằng ngày, ngoài 
				việc triều chính ra, nhà vua ngày đêm ăn chay nằm đất khấn Phật 
				cầu trời cho được một hoàng nam để nối nghiệp đế vương, để cho 
				dòng tôn thất của nhà vua khỏi bị vô nhân kế tự. Suốt mười hai 
				năm trầm tư khấn cầu như thế, hoàng hậu và thứ hậu mới cùng lúc 
				thọ thai sanh ra hai hoàng tử. Ðặc biệt hoàng tử của chánh hậu 
				thì tướng mạo khôi ngô anh tuấn, có đức tướng trượng phu.
				
				Sau khi 
				hai hoàng tử chào đời, nhà vua vui mừng trút hết bao nỗi ưu sầu 
				trong suốt mười mấy năm lo âu. Nhà vua hội họp quần thần, và cho 
				mời thầy tướng số giỏi nhất trong nước đến để xem tướng cho thái 
				tử. 
				Vừa 
				thấy con của chánh hậu, các thầy tướng nhìn kỹ một hồi rồi nói: 
				"Tâu Bệ-hạ, khi thọ thai thái tử và khi thái tử sanh ra có điều 
				chi lạ không?"
				
				Vua 
				phán: "Từ ngày thọ thai thái tử thì đặc biệt tánh tình hoàng hậu 
				trở nên hiều lành đôn hậu, khoan dung đại độ, lúc nào cũng lộ vẻ 
				tươi cười dịu dàng, lại hay làm việc bố thí giúp đỡ người khác".
				
				Các 
				thầy tướng thưa rằng: "Ðấy là nhờ thiện nghiệp của thái tử mà 
				cảm hóa tánh tình của hoàng hậu. Vậy theo chúng tôi, xin tâu 
				Thánh-thượng, tên thích hợp nhật đặt cho thái tử là Thiện-Hữu".
				
				Các 
				thầy tướng lại xoay sang nhìn kỹ con của thứ hậu một hồi lâu rồi 
				cũng hỏi giống như trước, được quan Thái-giám trả lời rằng: "Từ 
				khi thứ hậu thọ thai cho đến khi sanh hoàng nam đến nay, tánh 
				tình của thứ hậu bỗng trở nên kiêu căng ngạo nghễ, tham ác ích 
				kỷ, ăn nói cộc cằn, ưa chấp trách oán giận người khác, thật khác 
				hẳn ngày trước".
				
				Các 
				thầy tướng thưa rằng: "Ấy là do nghiệp ác của hoàng nam ảnh 
				hưởng đến tánh tình của thứ hậu".
				
				Nhà vua 
				hỏi: "Vậy theo các khanh thì nên đặt tên gì cho hoàng tử?"
				
				Các 
				thầy tướng số bấm tay suy tư ngập ngừng một hồi rồi tâu vua 
				rằng: "Tâu Bệ-hạ, theo sở kiến của các hạ thần chúng tôi thì nên 
				đặt tên cho hoàng tử là Ác-Hữu".
				
				Thời 
				gian thấm thoát trôi qua, hai hoàng tử lớn khôn theo năm tháng. 
				Hoàng tử Thiện-Hữu càng lớn, tướng mạo càng lộ vẻ khôi ngô anh 
				tuấn của bậc trượng phu, tánh tình càng đôn hậu thông minh bình 
				dị, lại hay tha thứ thương giúp người. Vì thế, nên vua và hoàng 
				hậu rất mực vui mừng thương mến. Triều đình các quan và hoàng 
				thân quốc thích đều kính yêu. Trái lại, hoàng tử Ác-Hữu thì 
				nghịch ác, đố kỵ tìm cách chống báng phá hại, ăn nói cộc cằn, 
				tánh tình nóng nảy, lại hay nói xấu hoàng tử Thiện-Hữu.
				
				Một hôm 
				hoàng tử Thiện-Hữu xin vua cha ra cung thành dạo chơi, thấy trâu 
				kéo cầy dưới làn roi đánh, người cấy mạ chân tay lấm bùn sình, 
				mình mẩy mồ hôi nhễ nhại dưới ánh nắng. Ðó đây trên dãy đồng 
				trùng dế bị lưỡi cầy cắt đứt chúng dẫy dụa trên mặt đất. Chim 
				tranh nhau chụp mổ cắn nuốt. Ðây là kẻ giết heo bò, để lấy thịt. 
				Kia là người quay tơ dệt vải không hở tay. Nọ là kẻ ăn xin tật 
				nguyền đói rách. Cảnh tượng người vật vất vả chân lấm tay bùn, 
				mồ hôi cực nhọc. Cảnh khôn hiếp dại, mạnh hiếp yếu hiển bày 
				trước mắt. Thiện-Hữu lấy làm lạ và khởi tâm thắc mắc. Bởi vì từ 
				ngày sanh ra đến nay, thái tử Thiện-Hữu sống trong bốn bức tường 
				của hoàng thành vây kín, ngày ngày chỉ thấy hoa thơm cỏ lạ, nhạc 
				múa đờn ca của các cung phi mỹ nữ trong cung thành, chứ chưa có 
				một lần nào thấy được thực trạng cuộc sống của người dân. Nên 
				thái tử hỏi quan hầu: "Tại sao người ta sống trong cảnh tượng 
				khổ sở như thế?"
				
				Quan 
				hầu thưa: "Tâu thái tử! Người sống nhờ ăn uống. Muốn có thức ăn 
				uống thì phải dãi nắng dầm mưa, cầy sâu cuốc bẫm để trồng trọt, 
				giết thú vật để lấy thịt; muốn ấm thì phải quay tơ dệt vải để 
				may áo quần. Dân mạnh nước giàu là nhờ những bàn tay cần cù khổ 
				cực đó. Cung thành vững chắc, ngôi vua trường tồn, thái tử sống 
				trên ngôi vị tôn quý an vui, đều nhờ những người dân cần cù lam 
				lũ nầy, họ ngày ngày vất vả cực nhọc để xây đắp nguồn sống cho 
				quốc gia hoàng triều".
				
				Thái tử 
				suy tư hồi lâu rồi thở dài: "Sự sống sống trên sự chết! Sự vui 
				vui trên sự khổ! Mạnh được yếu thua, khôn hiếp dại. Cuộc sống 
				được xây đắp trên sự tàn hại lẫn nhau! Ôi! Sao kiếp sống nhân 
				sanh chất chồng bất công và tàn nhẫn thế này!"
				
				Không 
				còn vui thú để tiếp tục du ngoạn nữa. Thiện-Hữu hiện nỗi ưu tư 
				trên nét mặt, liền hỏi nguyên nhân. Thiện-Hữu thuật cho vua cha 
				cảnh tượng tai nghe mắt thấy trong chuyến du ngoạn ngoài thành, 
				khiến cho Thiện-Hữu u buồn. Vua cha khuyên Thiện-Hữu: "Ðó là lẽ 
				thường tình của thế nhân thời nào mà chẳng có? Sao con lại ưu tư 
				lo phiền làm chi?"
				
				
				Thiện-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương! Con muốn xin Phụ-vương một điều, 
				chẳng biết Phụ-vương có hứa khả không?"
				
				Nhà vua 
				vì quá thương con, nên chẳng cần suy nghĩ do dự, liền đáp: "Con 
				là đứa con ngoan của cha! Cha thương yêu con nhất đời, không 
				điều gì con xin mà cha từ chối, miễn là con được vui".
				
				
				Thiện-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương! Con muốn đem của cải vàng bạc 
				trong kho ra bố thí cho dân chúng, để họ đỡ bớt nỗi cực khổ, hy 
				vọng có được đời sống sung túc".
				
				Nhà vua 
				đáp: "Không trở ngại. Cha đồng ý cho con được mãn nguyện".
				
				Ðược 
				Phụ-vương cho phép, Thiện-Hữu vui mừng khôn xiết, liền lạy tạ 
				vua cha, đồng thời ra lệnh cho quan hầu mở cửa kho đem lương 
				thực, của báu ra ngoài bốn cửa thành bố thí. Hay tin thái tử bố 
				thí, dân chúng gần xa khắp bốn phương nô nức lũ lượt hướng về 
				hoàng cung để nhận vật bố thí của Thiện-Hữu. Việc bố thí chẳng 
				bao lấu đã hết một phần ba số kho lương thực của báu trong hoàng 
				triều. Các quan giữ kho thấy vậy lo âu, nên vào tâu vua: "Muôn 
				tâu Thánh-thượng, thái tử đã bố thí hết một phần ba trong số các 
				kho lương thực của triều đình rồi, cúi mong Thánh-thượng mau mau 
				xét lại". 
				
				Nhà vua 
				phán rằng: "Trẫm đã hứa cho thái tử tự tiện bố thí tùy ý mình. 
				Vậy phải làm sao bây giờ?"
				
				
				Thiện-Hữu chẳng hay biết việc gì xảy ra, với lòng phấn khởi, cứ 
				vẫn tiếp tục tuôn của kho ra bố thí. Quan giữ kho thấy lương 
				thực gần hết, chỉ còn một phần ba số kho lương thực mà thôi, nên 
				lo lắng nóng ruột vào tâu vua. Nhà vua lại cũng trả lời như 
				trước. Thiện-Hữu chẳng để ý gì, vẫn tiếp tục bố thí. Ðến khi các 
				quan giữ kho thấy lương thực của báu trong các kho của triều 
				đình gần hết sạch, mới lo sợ nghĩ rằng: Triều đình vững chắc , 
				quốc gia xã tắc hùng mạnh là nhờ những kho lương thực của báu 
				này. Nay nếu để cho thái tử đem ra bố thí hết sạch thì nhất định 
				quốc gia sẽ nguy cơ. Họ liền kéo nhau vào bệ kiến vua và tâu tự 
				sự. Nhà vua nghe qua cũng đâm ra lo lắng, nhưng đã lỡ hứa với 
				thái tử Thiện-Hữu rồi chẳng biết phải làm sao, nên phán rằng: 
				"Giờ đây tùy sáng kiến của các khanh định liệu, bí mật tìm cách 
				giữ kho lại, nhưng đừng cho thái tử biết có ý kiến của ta".
				
				Nhe nhà 
				vua phán như thế, các quan giữ kho mừng rỡ, họ liền cùng nhau 
				khóa chặt các kho và lánh mặt nơi khác. Thiện-Hữu không tìm ra 
				họ, đành chịu, không cách nào lấy của kho để tiếp tục bố thí 
				nữa. Nhưng hình ảnh người dân đói nghèo cực khổ cứ lảng vảng 
				trong đầu óc Thiện-Hữu làm cho thái tử ăn ngủ không yên. Thái tử 
				đã hỏi ý kiến của các quan đại thần trong triều làm cách nào có 
				được nhiều tiền để bố thí. Mỗi người mỗi ý kiến khác nhau. Người 
				thì bảo thái tử nên có nhiều ruộng đất canh tác trồng trọt để có 
				được nhiều lúa gạo bông sợi. Người thì thưa với thái tử nên chăn 
				nuôi nhiều súc vật để lấy sữa, thịt v.v... Nhưng trong số đó có 
				một đại thần đầu triều khuyên thái tử nên đi tìm ngọc Như-Ý 
				Ma-Ni bảo châu thì sẽ được toại nguyện. Ngọc ở biển khơi, nằm 
				tại nơi Long-vương. Nghe đến đây, Thiện-Hữu rất đỗi vui mừng 
				liền vào xin vua cha cho phép được đi biển tìm ngọc Như-Ý Ma-Ni.
				
				Nhà vua 
				vừa nghe Thiện-Hữu thưa, thì rất đỗi ngạc nhiên lo sợ, than 
				rằng: "Con là vị thái tử, từ bé đến giờ quen sống trong nhung 
				lụa ngọc ngà, kẻ hầu người hạ. Bây giờ lại ra biển khơi sóng dồi 
				gió đập sẽ gặp không biết bao là tai biến hiểm nguy của sóng 
				nước ba đào, gió mưa bão táp, giặc cướp, cá dữ. Xưa nay trăm 
				người đi chỉ một hai người trở về. Giang sơn của cha đây thanh 
				bình thạnh trị cũng là giang sơn của con. Từ từ rồi con toại 
				nguyện bố thí có gấp chi đâu. Sao con lại chọn cho mình việc làm 
				nguy hiểm như thế?"
				
				Nghe 
				vua cha khuyên can như vậy, Thiện-Hữu nằm lăn ra đất buồn khóc 
				suốt tám ngày liền không ăn bỏ ngủ. Mặc dầu vua và hoàng hậu 
				cũng như đình thần khuyên giải, nhưng Thiện-Hữu đã quyết tâm. 
				Cuối cùng vì lo đến tánh mạng của Thiện-Hữu ngày một suy kiệt, 
				nên nhà vua đành lòng chiều thuận cho. Khi được vua cha chấp 
				nhận, Thiện-Hữu ngồi dậy, sắc mặt tươi tỉnh hớn hở, ôm hôn chân 
				vua và hoàng hậu rồi thành kính lạy tạ.
				
				Nhà vua 
				truyền lịnh trong nhân gian, nếu ai cùng đi với thái tử 
				Thiện-Hữu ra biển cả để tìm ngọc Ma-Ni, khi trở về sẽ được trọng 
				thưởng vàng bạc cho suốt cả bảy đời con cháu.
				
				Dân 
				chúng nghe được thánh chỉ này, trên năm trăm người đến hoàng 
				cung ra mắt vua để tình nguyện cùng đi biển với thái tử. Lúc bấy 
				giờ trong nước có nhà mạo hiểm về biển cả, nổi tiếng đầy kinh 
				nghiệm. Tuổi ông tuy đã tám mươi, nhưng vẫn còn sáng suốt khỏe 
				mạnh. Vì quá thương lo cho thái tử, nhà vua đích thân đến nhà 
				mời lão này cùng đi với Thiện-Hữu.
				
				Lão 
				nói: "Ôi! Biển cả đầy hiểm nguy, số người ra đi đến hàng vạn mà 
				khi về chỉ còn một hai. Tâu Bệ-hạ! Thái tử còn quá trẻ, lại quen 
				sống trên nhung lụa ngọc ngà, nỡ nào ngài lại vì ngọc quý mà sai 
				thái tử đến chỗ hiểm nguy như thế?"
				
				Nghe 
				câu nói của lão, nhà vua lại càng trầm buồn xót xa đáp: "Trẫm 
				nào có muốn thế! Trẫm và hoàng hậu cùng quần thần đã hết lời 
				khuyên thái tử, nhưng lòng thái tử đã quyết đi tìm cho được ngọc 
				Như-Ý Ma-Ni để về bố thí cho dân chúng. Ta đành bóp bụng phải 
				ưng thuận đó thôi!"
				
				Nghe 
				thế, lão cảm động xin tình nguyện cùng đi với thái tử Thiện-Hữu.
				
				Sau khi 
				được phụ hoàng ưng thuận cho, Thiện-Hữu lo sắp đặt lương thực, 
				áo quần, thuyền bè cho năm trăm người lái thuyền cùng đi ra biển 
				cả. Trong khi đó, Ác-Hữu nghĩ bụng rằng: "Thiện-Hữu vốn đã được 
				cha mẹ thương mến nay lại đi biển tìm châu ngọc, nếu thành công 
				thì lại càng được sự yêu dấu của phụ hoàng và đình thần hơn nữa. 
				Còn ta thì sẽ bị coi chẳng ra gì". Nghĩ vậy rồi liền xin vua cha 
				để được đi với thái tử Thiện-Hữu.
				
				Vua 
				hỏi: "Con đi biển để làm gì?"
				
				Tâu phụ 
				vương: "Con muốn cùng đi với anh con cho có bạn, để chia xẻ nỗi 
				khổ cực hiểm nguy".
				
				Nhà vua 
				nghe thế liền phán: "Ðược! Như thế thì tốt lắm! Anh em con giúp 
				đỡ săn sóc cho nhau".
				
				Nói về 
				Thiện-Hữu, khi hành trang chuẩn bị đâu đó xong rồi, Thiện-Hữu ra 
				lệnh cho neo tất cả thuyền tại bờ biển bảy ngày. Mỗi ngày sau 
				bữa cơm sáng, Thiện-Hữu ra lệnh đánh trống tập hợp tất cả thuyền 
				nhân lại và lên đài tuyên bố to rằng: "Trong các người, có ai vì 
				vướng mắc vợ con cha mẹ không muốn đi, thì cứ tự tiện ra về. Còn 
				ai muốn cùng ta đi ra biển cả tìm ngọc Như-Ý Ma-Ni, thì im 
				lặng". 
				Sau bảy 
				ngày, thuyền nhổ neo nhắm biển khơi lướt sóng. Ròng rã hơn tháng 
				trời mới thấy một hòn đảo đầy ngọc, lóng lánh dưới ánh nắng mặt 
				trời. Thiện-Hữu cho thuyền đậu lại và truyền lệnh cho mọi người 
				tự tiện mặc tình nhặt lấy vàng ngọc, rồi trở lại quê hương để 
				nuôi vợ con quyến thuộc. Còn Thiện-Hữu cùng với lão già kinh 
				nghiệm biển cả kia tiếp tục cuộc hành trình tìm ngọc Như-Ý 
				Ma-Ni. 
				Trước 
				cảnh phân ly đôi đường, kẻ về người đi tạo nên bao nỗi sầu bi 
				nước mắt. Thiện-Hữu khước từ tất cả những người nguyện xin theo 
				mình đến bước cuối cùng cuộc hành trình tìm ngọc báu. Bởi 
				Thiện-Hữu e ngại về cha mẹ vợ con của họ trông đợi họ. Và chính 
				họ cũng không khỏi nhớ thương những người thân, đã khuyên họ nên 
				mang vàng bạc trở về với gia đình. Năm trăm thuyền nhân quay 
				thuyền trở lại đất liền, còn Thiện Hữu tiếp tục cuộc hành trình 
				với lão già tám mươi tuổi.
				
				Hai 
				người đã băng núi vượt biển tiến về hướng Ðông Bắc. Hai bóng 
				người song song trải qua mấy dãy núi bạc, núi vàng. Hơn hai 
				tháng trời leo núi lội biển, lão già đã ngã quỵ. Thiện-Hữu ôm 
				lấy lão già vào người đấm bóp an ủi. Lão biết sức mình đã kiệt, 
				năng lực không còn, nên trong giọng nói hổn hển yếu ớt đứt 
				quãng, lão chỉ rõ hướng đi và khuyến khích thái tử Thiện-Hữu hãy 
				cố gắng đạt mục đích. Giọng nói của lão yếu dần yếu dần ... Lão 
				rùng mình một cái rồi ngã lăn tắt thở.
				
				Giờ 
				đây, Thiện-Hữu một mình một bóng nhắm hướng Ðông Bắc mà đi, trải 
				qua bãi biển bạc mênh mông, rồi băng qua bãi biển vàng rộng lớn. 
				Cuối cùng vượt qua ba cái đầm pha lê, trong đó nở đầy hoa sen 
				trắng, hoa sen xanh đỏ. Thiện-Hữu thấy trước mắt hiện ra bức 
				thành cao bằng vàng với cửa tam quan bằng bảy báu. Thiện-Hữu xin 
				phép Long Thần giữ cửa để được vào yết kiến Long-vương. Các 
				Long-nữ đưa Thiện-Hữu vào bệ kiến.
				
				
				Thiện-Hữu kể hết bao nỗi cực nhọc khổ nguy, thập tử nhứt sanh về 
				cuộc hành trình.
				
				
				Long-vương hỏi: "Với mục đích gì mà nhà ngươi phải chịu cực khổ 
				lặn lội đến đây?"
				
				Thiện 
				Hữu đáp: "Muôn tâu Long-vương! Dân chúng trong nước tôi nghèo 
				khổ. Vì muốn cứu giúp cho họ được no cơm ấm áo mà tôi không màng 
				vượt biển cả vạn dặm thập tử nhứt sanh đến đây cầu xin 
				Long-vương rủ lòng thương xót cho tôi được xin ngọc Như-Ý Ma-Ni 
				để tôi có phương tiện bố thí theo ý muốn".
				
				
				Long-vương cảm kích người có lòng nhân từ nên nhận lời, đồng 
				thời mời Thiện-Hữu lưu lại Long-cung một tuần lễ để thăm viếng 
				và đàm đạo. Thiện-Hữu nhận lời. Trong thời gian lưu lại nơi đây, 
				ngày ngày Thiện-Hữu được mời đi thăm viếng lâu đài điện ngọc 
				bằng lưu ly pha lê, đất đai cây cỏ toàn bằng vàng bạc, núi bằng 
				ngọc ngà, sông suối bằng pha lê, nước bằng lưu ly. Ðêm đêm yến 
				tiệc linh đình, đờn ca múa hát đủ thứ khoái lạc vui chơi. Sau 
				bảy ngày, Thiện-Hữu từ tạ Long-vương trở về nước. Trên đường về, 
				Long-vương phái hai tướng rồng đưa đến mé biển, nơi núi vàng đầu 
				tiên mà Thiện-Hữu đã cho các thuyền nhân cập bến lấy vàng và 
				chia tay. Ðồng thời nơi đây, gặp lại Ác-Hữu.
				
				Vừa 
				thấy Ác-Hữu, Thiện-Hữu mừng rỡ hỏi: "Bây giờ năm trăm người kia 
				ở đâu em?" 
				
				Ác-Hữu 
				đáp: "Năm trăm thuyền nhân kia, vì sóng to gió lớn, nên đã đắm 
				thuyền chết hết cả rồi. Riêng em nhờ ôm được mảnh ván trôi dạt 
				vào đây, nên còn được sống sót đến ngày nay để chờ anh".
				
				Nghe 
				xong, Thiện-Hữu ngước mắt lên trời vừa mừng vừa than: "Ôi! Ðời 
				người quá vô thường. Ta thương họ, nên cho họ ở lại lấy vàng để 
				trở về quê quán được giàu sang với cha mẹ vợ con. Nào ngờ đâu 
				xảy ra cảnh tử biệt thê thảm đến thế nầy".
				
				Thấy 
				Thiện-Hữu trầm ngâm suy tư, Ác-Hữu hỏi: "Hơn hai tháng trời anh 
				đi nơi nào, có tìm được ngọc quý không?"
				
				
				Thiện-Hữu đáp: "Anh đã đến Long-cung xin được ngọc Như-Ý Ma-Ni. 
				Ngọc quý nầy giúp cho anh muốn gì được nấy. Từ đây anh sẽ có đủ 
				phương tiện bố thì thần dân, làm điều lợi ích cho xứ sở".
				
				Ác-Hữu 
				nghe nói như thế, long tham cuồn cuộn trào dâng ngập tràn tim 
				óc, không còn khống chế được nữa! Lòng Ác-Hữu sôi sục thúc dục 
				nghĩ mưu tìm cách đoạt lấy, nên nói với Thiện-Hữu rằng: "Ngọc 
				quý giá như vậy cần phải hết sức cẩn thận. Nếu mất thì không còn 
				cơ may có lại được. Hay là anh em mình thay phiên nhau giữ gìn, 
				hễ khi anh ngủ thì em giữ nó, và khi em ngủ thì anh giữ gìn. Như 
				thế thì chắc chắn không bị mất".
				
				
				Thiện-Hữu nghe có lý, liền lấy viên ngọc quý cất kỹ trong đầu 
				tóc đem ra trao cho Ác-Hữu giữ lấy, rồi nằm dưới gốc cây cổ thụ 
				ngủ ngon lành. Trong khi Thiện-Hữu an nhiên ngủ say, thì Ác-Hữu 
				lòng bồn chồn không yên, liền nảy sanh ý nghĩ: "Hắn vốn đã được 
				cha mẹ thương mến cưng chìu, nay lại được ngọc Như-Ý Ma-Ni bảo 
				châu nữa, thì chắc ta sẽ bị phụ hoàng, mẫu hậu và cả triều đình 
				coi rẻ như đồ mảnh sành chén bể". Càng nghĩ, lòng càng uất ức, 
				cơn ganh tức lên tới cực độ. Ác-Hữu liền tìm thanh tre bén nhọn, 
				không một chút do dự, đâm mạnh vào hai mắt Thiện-Hữu, rồi mang 
				ngọc Như-Ý đi.
				
				
				Thiện-Hữu đang ngủ say, bỗng nhiên bị cây đâm sâu vào đôi mắt 
				đau nhức vô cùng, kêu la cầu cứu. mắt mù quờ quạng gọi em, nhưng 
				không thấy Ác-Hữu lên tiếng, tưởng là bị cướp giết đoạt lấy châu 
				ngọc. Thiện-Hữu đau nhức than khóc, khóc vì bản thân đau nhức, 
				khóc vì thương em đã mất tăm tích đâu rồi!
				
				Tiếng 
				khóc than thê thảm động đến trời đất. Vị thần cây hiện ra nói: 
				"Ðừng khóc than nửa. Không phải kẻ cướp hại ngươi, mà chính em 
				ngươi là Ác-Hữu đã dùng thanh tre đâm vào mắt ngươi để đoạt lấy 
				ngọc quý. Nó đã lấy ngọc đi rồi!"
				
				Từ khi 
				đoạt được ngọc quý, Ác-Hữu mừng rở liền trở về thành Ba-La-Nại 
				vào ra mắt vua cha. Vua và hoàng hậu thấy Ác-Hữu trở về, lòng 
				mừng vô cùng mừng vui và hỏi về Thiện-Hữu đâu không thấy về? 
				Ác-Hữu thưa: "Tâu Phụ-vương và Mẫu-hậu! Tất cả đều chết hết, chỉ 
				còn lại một mình con. Lại nhờ phước đức mà con lấy được ngọc 
				Như-Ý Ma-Ni đem về đây". Nghe Thiện-Hữu đã chết, Vua và 
				Hoàng-hậu như sét đánh vào đầu, cả hai người đều bất tỉnh ngã ra 
				than khóc, chẳng để ý gì đến ngọc quý của Ác-Hữu trình khoe.
				
				Nói về 
				Thiện-Hữu, từ ngày bị mù, một mình la lết rày đây mai đó. Một 
				hôm nọ, có đàn bò đi ngang qua đụng té, người chăn bò thấy tội 
				nghiệp liền chạy tới đỡ Thiện-Hữu dậy, và đưa về nhà cho ăn uống 
				săn sóc. Sau hơn bảy ngày, Thiện-Hữu xin đi, cha mẹ người chăn 
				bò cố lưu lại, nhưng Thiện-Hữu nói: "Nếu hai bác có lòng thương 
				giúp cháu, thì cho cháu xin một cây đờn và đưa cháu ra chỗ chợ. 
				Như thế là quý hóa lắm rồi, và cháu suốt đời xin đội ơn cứu giúp 
				của hai bác". Thiện-Hữu được toại nguyện.
				
				
				Thiện-Hữu có tài đờn giỏi, tiếng đờn réo rắt khi bổng lúc trầm, 
				khiến cho người nghe tâm thần ảo não xao xuyến cõi lòng. Một hôm 
				nọ, hoàng hôn phủ trên vạn vật, người giữ vườn nhà vua nghe 
				tiếng đàn réo rắt, lòng cảm thấy bang khuâng tìm đến người khảy 
				đàn. Thấy một chàng thanh niên mù, mặt mày khôi ngô, dáng điệu 
				trượng phu, người giữ vườn lén đưa chàng mù vào vườn ngự uyển để 
				chuyện trò cho có bạn, và được dịp thưởng thức tiếng đàn.
				
				Một 
				ngày nọ, vào một bình minh trời đẹp, công chúa và các tỳ nữ đi 
				dạo vươn hoa, bỗng nghe tiếng đàn thanh tao tuyệt diệu phát ra 
				từ một góc vườn. Công chúa và các tỳ nữ lần bước đến chỗ phát ra 
				tiếng đàn. Lắng tai nghe, công chúa càng cảm thấy trong lòng rạo 
				rực, tiếng đàn có sức cuốn hút lạ thường, nên quên về cung. Vua 
				cha hay tin truyền lệnh triệu hồi, nhưng công chúa mải mê tiếng 
				đàn vẫn chưa chịu hồi cung, làm cho vua cha cả giận phải đích 
				thân ra chỗ người mù khảy đờn.
				
				Nhà vua 
				quan sát thấy công chúa càng nhìn người mù khảy đờn, càng say 
				đắm ngắm mãi không chán. Công chúa bị bắt buộc theo vua cha về 
				cung. Suốt đêm hôm ấy, công chúa trằn trọc không ngủ được. Hình 
				ảnh người mù và tiếng đàn réo rắt đã chiếm trọn cõi lòng công 
				chúa. Không nén được nỗi nhớ thương, công chúa đã thưa với phục 
				vương và hoàng hậu: "Tâu Phụ-vương! Con muốn Phụ-vương và 
				Mẫu-hậu cho phép con được sống với người khảy đàn kia".
				
				Trước 
				lời thưa bất ngờ của công chúa, nhà vua vừa cảm thấy xấu hổ vừa 
				tức giận phán rằng: "Cha đã hứa gã con cho Ðông cung thái tử 
				Thiện-Hữu thành Ba-La-Nại rồi, nay thái tử đi biển tìm ngọc quý 
				chưa về. Cớ sao con lại đòi được gả cho người mù nghèo khổ này, 
				có phải con đã điên rồi chăng?" Ðồng thời nhà vua hạ lệnh bắt 
				giam người mù vào ngục. Công chúa lạy lục van xin vua cha tha 
				cho, nhưng không được.
				
				Từ khi 
				Thiện-Hữu bị giam vào ngục, công chúa nhớ thương, nên ngày ngày 
				lén vào ngục để thăm Thiện-Hữu. Thân gần ngày tháng dài lâu, 
				công chúa cảm thấy Thiện-Hữu tâm lượng thanh cao, tánh tình tao 
				nhã, trí thức hiểu biết quảng bác, nên đem lòng kính yêu. Khi 
				lửa tình nung nấu cõi lòng lên đến cao độ, công chúa không còn 
				đủ sức dấu kín nỗi lòng, nên một hôm thố lộ với Thiện-Hữu, xin 
				kết nghĩ trăm năm.
				
				
				Thiện-Hữu nói: "Nàng đường đường là một công chúa con vua một 
				nước, ngôi cao tước cả, muôn dân trọng vọng. Còn tôi là kẻ mù 
				lòa sống nhờ tiếng đàn, lang thang khắp chốn, đâu dám sánh 
				cùng". 
				Công 
				chúa nói: "Nhân duyên thiện cảm, nhân cách tâm lượng con người 
				đâu phải chỉ hạn cuộc nơi giai cấp giàu sang vua chúa?"
				
				
				Thiện-Hữu nói: "Cảm ơn lòng tốt của công chúa. Nhưng thật tình 
				tôi không dám. Nếu vua biết được việc này, thì tôi bị chém đầu".
				
				
				Công-chúa nói: "Việc nầy để em lo".
				
				Một hôm 
				nhân lúc vua cha và mẫu hậu vui vẻ, công chúa bày tỏ việc thương 
				yêu Thiện-Hữu. Vua cha bất ngờ kinh ngạc, liền trợn mắt nghiêm 
				sắc mặt nhìn thẳng vào công chúa mà phán rằng: "Con điên rồi sao 
				chứ? Con đường đường là công chúa của một nước, cao sang quyền 
				quý tột đỉnh hơn người, sao lại muốn kết hôn với kẻ ăn mày mù 
				lòa tù đày?" 
				
				Công 
				chúa đã tha thiết trình bày nhân cách phong độ, kiến thức quảng 
				bác của Thiện-Hữu, và lòng yêu thương của mình, rồi một mực khẩn 
				cầu vua cha cho thành hôn với Thiện-Hữu. Nhưng nhà vua không 
				những không bằng lòng mà còn nổi giận lôi đình to tiếng nặng lời 
				mắng nhiếc. Công chúa đã đau khổ buồn khóc suốt mấy ngày liền. 
				Lòng lại càng thương nhớ Thiện-Hữu hơn.
				
				Nói về 
				Thiện-Hữu bị giam trong ngục. Sau những ngày được công chúa vào 
				thăm, lòng cảm thấy an ủi vô bờ bến. Thì bỗng nhiên công chúa 
				vắng bặt, không còn vào thăm viếng như mọi ngày. Thiện-Hữu có ý 
				trông với cõi lòng thương nhớ. Nhưng Thiện-Hữu đã linh cảm được 
				điều gì bất trắc xảy ra cho công chúa rồi! Còn về phần công chúa 
				tuy bị vua cha giận dữ khước từ, nhưng không dằn nén được nỗi 
				lòng thương nhớ Thiện-Hữu, nên quyết tâm lấy lại bình tĩnh tiếp 
				tục lén vào ngục thăm. nghe tiếng động, Thiện-Hữu hỏi lớn: "Ai 
				đó?" 
				
				Công-chúa đáp: "Em đây!"
				
				
				Thiện-Hữu với giọng buồn trách: "Công-chúa vào đây chi nữa! Kẻ 
				ăn mày mù lòa này có đáng chi đâu, để cho người cao quý bận tâm, 
				tôi không dám!"
				
				Công 
				chúa nói: "Sao chàng lại nói như vậy?"
				
				
				Thiện-Hữu đáp: "Chẳng phải đã quên kẻ hèn hạ mù lòa nầy rồi sao? 
				Nếu không, mấy ngày vừa qua bặt vô âm tín?"
				
				Công 
				chúa buồn đáp: "Thật oan cho em lắm chàng ơi! Em nào có quên! 
				Một ngày không gặp còn dài hơn ba mùa thu! Nếu em nói dối thì 
				đôi mắt chàng mãi mãi mù lòa. Còn em thật lòng thì xin trời đất 
				chứng cho, để đôi mắt anh được sáng".
				
				Công 
				chúa vừa dứt lời, thì trời sấm sét, mắt trái của Thiện-Hữu sáng 
				ra. Ánh sáng từ mắt của Thiện-Hữu tỏa ra như vì sao sáng, sắc 
				mặt của Thiện-Hữu trở nên anh tuấn phi thường. Công chúa vừa cảm 
				mến vừa khâm phục, mới gạn hỏi thăm quê quán tông tích của 
				Thiện-Hữu. Thiện-Hữu thật tình đáp: "Không dấu gì nàng. Tôi 
				chính là Ðông cung thái tử nước Ba-La-Nại đây".
				
				Vừa 
				nghe, công chúa nói: "Xin chàng đừng nói thế. Tôi biết thái tử 
				Thiện-Hữu đã đi biển khơi để tìm ngọc chưa về".
				
				
				Thiện-Hữu không muốn cho ai biết mình đã bị em hại để đoạt lấy 
				ngọc quý, nên nói với công chúa: "Chính tôi là Thiện-Hữu đã cãi 
				phụ hoàng đi biển khơi tìm ngọc quý, trên đường về nước bị người 
				đâm đui đôi mắt để đoạt lấy ngọc, nên tôi mới ra nông nỗi này!"
				
				Công 
				chúa nói: "Có lẽ chàng bị mù lâu ngày không tiếp xúc với ánh 
				sáng, nay mắt vừa mới được thấy, làm tinh thần điên loạn giao 
				động, nên mới nói sảng thế chăng?"
				
				
				Thiện-Hữu nói: "Thôi xin thề, mong thánh thần trời đất chứng 
				minh cho. Nếu tôi nói dối thì mắt tôi mù trở lại. Bằng như lời 
				nói tôi chân thật, thì xin cả hai mắt tôi đều sáng".
				
				Vừa dứt 
				lời, mắt Thiện-Hữu chớp chớp mấy cái, đôi mắt mở sáng như hai vì 
				sao. Tướng mạo của Thiện-Hữu trở nên khôi ngô anh tuấn lạ 
				thường, làm cho công chúa càng tin tưởng kính phục không còn hồ 
				nghi gì nữa. Công chúa vô cùng mừng rỡ vội chạy vào tâu vua cha 
				tự sự và xin được dẫn Thiện-Hữu yết kiến. Thiện-Hữu trình bày sự 
				tình. Nhà vua lúc đầu không tin, hầm hừ nạt nộ. Nhưng mỗi lúc 
				thấy phong độ đối đáp của Thiện-Hữu không phải là hạng người 
				thường, dần dần nhà vua đem lòng thương mến tin tưởng, mời 
				Thiện-Hữu lưu lại triều đình thời gian tĩnh dưỡng, đồng thời lập 
				tức sai sứ đi gấp đến thành Ba-La-Nại báo tin.
				
				
				Thiện-Hữu bây giờ đôi mắt sáng trở lại như xưa. Nghĩ nhớ ơn 
				người chăn bò giúp đỡ, Thiện-Hữu yêu cầu công chúa xin vua cha 
				đem vàng bạc trọng thưởng cho họ. Người chăn bò rất đỗi ngạc 
				nhiên mừng nói: "Tôi thương giúp đỡ người nghèo mù lòa có ít, mà 
				sao được phước lợi nhiều như thế nầy. Rồi tự giải thích: Nếu như 
				mở lòng từ bi quảng đại giúp đời, thì công đức chắc phải vô 
				lượng vô biên".
				
				Từ 
				triều thần cho đến dân chúng nghe biết chuyện này, ai nấy đều 
				phải tỉnh ngộ, ngâm câu: "Ở hiền thì được gặp lành, giàu sang 
				hạnh phúc dành người từ tâm".
				
				Trong 
				khi sứ giả nước Lý-Chơn-Ban chưa đến thành Ba-La-Nại, vua và 
				hoàng hậu vì quá nhớ thương Thiện-Hữu, nên mất ăn bỏ ngủ khóc 
				đến mờ mắt. Một hôm nghe tiếng chim bạch-hạc của Thiện-Hữu nuôi 
				ngày trước, đang ở trong lồng bỗng nhiên kêu lên thảm thiết. 
				Hoàng hậu xót xa viết thư đeo vào cổ bạch-hạc, rồi an ủi vỗ về 
				chim và nói: "Chủ của con đi biển tìm ngọc quý đã lâu quá rồi mà 
				chưa thấy về, không ai để tâm thương yêu chăm sóc con. Ta thì 
				mất con, còn con thì mất chủ, cả hai cùng chung nỗi đau khổ buồn 
				thương mất mát người yêu mến! Vậy nay ta nhờ con mang thư này 
				tìm Thiện-Hữu, người chủ yêu quý của con. Con hãy hết sức cố 
				gắng để cho có ngày sum họp".
				
				Trải 
				mất ngày trời, bạch-hạc bay khắp nơi trên biển cả, không hoang 
				đảo nào mà không lượn bay tìm kiếm, nhưng bạch-hạc chẳng thấy 
				tông tích Thiện-Hữu đâu cả. Thế rồi, vào một hoàng hôn gió mây 
				hiu hắt, bạch-hạc muốn tìm nơi nghỉ cánh qua đêm, để ngày mai 
				lại tiếp tục bay đi tìm tông tích người chủ yêu quý, thì thấy 
				vườn ngự uyển của vua nước Lý-Chơn-Ban, cây cỏ um tùm, hoa thơm 
				cỏ lạ, liền lượn mấy vòng trên không, muốn tìm chỗ dừng chân 
				nghỉ đêm. Bỗng nhiên liếc thấy trong vườn ngự uyển có đôi trai 
				tài gái sắc dắt nhau ngắm cảnh dạo mát. Bạch-hạc nhìn kỹ thì 
				thấy đấy chính là người chủ của mình. Quá mừng, nên không một 
				chút do dự, liền đáp xuống đậu trên vai Thiện-Hữu. Bất ngờ 
				Thiện-Hữu thấy trên cổ bạch-hạc có mang lá thơ, nỗi vui mừng chủ 
				tớ hội ngộ. Thiện-Hữu liền quỳ lạy, hai tay chấp lấy phong thơ 
				của Mẫu-hậu mở ra xem.
				
				Biết 
				được tự sự, Thiện-Hữu liền viết thư hồi âm rồi đeo vào cổ 
				bạch-hạc. Thiện-Hữu vuốt ve vỗ nhẹ trên thân bạch-hạc với lời an 
				ủi dịu dàng: "Con hãy giúp ta mang thư này về cho Mẫu-hậu ta. Ta 
				và con sẽ đoàn tụ trong ngày gần đây. Ơn của con ta không quên 
				được". Thái tử dứt lời, bạch-hạc vỗ cánh tung bay.
				
				Sau khi 
				biết được chuyện nầy, vua nước Lý-Chơn-Ban liền ra lệnh chuẩn bị 
				hành trang và cho đoàn hộ tống Thiện-Hữu về nước Ba-La-Nại.
				
				Ðược 
				tin Thiện-Hữu về nước, không khí u buồn bấy lâu nay bỗng nhiên 
				tan biến trong khoảng khắc. Từ trong triều, vua quan hoàng thân 
				quốc thích, cho đến ngoài nhân gian bá tánh quốc dân, người 
				người đều lộ vẻ vui mừng. Treo đèn kết hoa trống chiêng nghênh 
				đón thái tử Thiện-Hữu. Niềm hân hoan lộ trên mặt mọi người. 
				Không khí tưng bừng náo nức khắp cả nước từ thành thị đến thôn 
				quê. 
				Tất cả 
				mọi người đón chào Thiện-Hữu trở về, tay bắt mặt mừng, ai cũng 
				muốn ôm chầm lấy Thiện-Hữu. Thiện-Hữu nhìn khắp mọi người như để 
				đáp lễ về sự ngưỡng mộ nồng nhiệt dành cho mình. Nhưng Thiện-Hữu 
				nhìn khắp trong đám đông mấy lượt mà vẫn không thấy Ác-Hữu đâu 
				cả. Hỏi ra mới biết đã bị vua cha hạ lệnh bắt giam vào ngục. 
				Thiện-Hữu xót thương, đã mấy lượt khẩn thiết cầu xin vua cha tha 
				tội cho em. Nhưng vua cha chỉ cho phép Ác-Hữu ra để Thiện-Hữu 
				thăm. Thiện-Hữu thấy em tay chân bị gông cùm đau đớn khổ sở, 
				động lòng trắc ẩn, đã mấy lần quỳ lạy xin vua cha mở lượng hải 
				hà khoan dung cho Ác-Hữu.
				
				Trong 
				lúc vua cha còn lưỡng lự, triều đình các đại thần đồng thanh lên 
				tiếng ngăn cản phản đối: "Quốc gia xã tắc có pháp luật kỷ cương. 
				Vua có công minh, trăm họ mới kính phục, dân nước mới thịnh 
				trị". 
				
				Thiện-Hữu ôm lấy Ác-Hữu vỗ về rơi lệ thở than, rồi hỏi ngọc 
				Như-Ý Ma-Ni bảo châu cất ở đâu. Hỏi đến ba bốn lượt, Ác-Hữu mới 
				ngập ngừng chịu nói.
				
				
				Thiện-Hữu được ngọc Như-Ý Ma-Ni bảo châu rồi, liền đốt hương quỳ 
				trước ngọc quý mà khấn nguyện: "Nếu quả thật ngọc Như-Ý Ma-Ni 
				bảo châu linh diệu muốn gì được nấy, thì xin cho đôi mắt của cha 
				mẹ tôi sáng đẹp như xưa". Lời khấn nguyện của Thiện-Hữu vừa dứt, 
				thì đôi mắt của vua và hoàng hậu trở nên sáng đẹp hơn trước.
				
				Từ ngày 
				được ngọc Như-Ý, Thiện-Hữu dốc lòng lo việc bố thí giúp đỡ muôn 
				dân. Khắp bốn phương thiên hạ ai nấy đều được ấm no hạnh phúc, 
				sống trong thanh bình lạc nghiệp. Người người lớn nhỏ đều lo tu 
				tâm dưỡng tánh, làm việc phước lành, sống trong quốc gia thạnh 
				trị thái bình.
				
				Ðến 
				đây, đức Phật nói với A-Nan rằng: "Vua và hoàng hậu xứ Ba-La-Nại 
				thời xưa, chính là Phụ-vương Tịnh-Phạn và Mẫu-hậu Ma-Da của ta 
				ngày nay. Hoàng tử Ác-Hữu ngày xưa, chính là tiền thân của Ðề-Bà 
				Ðạt-Ða ngày nay. Còn thái tử Thiện-Hữu thời quá khứa đó, chính 
				là tiền thân của Như-Lai ngày nay vậy.
				
				
				
				